05/05/2024 07:02Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hí đề Xu Ngôn thảo các tam thập nhị vận
戲題樞言草閣三十二韻

Tác giả: Lý Thương Ẩn - 李商隱

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Vãn Đường
Đăng bởi Diệp Y Như vào 28/04/2010 03:42

 

Nguyên tác

君家在河北,
我家在山西。
百歲本無業,
陰陰仙李枝。
尚書文與武,
戰罷幕府開。
君從渭南至,
我自仙遊來。
平昔苦南北,
動成雲雨乖。
逮今兩攜手,
對若床下鞋。
夜歸碣石館,
朝上黃金臺。
我有苦寒調,
君抱陽春才。
年顏各少壯,
發綠齒尚齊。
我雖不能飲,
君時醉如泥。
政靜籌畫簡,
退食多相攜。
掃掠走馬路,
整頓射雉翳。
春風二三月,
柳密鶯正啼。
清河在門外,
上與浮雲齊。
欹冠調玉琴,
彈作松風哀。
又彈明君怨,
一去怨不回。
感激坐者泣,
起視雁行低。
翻憂龍山雪,
卻雜胡沙飛。
仲容銅琵琶,
項直聲淒淒。
上貼金捍撥,
畫為承露雞。
君時臥掁觸,
勸客白玉杯。
苦雲年光疾,
不飲將安歸。
我賞此言是,
因循未能諧。
君言中聖人,
坐臥莫我違。
榆莢亂不整,
楊花飛相隨。
上有白日照,
下有東風吹。
青樓有美人,
顏色如玫瑰。
歌聲入青雲,
所痛無良媒。
少年苦不久,
顧慕良難哉。
徒令真珠肶,
裛入珊瑚腮。
君今且少安,
聽我苦吟詩。
古詩何人作,
老大徒傷悲。

Phiên âm

Quân gia tại Hà Bắc[1],
Ngã gia tại Sơn Tây[2].
Bách tuế bản vô nghiệp,
Âm âm tiên Lý[3] chi.
Thượng thư[4] văn dữ vũ,
Chiến bãi mạc phủ khai.
Quân tòng Vị Nam[5] chí,
Ngã tự Tiên Du[6] lai.
Bình tích khổ nam bắc,
Động thành vân vũ quai[7].
Đãi kim lưỡng huề thủ,
Đối nhược sàng hạ hài.
Dạ quy Kiệt Thạch quán[8],
Triêu thướng Hoàng Kim đài[9].
Ngã hữu khổ hàn điệu[10],
Quân bão dương xuân tài[11].
Niên nhan các thiếu tráng,
Phát lục xỉ thượng tề.
Ngã tuy bất năng ẩm,
Quân thì tuý như nê.
Chính tĩnh[12] trù hoạ giản,
Thoái thực[13] đa tương huề.
Tảo lược tẩu mã lộ,
Chỉnh đốn xạ trĩ ê.
Xuân phong nhị tam nguyệt,
Liễu mật oanh chính đề.
Thanh hà tại môn ngoại,
Thượng dữ phù vân tề.
Khi quan điệu ngọc cầm,
Đàn tác Tùng phong[14] ai.
Hựu đàn Minh Quân oán[15],
Nhất khứ oán bất hồi.
Cảm kích toạ giả khấp,
Khởi thị nhạn hàng đê[16].
Phiên ưu Long Sơn[17] tuyết,
Khước tạp Hồ sa phi.
Trọng Dung[18] đồng tỳ bà,
Hạng trực thanh thê thê.
Thượng thiếp kim hãn bát,
Hoạ vi thừa lộ kê.
Quân thì ngoạ trượng xúc,
Khuyến khách bạch ngọc bôi.
Khổ vân niên quang tật,
Bất ẩm tương an quy?
Ngã thưởng thử ngôn thị,
Nhân tuần vị năng hài.
Quân ngôn trung thánh nhân[19],
Toạ ngoạ mạc ngã vi.
Du giáp loạn bất chỉnh,
Dương hoa phi tương tuỳ.
Thượng hữu bạch nhật chiếu,
Hạ hữu đông phong xuy.
Thanh lâu[20] hữu mỹ nhân,
Nhan sắc như mai khôi.
Ca thanh nhập thanh vân,
Sở thống vô lương môi,
Thiếu niên khổ bất cửu,
Cố mộ lương nan tai!
Đồ linh chân châu bễ,
Ấp nhập san hô tai.
Quân kim thả thiếu an,
Thính ngã khổ ngâm thi.
Cổ thi hà nhân tác?
Lão đại đồ thương bi![21]

Dịch nghĩa

Nhà anh ở Hà Bắc,
Nhà tôi tại Sơn Tây.
Trăm đời nay không có sản nghiệp gì,
Nhưng cũng cùng dòng dõi họ Lý.
Quan thượng thư giỏi văn lẫn võ,
Dẹp loạn, rồi mở phủ mạc.
Anh từ Vị Nam đến,
Tôi từ Tiên Du về đây.
Xưa chúng ta sầu khổ vì cách biệt kẻ nam người bắc,
Không bao giờ cùng nhau như mây và mưa.
Đến nay đã có thể nắm tay nhau,
Có đôi như giày dưới giường.
Đêm về Kiệt Thạch quán nghỉ ngơi,
Sáng đến Hoàng Kim đài làm việc.
Tôi có nỗi khổ làm thơ lạnh lẽo vất vả,
Anh ôm ấp tài lạ như tuyết trắng mùa xuân.
Anh và tôi đều trẻ khoẻ,
Tóc còn xanh, răng còn đầy đủ.
Tôi tuy không thể uống được rượu,
Mà anh thì thường say ngất ngưởng.
Lúc chính sự yên ổn, rỗi rãi chuyện toan tính,
Khi lui về nhà thường cùng nhau dao chơi.
Quét dọn lối ruổi ngựa,
Chỉnh đốn tấm nguỵ trang để săn bắn.
Tháng hai tháng ba mùa xuân đẹp biết bao,
Con oanh đang hót trong bụi liễu xanh rậm rạp.
Ngoài cửa nhà anh có dòng song xanh chảy qua,
Mái nhà anh thì sát với chòm mây.
Bọn ta cứ để mũ nghiêng lệch mà dạo đàn ngọc,
Anh đàn khúc Tùng phong thật buồn thay!
Lại đàn khúc Chiêu Quân oán,
Một khi đã đi, oán giận vì chẳng trở về được nữa.
Nghe đàn cảm xúc quá cứ ngồi khóc nức nở,
Ngẩng đầu nhìn đàn nhạn bay sà thấp.
Buồn nghiêng ngả như tuyết núi Long trút,
Sầu mù mịt như gió bụi ở đất Hồ.
Trọng Dung đàn cây tỳ bà,
Đàn tỳ bà cổ thẳng, mà tiếng thê lương quá.
Khoá đàn chạm vàng sáng loáng,
Có hình con gà dang cánh gáy trong sương móc.
Anh thường nằm tì vào gậy,
Khuyên khách cứ nâng chén ngọc mà uống cho say.
Anh bảo rằng: đời người qua rất mau,
Chưa uống say làm sao chịu về được?
Tôi cho lời ấy phải lắm,
Nhưng tôi quen nếp cũ không thể bồi tiếp anh một trận thoả thích.
Anh nói rằng những bậc trung thánh,
Lúc họ nằm hay ngồi đều không rời rượu, không trái ý mình!
Hạt du rơi lung tung tứ phía,
Hoa dương theo nhau bay trong gió.
Trên có bóng mặt trời dọi vào,
Dưới có gió xuân thổi mát mẻ.
Lầu xanh có cô gái đẹp,
Nhan sắc đẹp như ngọc hồng.
Lời ca trong trẻo vút vào mây xanh,
Mà đau buồn vì không có mối nào tốt.
Rất tiếc tuổi xuân lại quá ngắn,
Quyến luyến cũng không được!
Buồn làm lệ ngọc rơi tầm tã,
Thấm ướt cả đôi má hồng đỏ như san hô.
Nay anh còn rất trẻ khoẻ,
Nghe bài thơ tôi khổ ngâm.
Thơ xưa không biết là do ai viết?
Đến già rồi buồn thương thì có ích gì!

Bản dịch của Lê Quang Trường

Quê anh ở Hà Bắc,
Nhà tôi tại Sơn Tây.
Trăm đời không sản nghiệp,
Cũng họ Lý như ai.
Thượng thư văn lẫn võ,
Dẹp loạn, mở phủ đài.
Anh từ Vị Nam đến,
Tôi Tiên Du về đây.
Xưa khổ biệt nam bắc,
Chia lìa như nước mây.
Đến nay đã thành cặp,
Thắm thiết tay nắm tay.
Đêm về Kiệt Thạch quán,
Sáng đến Hoàng Kim đài.
Tôi có khổ hàn điệu,
Anh ấp dương xuân tài.
Anh tôi đều trẻ khoẻ,
Xanh tóc răng đủ đầy.
Tôi tuy uống không được,
Anh thì ngất ngưởng say.
Chính sự yên, rỗi rãi,
Lui gót thường dạo chơi.
Quét dọn lối ruổi ngựa,
Chỉnh đốn tấm che vây.
Tháng giêng ba xuân mộng,
Oanh hót trong liễu dày.
Sông xanh lượn ngoài cửa,
Mái cỏ sát ngàn mây.
Mũ nghiêng dạo đàn ngọc,
Khúc Phong tùng buồn thay!
Lại đàn Chiêu Quân oán,
Biền biệt, oán chia tay.
Cảm kích cứ khóc nức,
Ngẩng nhìn đàn nhạn bay.
Tuyết núi Long sầu trút,
Gió trời Hồ mù pha.
Trọng Dung đàn tỳ bà,
Cần thẳng, tiếng ngân xa.
Khoá chạm vàng sáng láng,
Gà dang cánh, sương sa.
Anh nằm dâng cảm xúc,
Chén ngọc khuyên khách say.
Bảo rằng: “Đời chóng vánh,
Chưa uống sao về ngay?”
Tôi cho lời ấy phải,
Nhưng nếp vẫn chưa thay.
Anh rằng: “Bậc trung thánh
Nằm, ngồi rượu chẳng rời!”
Du giáp loạn tứ phía,
Hoa dương theo nhau bay.
Trên có bóng nhật dọi,
Dưới có gió xuân hây.
Lầu xanh có người đẹp,
Như đoá hồng ban mai.
Lời ca vút trời thẳm,
Đau xót, không người hay.
Tuổi xuân tiếc quá ngắn,
Quyến luyến khó lắm thay!
Lệ ngọc rơi tầm tã,
Thấm đẫm má hồng phai.
Nay anh còn trẻ khoẻ,
Nghe tôi khổ ngâm hoài.
Thơ xưa ai người viết?
Luống tuổi ngậm ngùi thay!
Xu Ngôn là tên tự của một đồng liêu họ Lý khi tác giả ở Từ Mạc, chủ nhân của ngôi thảo các. Bài thơ này được làm vào khoảng năm thứ tư niên hiệu Đại Trung, ở căn gác tranh của Xu Ngôn. Thơ tả mối giao tình tao ngộ của tác giả và chủ nhân Lý Xu Ngôn, bày tỏ nỗi niềm sầu khổ tài năng mà không được dùng, không thi triển được hoài bão. Nhưng nhà thơ không phải vì thế mà chán nản, ngược lại còn có ý khuyến khích nên cố gắng, động viên tinh thần nhau. Phùng Hạo trong Ngọc Khê Sinh thi tập tiên chú cho bài thơ này: “Âm tiết cổ nhã, tình cảnh tiêu sái, thần vị miên man xa vời, tan hợp hợp tan, cực tinh tế mà cực tự nhiên, là tác phẩm thượng thừa trong thơ ngũ ngôn cổ thể”.

[1] Sách Tân Đường thư, Tể tướng thế gia biểu có chép rằng “dòng họ Lý ở Triệu Quận”, có lẽ Xu Ngôn thuộc dòng họ Lý ở nơi đó.
[2] Chỉ Lũng Tây. Vương thất nhà Đường bắt nguồn từ họ Lý ở Lũng Tây, Lý Thương Ẩn cùng dòng với vương thất họ Lý nhà Đường.
[3] Chỉ Lão Tử Lý Nhĩ. Đường Cao Tông Lý Trị xem Lão Tử Lý Nhĩ là tổ của họ Lý, truy tặng hiệu là Thái thượng huyền nguyên hoàng đế và tế tự như một vị thần. Ở đây ý nói là cùng dòng họ.
[4] Chỉ quan Kiểm hiệu bộ hộ thượng thư Lư Hoằng Chính, từng giữ chức thứ sử Từ Châu, Vũ Ninh quân tiết độ sứ. Năm thứ ba niên hiệu Đại Trung, Lư Hoằng Chính trấn giữ Từ Châu, Đô Ngu hầu Hồ Khánh Phương lại dấy mưu làm loạn, Hoằng Chính diệt, kết thúc chiến sự, mở lại mạc phủ, chiêu nạp hiền tài.
[5] Thuộc phủ Kinh Triệu đời Đường, nay là huyện Vị Nam tỉnh Thiểm Tây. Trước khi Xu Ngôn vào Từ Mạc từng nhậm chức ở Vị Nam.
[6] Huyện Chu Chí (nay là huyện Chu Chí tỉnh Thiểm Tây) có làng Tiên Du, đầm Tiên Du, cung Tiên Du. Trước khi Lý Thương Ẩn vào Từ mạc từng nhậm chức huyện uý huyện Chu Chí.
[7] Mây mưa không đi đôi vơi nhau. Thơ Hoạ Tạ giám Linh Vận của Nhan Diên Chi có câu: “Bằng hảo vân vũ quai” (bạn thân khó gặp như mây mưa không cùng nhau).
[8] Sử ký, Mạnh Tử Tuân Khanh liệt truyện chép: Thời Chiến quốc, Trâu Diễn đến nước Yên, Yên Chiêu Vương cho xây cung Kiệt Thạch, đãi ông như bậc thầy.
[9] Bạch thụ lục thiếp ghi: “Yên Chiêu Vương cho để ngàn vàng trên đài để mời kẻ sĩ trong thiên hạ, gọi là Hoàng Kim đài”. Hai câu này ý nói ông và Xu Ngôn được Lư Hoằng Chính trọng dụng.
[10] Chỉ tài thơ, làm thơ khắc khổ. Tý dạ cảnh ca (bài một) có câu: “Thuỳ tri khổ hàn điệu, Cộng tác bạch tuyết huyền” (Ai biết lời thơ lạnh lẽo thê thiết, Cùng hoà âm với tuyết trắng). Ý nói tác giả vì cuộc sống cơ hàn mà phải cất lời oán thán.
[11] Bài Đối Sở Vương vấn của Tống Ngọc: “Khách có bài ca trong đất Sính, lúc đầu người ấy nói là người Hạ Lý Ba, người trong nước hoạ theo có đến mấy ngàn người... Người ấy là tuyết trắng trong mùa xuân, người trong nước hoạ theo có mấy chục người”, “Khúc điệu của người ấy cao xa, mà người hoà thì quá ít”. Ý nói Xu Ngôn có tài năng kỳ dị mà không được người đời biết dùng.
[12] Nền chính trị yên ổn.
[13] Xuất từ câu “thoái thực tự công” (tan chầu về nhà ăn uống) trong Kinh thi, Thiệu Nam, bài Dương cao.
[14] Khúc đàn có bài Phong nhập tùng tương truyền là do Kê Khang đời Tấn làm ra.
[15] Tức khúc Chiêu Quân oán tương truyền do Chiêu Quân ở Hung Nô oán hận làm ra.
[16] Hai câu này có ý vị hai câu của Tiền Khởi trong bài Quy nhạn: “Nhị thập ngũ huyền đàn dạ nguyệt, Bất thăng thanh oán khước phi lai”. Chỉ tài đàn của Lý Xu Ngôn cực hay.
[17] Ở Thác Khắc Thác khu tự trị Nội Mông ngày nay, thời xưa thuộc quận Vân Trung, vùng biên tái phía bắc.
[18] Tên tự của Nguyễn Hàm, thông giỏi âm luật, giỏi đàn tỳ bà. Truyền rằng ông chế ra đàn tỳ bà đồng. Tỳ bà có hai loại: cổ thẳng và cổ cong, Nguyễn Hàm chơi đàn cổ thẳng.
[19] Sách Tam quốc chí, Nguỵ thư, Từ Mạc truyện chép: Lúc Mạc làm thượng thư lang, có lệnh cấm rượu, Mạc lén uống mà bị say, hiệu sự Triệu Đạt hỏi chuyện đó. Mạc nói là “thánh nhân bậc trung”. Khách say nói rằng rượu trong là “thánh nhân”, rượu đục là “hiền nhân”, “trung thánh nhân” là người uống rượu say, gọi tắt là “trung thánh”. Thơ Tặng Mạnh Hạo Nhiên của Lý Bạch có câu: “Tuý nguyệt tần trung thánh, Mê hoa bất sự quân” (Nhiều lần uống rượu say dưới trăng, Vì mê hoa mà không thèm thơ theo lệnh vua).
[20] Lầu xanh. Xưa lầu của những nhà quyền quý được sơn màu xanh. Ở đây chỉ nhà quyền quý.
[21] Thơ cổ có câu: “Bách xuyên đông đáo hải, Hà thời phục tây quy? Thiếu tráng bất nỗ lực, Lão đại đồ thương bi” (Trăm sông chảy về đông ra biển, Có bao giờ lại chảy về phía tây? Còn trẻ khoẻ không chịu gắng sức, Đến già buồn đau thì ích gì!)

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Lý Thương Ẩn » Hí đề Xu Ngôn thảo các tam thập nhị vận