(Năm 767)
Trịnh Thẩm lúc này bị biếm ra vùng Giang Lăng, Lý Chi Phương từ Thổ Phồn về được cử làm thượng thư bộ lễ và sau đó là thái tử tân khách.
[1] Dân tộc ít người xưa ở vùng tây nam Trung Quốc, cũng dùng để chỉ cư chỉ của họ.
[2] Thuộc huyện Phụng Tiết, Tứ Xuyên. Thời Đông Hán, Công Tôn Thuật chiếm cứ vùng này và xưng là Bạch Đế, nên có tên. Trước là thành của huyện Ngư Phúc, sau đổi thành huyện lị. Thành ở trên núi. Thời Tam Quốc, Lưu Bị phá quân Ngô do Lục Tốn cầm đầu. Lưu Bị trú quân ở Ngư Phúc, sau chết ở Vĩnh An cung, thuộc thành này.
[3] Ám chỉ Dương Quý Phi.
[4] Tức cung Hưng Khánh đời Đường.
[5] Tại bữa tiệc do đô đốc Bá trung thừa đãi, Đỗ Phủ có được nghe Lý Tiên Nô, một người trong ban nhạc Lê viên.
[6] Về phía đông Phàn Xuyên, Vi Khúc mười dặm có hai vùng Nam Đỗ, và Bắc Đỗ. Khi nói Đỗ, tức là chỉ Nam Đỗ, khi nêu Đỗ Khúc tức là chỉ Bắc Đỗ.
[7] Còn có tên là cửa Uyển Mã, sông Vị chảy vào trong cửa này.
[8] Rợ Khuyển Nhung được vua Đường cầu viện và lưu giữ nơi kinh đô.
[9] Cảnh Thọ Xương 耿壽昌.
[10] Giả Nghị 賈誼.
[11] Tiêu Hà, Tào Tham, hai người phụ tá cho Hán Cao Tổ.
[12] Túc Tông tức Lý Hanh 李亨 (711-762), con thứ ba của Đường Huyền Tông, lên ngôi năm 756 ở Linh Vũ.
[13] Lã Thượng hay Khương Tử Nha, người giúp những vua đầu đời Chu.
[14] Chu Tuyên Vương, đế hiệu của Cơ Tịnh, người có công trùng hưng cơ nghiệp nhà Chu.
[15] Học theo thơ Kê Khang, câu “Vĩnh khiếu trường ngâm, Di tính dưỡng thọ” 永嘯長吟,頤性養壽.
[16] Chỉ Giang Lăng, thuộc huyện Nghi Xương, Hồ Bắc, nơi Trịnh Thẩm ở.
[17] Chỉ Di Lăng thuộc huyện Tiềm Giang, Hồ Bắc, nơi Lý Chi Phương ở. Vùng Sở có Hạ Lao và Thượng Lao.
[18] Trịnh Thẩm và Lý Chi Phương.
[19] Âm Khanh tự Tử Kiên, thời Nam triều thường được các vị vua thời đó yêu thích thơ năm chữ của ông.
[20] Hà Tốn, một nhà thơ nước Lương thời Nam triều.
[21] Thẩm Ước (441-513), là văn nhân thời Nam Bắc triều.
[22] Tống Ngọc người nước Sở cuối thời Chiến Quốc.
[23] Sáo trúc.
[24] Thời xưa việc di chuyển của quan chức bằng ngựa được các trạm để thay ngựa mới hầu di chuyển cho nhanh.
[25] Vua thành công.
[26] Người đời Tam Quốc, sau được vua Nguỵ vời ra làm quan, nhưng không nhận.
[27] Người thời Nam Bắc triều, hiệu Tổng Trì, giỏi thơ văn, làm quan hai triều Lương và Trần, đều được vua sủng ái. Ông có bài phú
Sơn thuỷ nạp bào 山水衲袍 (Nước non áo vá).
[28] Tức Di Lăng, phía đông Quỳ Châu.
[29] Giang Lăng có Hồ Đình.
[30] Nguyên chú: “Bình sinh đa bệnh, bốc trúc khiển hoài” 平生多病, 卜築 遣懷 (Trong đời lắm bệnh, chọn chỗ dựng nhà cốt tiêu sầu).
[31] Kinh đô cũ của nhà Chu, nay thuộc Tây An, Thiểm Tây.
[32] Xuất phát từ huyện Mạnh Tân, Hà Nam, chảy qua huyện Lạc Dương rồi đổ vào sông Lạc.
[33] Trạm trổ con sâu, chỉ công việc sáng tác thơ văn.
[34] Chỉ thư từ, lấy ý từ bài thơ cổ:
Khách tòng viễn phương lai,
Di ngã song lý ngư.
Hô nhi phanh lý ngư,
Trung hữu xích tố thư.
客從遠方來,
遺我兼鯉魚。
呼兒烹鯉魚,
中有尺 素書。
(Khách từ nơi xa tới,
Cho ta cặp cá chép.
Gọi con mổ cá nấu,
Trong có tấc giấy thư.)
[35] Tự của Nghiêm Tuân, người đời Hán sống ở Thành Đô, có tài nhưng lấy nghề bói toán để sinh sống, ông thường treo trăm đồng tiền ở đầu cây gậy.
[36] Hiệu của Vương Hiến Chi 王獻之, con thứ bảy của Hy Chi 羲之. Thanh chiên (cái mền xanh) xuất từ điển tích của Vương Hiến Chi, nổi tiếng với chuyện ông nói với tên trộm ban đêm vào nhà, ông thản nhiên bảo “Ngươi lấy gì cũng được, nhưng chừa cái mền xanh, đó là cái gia tài nhà ta truyền lại”.
[37] Nguyên chú: “Dân trong kẽm thấy nơi thị tứ gọi là thị kỵ, nơi thành thị”.
[38] Giống lươn, trạch, một loại cá rẻ tiền, ý nói ăn uống đạm bạc.
[39] Nguyên chú: “Huề lắng hay kỷ lắng: ở trung nguyên chỉ ruộng gần xa”.
[40] Trang phục nghi lễ của quan đời Hán.
[41] Chữ trong
Luận ngữ, thiên
Quý thị, là cái sự hiểu biết do từng trải đời mà có, là cái học thấp nhất. Cái cao nhất là do bẩm tính, sinh ra mà biết, cái thứ hai là học được từ sách vở: “Sinh nhi tri chi, thượng dã, học nhi tri chi giả, thứ dã, khốn nhi học chi, hựu kỳ thứ dã” 生而知之,上也,學而知之者,次也。困而學之,又其次也.
[42] Tại Kỳ Châu, Hồ Bắc. Song Phong sơn có Đông Sơn tự, Tào Khê Bảo Lâm tự, sau lại cùng có Song Phong tự.
[43] Thiền tông Trung Quốc có từ đời Lương năm 526, do Bồ-đề-đạt-ma gốc người bên Tây Trúc sang truyền bá. Sau đến đời Hằng Nhẫn (tổ thứ năm) mới phân ra làm hai phái: Nam tông với Bắc tông. Thường vẫn truyền tụng câu “Thiền môn Nam (Huệ) Năng, Bắc (Thần) Tú” 禪門南能北秀.
Huệ Năng 慧能 (638-713) có nơi viết 惠能 họ khai sinh là Lô, là học trò của Hoằng Nhẫn 弘忍. Huệ Năng trước ở Tào Khê (Quảng Đông) chùa Bảo Lâm, nay là chùa Nam Hoa, đời Huyền Tông lên trụ trì tại chùa Quốc Ân và viên tịch tại đây. Ông có bài kệ nổi tiếng “Bồ đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài. Bản lai vô nhất vật, Hà xứ nặc trần ai.” 菩提本無樹,明鏡亦非臺。本來無一物,何處惹塵埃。 (Cây bồ đề nào có, Gương sáng đài ở đâu. Chẳng có vật nào cả, Nơi đâu bụi bám vào.) Sau Huệ Năng không thấy nói đến ai là người kế vị.
Thần Tú 神秀 (606-706) quê ở Uý Thị, Biện Châu (Hà Nam). Lý Chi Phương cũng là học trò của Hoằng Nhẫn. Sau khi Hoằng Nhẫn viên tịch, Thần Tú đang ở Kinh Châu truyền đạo, được Võ Tắc Thiên triệu về kinh sư. Chính vì thế mà sau này có tên là Bắc tông. Vì Nam tông nhận môn phái họ chính là thiền pháp tức tiệm ngộ pháp môn, nên phái Bắc tông cho thiền pháp của họ là Bắc tiệm hoặc Tiệm môn. Phái Bắc tông lập đệ tử của Thần Tú là Phổ Túc 普寂 (651-739) lên làm thất tổ. Đỗ Phủ theo về Nam tông nên mới nói thân này quay về chùa Song Phong, để tìm ra tổ thứ bảy.
[44] Tạ An (325-385) tự An Thạch 安石, người đời Tấn, ẩn cư nơi núi Đông, tới bốn mươi tuổi mới ra làm quan. Ông giúp vua đánh lại tướng nhà Tần là Bồ Kiên. Khi chỉ huy quân, ông vẫn bình tĩnh ngồi đánh cờ. Ở đây dùng để chỉ ông Trịnh Cao Giản, tức Trịnh Thẩm.
[45] Ở đây dùng để chỉ Lý Chi Phương.
[46] Tự Tự Tông 嗣宗, là một trong Trúc Lâm thất hiền. Nghe nói trong dinh có nhiều rượu, ông xin vào đó làm Bộ binh hiệu uý để có rượu uống. Sau ông lang thang sống nơi hoang dã.
[47] Tự Tử Văn 子文, người thời Tây hán. Thời Hán Vũ Đế, do quân công mà được phong tước là Bác Vọng hầu, giữ chức Trung lang tướng.
[48] Vị tổ thứ mười hai bên nước Thiên Trúc.
[49] Vị tiên tương truyền sống bằng trái thông. Người lông dài đến cả tấc, có thể chạy bộ đuổi kịp ngựa.
[50] Lô phong 爐峰 hay Hương Lô phong 香爐峰 tại huyện Cửu Giang, Giang Tây, phía bắc Lư sơn 廬山. Đỉnh cao vút lên trên không, hình trạng giống như cái đỉnh hương, hơi bay toả ra như khói trong lò. Dưới núi có thác, đỉnh có tảng đá lớn giống hình người, do đó lại còn mang tên Thạch Nhân phong 石人峰.
[51] Tại huyện Sâm, Hồ Nam. Theo
Thần tiên truyện 神仙傳, Tô Đam 蘇耽 có căn dặn bà mẹ trước khi thành tiên: Sang năm thiên hạ bị nạn dịch, nước giếng trong sân, cây quất bên hè, có thể dùng cứu sống được, một gầu nước giếng, lá quất một cây có thể trị liệu cho một người. Năm sau quả có dịch, xa gần đều tới xin bà mẹ thuốc trị, đều có được nước giếng mà khỏi bệnh. Sau này dùng “quất tỉnh” để chỉ phương thuốc thần hiệu.
[52] Mã Viện, một đại tướng thời Hán xâm lăng Việt Nam có nói “Tôi đóng quân ở làng phía tây Lãng Bạc, ngẩng lên nhìn đám vịt trời bay, chúng lõm bõm sa xuống nước.“
[53] Cố Khải Chi 顧凱之, người đời Đông Tấn, chuyên vẽ truyền thần.
[54] Đầu đà pháp, phép tu của nhà Phật, dịch âm từ Phạn ngữ “dhù ta” chỉ tu tập theo 12 điều khổ hạnh, có nghĩa là diệt trừ.
[55] Theo nhà Phật Đại thừa bồ tát, tuỳ theo mức độ chứng ngộ mà chia ra mười cảnh giới (địa giới). Đó là: Cực hỉ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực Nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ, Pháp vân.
[56] Ở đây nói đến sự giác ngộ. Thành ngữ “Kim bề quát mục” 金篦刮目 (Móc bằng kim khí làm sáng mắt) lấy từ
Đại ban niết bàn kinh 大般湼槃經 (Mahaparinivana). Qua thơ Đường, có nhiều nhà thơ nói đến tài chữa mắt của nhà sư Bà-la-môn, ví dụ như Lưu Vũ Tích 劉禹錫 trong bài
Tặng nhãn y Bà-la-môn tăng 贈眼醫婆羅門僧 có câu “Sư hữu kim bề thuật, Như hà vi ngã mông?” 師有金篦術,如何為發蒙 (Nhà sư có cách dùng móc kim loại, Làm sao đề chữa mắt mờ cho tôi?) Phương tiện vật chất không làm cho tâm linh sáng láng thêm để gần đạo.
[57] Tâm chưa vượt ra khỏi thể cũng như bóng mình còn nằm trong gương.