27/04/2024 05:37Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Ngôn hoài
言懷

Tác giả: Ngô Thì Nhậm - 吳時任

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Tây Sơn
Đăng bởi Vanachi vào 13/08/2006 11:09

 

Nguyên tác

津送員弁畏簡書,
天倫催召敢遑居。
正愁飛驛雨無正,
卻笑奔泉駒不如。
推彼順流情所以,
見余趨事義之於。
勤勞自古長生劑,
何必高堂坐擁爐。

Phiên âm

Tân tống viên biền uý giản thư,
Thiên luân thôi triệu cảm hoàng cư.
Chính sầu phi dịch vũ vô chỉ,
Khước tiếu bôn tuyền câu bất như.[1]
Suy bỉ thuận lưu tình sở dĩ,
Kiến dư xu sự nghĩa chi ư.[2]
Cần lao tự cổ trường sinh tễ,
Hà tất cao đường toạ ủng lư (lô).[3]

Dịch nghĩa

Viên biền bạn tống sợ chiếu vua ban,
Lệnh vua giục triệu vào gấp, đâu dám dềnh dàng.
Buồn thay, ngựa trạm phóng như bay, mưa chẳng ngớt,
Nực cười, suối chảy như chạy, ngựa câu không bằng.
Cứ suy việc thuận dòng là hợp lẽ,
Thì ta tất tưởi là đúng nghĩa thôi.
Từ cổ, tễ thuốc trường sinh là chăm chỉ,
Cần gì phải ôm lò sưởi trên nhà cao?

Bản dịch của Khương Hữu Dụng

Quan quân hộ tống rộn ràng,
Chiếu vua triệu gấp, trễ tràng dám đâu!
Mưa dầm đường trạm đang rầu,
Cười theo dòng suối, vó câu phải nhường!
Tình người thuận với nước tuôn,
Nghĩa ta bạn với quan sơn dãi dầu.
Thuốc trường sinh, ấy cần lao,
Ngồi ôm lồng ấp nhà cao mà gì!
[1] Vì mưa lụt, đưa thư trạm chậm trễ hơn đi đường thuỷ.
[2] Tác giả vâng mệnh vua (Quang Trung) đi sứ Trung Hoa xin cầu phong, vì ông đi làm việc có nghĩa lớn nên mọi người hộ tống ông ai nấy đều gắng sức giúp.
[3] Tác giả lấy sự vất vả vì nước làm niềm vui sống thật sự trên đời.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Ngô Thì Nhậm » Ngôn hoài