28/04/2024 03:12Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thanh Khâu tử ca
青丘子歌

Tác giả: Cao Khải - 高啟

Thể thơ: Cổ phong (cổ thể); Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Minh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 22/01/2019 11:06

 

Nguyên tác

青丘子,臞而清,
本是五雲閣下之仙卿。
何年降謫在世間,
向人不道姓與名。
躡屩厭遠游,
荷鋤懶躬耕。
有劍任銹澀,
有書任縱橫。
不肯折腰為五斗米,
不肯掉舌下七十城。
但好覓詩句,
自吟自酬賡。
田間曳杖復帶索,
傍人不識笑且輕。
謂是魯迂儒楚狂生。
青丘子,聞之不介意,
吟聲出吻不絕咿咿鳴。
朝吟忘其飢,
暮吟散不平。
當其苦吟時,
兀兀如被醒。
頭髮不暇櫛,
家事不及營。
兒啼不知憐,
客至不果迎。
不憂回也空,
不慕猗氏盈。
不慚被寬褐,
不羡垂華纓。
不問龍虎苦戰鬥,
不管烏兔忙奔傾。
向水際獨坐,
林中獨行。
斲元氣,搜元精,
造化萬物難隱情。
冥茫八極游心兵,
坐令無象作有聲。
微如破懸虱,
壯若屠長鯨。
清同吸沆瀣,
險比排崢嶸。
靄靄晴雲披,
軋軋凍草萌。
高攀天根探月窟,
犀照牛渚萬怪呈。
妙意俄同鬼神會,
佳景每與江山爭。
星虹助光氣,
煙露滋華英。
聽音諧韶樂,
咀味得大羹。
世間無物為我娛,
自出金石相轟鏗。
江邊茅屋風雨晴,
閉門睡足詩初成。
叩壺自高歌,
不顧俗耳驚。
欲呼君山老父攜諸仙所弄之長笛,
和我此歌吹月明。
但愁欻忽波浪起,
鳥獸駭叫山搖崩。
天帝聞之怒,
下譴白鶴迎。
不容在世作狡獪,
復結飛佩還瑤京。

Phiên âm

Thanh Khâu Tử cù nhi Thanh,
Bản thị ngũ vân các[1] hạ chi tiên khanh.
Hà niên giáng trích tại thế gian,
Hướng nhân bất đạo tính dữ danh.
Nhiếp cược yếm viễn du,
Hà sừ lại cung canh.
Hữu kiếm nhiệm tú sáp,
Hữu thư nhiệm tung hoành.
Bất khẳng chiết yêu vị ngũ đẩu mễ[2],
Bất khẳng trạo thiệt[3] hạ thất thập thành.
Đãn hiếu mịch thi cú,
Tự ngâm tự thù canh.
Điền gian duệ trượng phục đới sách[4],
Bàng nhân bất thức tiếu thả khinh.
Vị thị Lỗ vu nho[5], Sở cuồng sinh[6],
Thanh Khâu tử văn chi bất giới ý.
Ngâm thanh xuất vẫn bất tuyệt y y minh.
Triêu ngâm vong kỳ cơ,
Mộ ngâm tán bất bình.
Đương kỳ khổ ngâm thì,
Ngột ngột như bị tinh.
Đầu phát bất hạ trất,
Gia sự bất cập dinh.
Nhi đề bất tri lân,
Khách chí bất quả nghinh.
Bất ưu Hồi[7] giã không,
Bất mộ Y Thị[8] doanh.
Bất tàm bị khoan hạt,
Bất tiện thuỳ hoa anh[9].
Bất vấn long hổ khổ chiến đấu[10],
Bất quản ô thố[11] mang bôn khuynh.
Hướng thuỷ tế độc toạ,
Lâm trung độc hành.
Trác nguyên khí, sưu nguyên tinh,
Tạo hoá vạn vật nan ẩn tình.
Minh mang bát cực du tâm binh,
Toạ linh vô tương tác hữu thanh.
Vi như phá huyền sắt[12],
Tráng nhược đồ trường kình.
Thanh đồng hấp hàng giới,
Hiểm tỷ bài tranh vanh.
Ái ái tình vân phi,
Ca ca đống thảo manh.
Cao phan Thiên Căn[13] thám nguyệt quật[14],
Tê chiếu[15] Ngưu Chử vạn quái trình.
Diệu ý nga đồng quỷ thần hội,
Giai cảnh mỗi dữ giang sơn tranh.
Tinh hồng trợ quang khí,
Yên lộ tư hoa anh.
Thính âm hài thiều nhạc[16],
Tư vị đắc đại canh[17].
Thế gian vô vật vi ngã ngu,
Tự xuất kim thạch tương oanh khanh.
Giang biên mao ốc phong vũ tình,
Bế môn thuỵ túc thi sơ thành.
Khấu hồ[18] tự cao ca,
Bất cố tục nhĩ kinh.
Dục hô Quân sơn lão phủ[19] huề chư tiên sở lộng chi trường địch.
Hoà ngã thử ca xuy nguyệt minh,
Đãn sầu hốt hốt ba lãng khởi.
Điểu thú hãi khiếu sơn dao băng,
Thiên Đế văn chi nộ,
Hạ khiển bạch hạc nghinh.
Bất dung tại thế tác giảo quái,
Phục kết phi bội hoàn Dao Kinh[20].

Dịch nghĩa

Thanh Khâu Tử gầy nhưng thanh
Vốn là tiên ở Ngũ vân các
Trước đây bị đầy xuống thế gian
Không nói họ tên cho mọi người biết
Dùng dép cỏ nên ngại đi chơi xa
Vì chây lười nên ngại việc cày bừa
Có kiếm cũng bỏ gỉ
Có sách cũng bỏ lung tung
Chẳng chịu còng lưng vì năm đấu gạo
Không chịu đảo lưỡi để hạ bảy mươi thành
Chỉ thích mấy câu thơ
Tự ngâm tự vịnh mãi
Đi ngoài đồng chống gậy, buộc dây thừng vào lưng
Người không hiểu cười lại còn khinh
Bảo là nho gàn nước Lỗ, chàng điên nước Sở
Thanh Khâu Tử nghe chẳng để ý tới
Miệng vẫn ngâm nga thơ không ngớt
Sáng ngâm quên đói
Chiều ngâm tan nỗi bực
Trong khi ngâm thơ
Người như bị say rượu
Đầu tóc không chải
Chẳng để ý đến việc nhà
Con khóc không biết thương
Khách đến vụng đón tiếp
Nhan Hồi nghèo không có thứ gì cũng cứ yên tâm
Y Thị giàu cũng chẳng mộ
Mặc áo thô rộng cũng chẳng thẹn
Chẳng khen giải mũ đẹp
Chẳng hỏi chi rồng hổ ác đấu với nhau
Chẳng quản mặt trời mặt trăng bận bịu lặn mọc
Một mình ngồi bên dòng nước
Một mình đi trong rừng
Bới nguyên khí, tìm nguyên tinh
Đấng tạo ra muôn vật cũng khó mà giấu giếm
Trải lòng ra tám cực mênh mang
Ngồi khiến cho vô hình cất thành tiếng
Nhỏ như bắn trúng rận treo
Mạnh như giết cá kình
Thanh như uống giọt sương đêm
Hiểm như chênh vênh đỉnh núi
Lớp lớp mây khi trời tạnh
Cỏ mùa đông ấp ủ mầm
Với sao Thiên Căn, vào tổ mặt trăng
Đốt sừng tê soi vực sâu nhìn ra quái vật
Ý hay gặp quỷ thần
Cảnh đẹp tranh với núi sông
Sao, cầu vồng giúp cho ánh sáng
Sương khói giúp cho vẻ đẹp
Nghe âm hài hoà như nhạc thiều
Nghiền ngẫm vị đời thấy ngọt ngào
Trên thế gian không có vật gì làm cho ta vui
Tự trong thơ vọng ra âm vàng đá
Nhà lá bên sông khi tạnh khi mưa gió
Thơ vừa thành đóng cửa ngủ cho đã
Gõ vào bình cất giọng hát to
Chẳng để ý gì đến tai tục sững sờ
Muốn gọi già núi Quân đem cái sáo dài của các tiên hay thổi
Hoà với bài ca của ta dưới trăng sáng
Chỉ sợ bỗng nỗi buồn gây thành sóng gió
Chim muông sợ hãi núi lắc lư rồi sụt
Trời nghe thấy nổi giận
Sai hạc trắng xuống đón
Không cho ở lại thế gian làm trò cười
Lại chắp đôi cánh để trở lại thiên đình

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Thanh Khâu Tử dáng người gầy guộc
Vốn là tiên ở gác Ngũ Vân
Trước đây bị giáng xuống trần
Chẳng khi nào kể họ tên là gì
Ngại viễn du vì đi giày cỏ
Bởi trây lười gác bỏ việc nông
Gỉ hoen kiếm có bỏ không
Sách có cũng mặc chẳng chồng chẳng ngăn
Lưng chẳng còng vì năm đấu gạo
Bẩy mươi thành lưỡi đảo cũng không
Mấy câu thơ lòng tặng lòng
Trên đồng chống gậy dây vòng ngang lưng
Người không hiểu khinh thường, cười trỏ:
Lỗ nho gàn, chàng Sở cuồng điên
Thanh Khâu Tử nghe chẳng cần
Câu thơ cửa miệng vẫn ngâm nga tràn
Sáng chiều ngâm tan buồn không đói
Trong khi ngâm như nổi men say
Nhà chẳng quản tóc bời bay
Con khóc cũng mặc khách ngây mặt nhìn
Hồi nghèo không cứ yên tâm vậy
Y Thị giàu cũng thấy như không
Áo thô mặc chẳng ngượng ngùng
Chẳng khen giải mũ hoa thòng đẹp sao
Long hổ đấu có nào nhắc đến
Có quản chi thỏ lặn ác tà
Ngồi bên dòng nước một ta
Mênh mông rừng vắng thẩn tha một mình
Bới nguyên khí nguyên tinh tìm giữ
Vật trời sinh cũng khó giữ giàng
Bao la tám cực trải lòng
Vô hình ngồi khiến thành dòng âm thanh
Nhỏ bắn trúng tơ mành treo rận
Mạnh mẽ như khi chém cá kình
Trong như uống giọt sương thanh
Hiểm như đỉnh núi chênh vênh giữa vời
Ngày tạnh ráo mây trời lớp lớp
Cỏ mùa đông ủ ấp mầm lên
Vào tổ trăng với Thiên Căn
Đuốc tê soi quái hiện liền bến Ngưu
Ý quỷ thần gặp nhau thâm thuý
Nét đẹp cùng sông núi đọ so
Sao, cầu vồng giúp sáng cho
Mênh mang sương khói hứng thơ dạt dào
Nghe hài hoà nhạc thiều réo rắt
Ngẫm vị đời thấy ngọt đại canh
Vui nào có thể lấn tranh
Bên trong đã có âm thanh đá vàng
Tạnh gió mưa bên sông nhà lá
Cửa khép hờ ngủ đã xong thơ
Gõ bình cất giọng hát to
Mặc cho tai tục sững sờ ngẩn ngơ
Già núi Quân muốn hô đến nhủ
Đem sáo dài thứ của tiên dùng
Ca ta trăng sáng hoà cùng
Sợ rồi sóng gió đùng đùng nổi lên
Núi lắc lư thú rền chim hoảng
Trời giận sai hạc trắng triệu hồi
Không cho ở lại cợt cười
Lại chắp đôi cánh thành người Dao Kinh
Đây là một bài theo thể thơ cổ, làm năm Chí Chính thứ 18, khi ông 23 tuổi, từ thành Trường Châu (nay là Tô Châu, Giang Tô) di cư đến Thanh Khâu, bên Ngô Tùng giang (nay thuộc huyện Ngô Đông, Giang Tô), lấy hiệu là Thanh Khâu tử, ở rảnh, suốt ngày ngâm thơ, có người cười cợt là chìm đắm vào thơ, nên nhà thơ làm bài thơ này.

[1] Lâu đài trên tiên cảnh.
[2] Mượn của Đào Uyên Minh từ quan về ẩn cư, ví như mình không muốn ra làm quan.
[3] Uốn lưỡi, ý là đi du thuyết. Khi Hán Cao Tổ Lưu Bang tranh thiên hạ với Hạng Vũ, mưu thần là Ly Tự Kỳ đến du thuyết nước Tề, khuyên Tề vương Điền Quảng về hàng Hán, Tề vương đồng ý, không tốn một tên lính, hạ được hơn 70 thành.
[4] Dùng dây buộc làm đai lưng. Trong Liệt tử tả một người là Vinh Khải Kỳ, khoác áo da hươu rộng, thắt lưng bằng giây cỏ, vừa đi vừa ngâm, một loại hình tượng cuồng phóng.
[5] Nho sinh cổ hủ đất Lỗ. Triều đình Hán thành lập, Thúc Tôn Thông phụ trách chế định lễ nghi, trưng tập hơn 30 nho sinh đất Lỗ (nay là phía tây nam Sơn Đông), trong đó có hai người không bằng lòng đi, Thúc Tôn Thông cười cợt họ là những nho sinh không thức thời.
[6] Lục Thông người nước Sở thời Xuân Thu tự Tiệp Dư, giả điên không ra làm quan, mọi người gọi là Sở cuồng, từng cười cợt Khổng Tử cứ nóng lòng trên sĩ đồ (ra làm quan nhằm thực hiện lý tưởng).
[7] Nhan Hồi học trò Khổng Tử. Theo Luận ngữ, Nhan Hồi thường nghèo đến nỗi không có một thứ gì. Ở đây tác giả mượn để tỏ ra mình không lo lắng vì nghèo khó.
[8] Tên đất cổ, nay là nam Lam Y, Sơn Tây. Y Đốn người nước Lỗ thời Xuân Thu kinh doanh chăn nuôi và làm muối ở đây, trong 10 năm trở thành đại phú. Nhà thơ mượn để tỏ ra mình không màng giàu có.
[9] Dải mũ đẹp, ngày xưa quan to thường dùng.
[10] Chỉ chiến tranh liên miên cuối Nguyên.
[11] Ô chỉ mặt trời, thần thoại cổ tương truyền trong có con quạ ba chân, nên dùng để chỉ thay thái dương. Thố chỉ mặt trăng, thần thoại xưa tương truyền trong mặt trăng có con thỏ giã thuốc, nên dùng để chỉ thay mặt trăng.
[12] Liệt tử: Kỷ Xương học bắn tên với Phi Vệ, sau ba năm thì kỹ thuật cao siêu, treo một con rận bằng sợi lông trâu ở cửa sổ, dùng tên bắn, mũi tên xuyên giữa con rận còn lông trâu không đứt. Ở đây mượn để chỉ thơ ca của tác giả đã đạt đến độ nhuần nhuyễn.
[13] Tên khác của sao Đê trong nhị thập bát tú.
[14] Trong trăng, hình dung sự thần bí của thơ.
[15] Tấn thư: Đại thần Ôn Kiều đến Ngưu Chử ky (tức Thái Thạch ky, nay ở huyện Đương Đồ, An Huy, bên bờ Trường Giang), nước sông rất sâu, truyền thuyết bên dưới có nhiều quái vật. Ôn Kiều bèn đốt sừng tê giác để soi, phát hiện ngay nơi đáy nước có nhiều thuỷ yêu kỳ hình quái trạng. Ở đây, nhà thơ dùng để hình dung tính chất lạ lùng của thơ ca mình.
[16] Tên nhạc khúc vào thời Ngu Thuấn đời thượng cổ.
[17] Nước thời cổ dùng khi cúng tế, không cho thêm gia vị. Đây dùng để chỉ độ thuần chính của thơ.
[18] Vương Đôn, đại tướng quân đời Tấn, mỗi sau khi uống rượu, dùng cây thiết như ý gõ vào ống nhổ làm nhịp phách ngâm mấy câu thơ của Tào Tháo “Lão ký phục lịch, Chí tại thiên lý” (Ngựa ký già quay về tàu, Chí nơi nghìn dặm). Câu này nhà thơ mượn để mô tả cảnh huống tự mình ngâm thơ mình làm ra.
[19] Bác vật chí: Nhà buôn Lữ Khanh Quân thổi sáo giỏi, vào một đêm trăng sáng đậu thuyền bên Quân sơn Động Đình hồ, uống rượu thổi sáo, bỗng một ông già rẽ thuyền đến, lấy từ tay áo ra ba cái ống sáo, rồi thổi lên ba tiếng, sóng gió trên hồ dậy ngay, các loại thuỷ tộc nhảy lao xao, thổi lên năm tiếng, chim muông trên núi Quân sơn sợ hãi kêu lên, mặt trăng tối sầm. Bọn Lữ Khanh Quân đều sợ. Ông già không thổi sáo nữa, vui uống mấy chén, rẽ thuyền đi, thấp thoáng khuất trong sóng gió. Nhà thơ dùng điển này dể hình dung thơ ca của mình có uy lực lớn lao.
[20] Đô thành của thiên đế trong thần thoại.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Cao Khải » Thanh Khâu tử ca