Lời dẫn: Thái Hoà
[10] ngũ niên Ất Sửu tuế, phó thí Tinh Châu
[11], đạo phùng bộ nhạn giả vân: “Kim nhật hoạch nhất nhạn, sát chi hĩ. Kỳ thoát võng giả bi minh bất năng khứ, cánh tự đầu ư địa nhi tử.” Dư nhân mãi đắc chi, táng chi Phần thuỷ chi thượng, luỹ thạch vi chí, hiệu viết nhạn khâu. Thì đồng hành giả đa vi phú thi, dư diệc hữu “Nhạn khâu từ”. Cựu sở tác vô cung thương, kim cải định chi. 泰和五年乙丑歲,赴試并州,道逢捕雁者,云:『今日獲一雁,殺之矣。其脫網者悲鳴不能去,竟自投於地而死』。予因買得之,葬之汾水之上,累石為識,號曰雁丘。時同行者多為賦詩,予亦有〈雁丘詞〉。舊所作無宮商,今改定之。 (Năm Ất Sửu Thái Hoà thứ năm, tới Tinh Châu thi, đường gặp người bắt nhạn nói: “Hôm nay bắt được một con nhạn, đem giết. Con thoát được lưới buồn hót không chịu đi, cuối cùng lao xuống đất mà chết.” Tôi bèn mua lấy, đem chôn trên sông Phần, đắp đá thành mộ chí, gọi là mồ chim nhạn. Khi đó nhiều người cùng đi làm thơ phú, tôi cũng làm bài “Nhạn khâu từ”. Bài cũ đó không theo nhạc điệu, nay sửa lại.)
[10] Niên hiệu đời vua Kim Chương Tông 金章宗 (Hoàn Nhan Cảnh 完顏璟). Năm Ất Sửu tức 1205.
[11] Trị sở nay tại thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây.
[1] Bốn câu này là thay lời chú nhạn bay thoát khi thấy bạn bị giết.
[2] Chỉ nơi xưa Hán Vũ Đế từng tuần du tới tế thần, tại Phần Âm (thuộc Hà Đông, nay là phía tây nam Vạn Vinh, tỉnh Sơn Tây, do nằm ở phía nam sông Phần mà đặt tên). Năm Nguyên Đỉnh thứ 4 (119 tr.CN), trong một lần tới đây, ông có làm bài
Thu phong từ 秋風辭, trong đó có những câu:
Phiếm lâu thuyền hề tế Phần hà,
Hoành trung lưu hề dương tố ba.
Tiêu cổ minh hề phát trạo ca,
Hoan lạc cực hề ai tình đa
汎樓船兮濟汾河,
橫中流兮揚素波。
簫鼓鳴兮發櫂歌,
歡樂極兮哀情多。
(Đi thuyền lầu chừ tới sông Phần,
Ngang qua dòng chừ sóng trắng nổi lên,
Tiêu trống ngân, tiếng ca chèo vang,
Khi vui vẻ kết thúc, lòng buồn lại nhiều.)
“Hoành Phần” ở đây còn ám chỉ chim nhạn. Lý Kiệu 李嶠 đời Đường trong bài
Phần Âm hành 汾陰行 có câu “Bất kiến chỉ kim Phần thuỷ thượng, Duy hữu niên niên thu nhạn phi” 不見只今汾水上,惟有年年秋雁飛 (Không thấy ở trên sông Phần nay chỉ có, Bóng chim nhạn vẫn bay hằng năm khi thu về).
[3] Chỉ tiếng nhạc tiêu trống rộn rã trong bài
Thu phong từ.
[4] “Sở” ở đây là bụi cây rậm rạp, “bình sở” tức rừng hoang trải rộng. Mấy câu ở đây ý nói, chốn này là nơi xưa bậc đế vương từng tới, tiêu trống rộn rã, nhưng nay đã thành hoang vu tịch mịch, khói hoang xen lẫn.
[5] Tên một thiên trong
Sở từ, Tư Mã Thiên cho là Khuất Nguyên làm và nhiều học giả cho rằng để chiêu hồn Sở Hoài Vương, ở đây được nhắc tới với ý chiêu hồn chim nhạn. Tác giả nhắc tới Hán Vũ Đế và việc chiêu hồn Sở Hoài Vương còn ký thác lòng ưu hoài cố quốc.
[6] Thiên
Chiêu hồn thường dùng chữ “ta” ở cuối mỗi câu, nhưng không mang ý nghĩa. Sau thường dùng “Sở ta” với ý nghĩa chiêu hồn.
[8] Thiên
Phong vũ trong
Kinh thi dùng mưa gió để chỉ lòng nhớ người quân tử.
[7] Tên một thiên trong
Sở từ, trong đó có những câu:
Lôi điền điền hề vũ minh minh,
Viên thu thu hề dứu dạ minh.
Phong táp táp hề mộc tiêu tiêu,
Tư công tử hề đồ ly ưu.
雷填填兮雨冥冥,
猿啾啾兮狖夜鳴。
風颯颯兮木蕭蕭,
思公子兮徒離懮。
(Sấm ầm ầm chừ mưa mờ mịt,
Vượn hót dài chừ khỉ rú trong đêm.
Gió vù vù chừ cây thê thảm,
Nhớ công tử chừ trên đường đi đầy ưu tư.)
Cho nên ở bài này mới viết “ám đề phong vũ”.
[9] Chỉ thi nhân, chữ do bài
Ly tao của Khuất Nguyên.