24/04/2024 11:30Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tam Nguyên lý
三元里

Tác giả: Trương Duy Bình - 張維屏

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thanh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 11/05/2019 11:26

 

Nguyên tác

三元里前聲若雷,
千眾萬眾同時來。
因義生憤憤生勇,
鄉民合力強徒摧。
家室田廬需保衛,
不待鼓聲群作氣。
婦女齊心亦健兒,
犁鋤在手皆兵器。
鄉分遠近旗斑斕,
什隊百隊沿溪山。
眾夷相視忽變色,
黑旗死仗難生還。
夷兵所恃惟槍炮,
人心合處天心到。
晴空驟雨忽傾盆,
凶夷無所施其暴。
豈特火器無所施,
夷足不慣行滑泥。
下者田塍苦躑躅,
高者岡阜愁顛擠。
中有夷酋貌尤醜,
象皮作甲裹身厚。
一戈已舂長狄喉,
十日猶懸郅支首。
紛然欲遁無雙翅,
殲厥渠魁真易事。
不解何由巨網開,
枯魚竟得攸然逝。
魏絳和戎且解憂,
風人慷慨賦同仇。
如何全盛金甌日,
卻賴金繒歲幣謀。

Phiên âm

Tam Nguyên lý tiền thanh nhược lôi,
Thiên chúng vạn chúng đồng thời lai.
Nhân nghĩa sinh phẫn phẫn sinh dũng,
Hương dân hợp lực cường đồ tồi.
Gia thất điền lư nhu bảo vệ,
Bất đãi cổ thanh quần tác khí[1].
Phụ nữ tề tâm diệc kiện nhi,
Lê sừ tại thủ giai binh khí.
Hương phần viễn cận kỳ ban lan,
Thập đội bách đội duyên khê sơn.
Chúng di tương thị hốt biến sắc,
Hắc kỳ tử trượng[2] nan sinh hoàn.
Di binh sở thị duy sang pháo,
Nhân tâm hợp xứ thiên tâm đáo.
Tình không sậu vũ hốt khuynh bồn,
Hung di vô sở thi kỳ bạo.
Khởi đặc hoả khí vô sở thi,
Di túc bất quán hành hoạt nê.
Hạ giả điền thặng khổ trịch trục,
Cao giả cương phụ sầu điên tế.
Trung hữu di tù mạo vưu xú,
Tượng bì tác giáp khoả thân hậu.
Nhất qua dĩ thung Trường Địch[3] hầu,
Thập nhật do huyền Chất Chi[4] thủ.
Phân nhiên dục độn vô song sí,
Tiêm quyết cừ khôi chân dịch sự.
Bất giải hà do cự võng khai,
Khô ngư cánh đắc du nhiên thệ.[5]
Nguỵ Giáng[6] hoà Nhung thả giải ưu,
Phong nhân[7] khảng khái phú đồng cừu.
Như hà toàn thịnh kim âu nhật,
Khước loại kim tăng[8] tuế tệ[9] mưu.

Dịch nghĩa

Tiếng như sấm trước làng Tam Nguyên
Nghìn người vạn người đến cùng một lúc
Vì nghĩa sinh căm căm sinh sức mạnh
Người làng hợp sức đánh cướp
Ruộng đồng làng mạc cần bảo vệ
Không đợi tiếng trống đông người thành hăng
Đàn bà con gái đồng lòng thành trai mạnh
Cày bừa trong tay là vũ khí
Làng xóm xa gần cờ giăng giăng
Mười đội trăm đội khắp khe núi
Bọn rợ nhìn nhau bỗng biến sắc mặt
Cờ đen trận tử chiến khó sống trở về
Quân rợ chỉ cậy có súng
Người đã cùng lòng lòng trời đến
Trời tạnh bỗng mưa như trút nước
Rợ càn không thể giở trò hung bạo
Chẳng riêng hoả khí không giở được trò
Chân bọn rợ không quen đi trên bùn lầy
Lũ thì lóp ngóp dưới ruộng thấp
Lũ thì chen đẩy nhau trên gò cao
Trong đó thằng toán trưởng mặt càng sấu
Da voi làm giáp bọc thân dầy
Một mũi giáo đã trúng hầu Trường Địch
Mười ngày còn treo đầu Chất Chi
Rối ren toan lủi không có đôi cánh
Giết tên cầm đầu thực dễ dàng
Không hiểu vì sao lưới lớn mở
Cá khô lại được bơi nhanh thế
Nguỵ Giáng hoà nhung giải được nỗi lo
Phong nhân khảng khái làm bài đồng cừu
Vì sao những nhày toàn thịnh của nước
Lại toàn nhờ vào mưu nộp tiền bạc lụa hằng năm!

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Làng Tam Nguyên sấm ran phía trước
Nghìn vạn người cùng lúc kéo ra
Nghĩa sinh phẫn dũng theo đà
Đánh đuổi giặc cướp nhà nhà đồng tâm
Cần bảo vệ ruộng vườn nhà cửa
Trống không chờ thế cả người đông
Thành trai mạnh gái cùng lòng
Trở thành binh khí tay vung quốc cày
Làng xa gần cờ bay phần phật
Mười rồi trăm đội chặt núi khe
Bọn rợ trông thấy mà ghê
Cờ đen tử chiến sống về khó sao
Bọn rợ toàn cạy vào súng ống
Người một lòng trời cũng chiều theo
Trời quang bỗng đổ mưa rào
Rợ càn không biết làm sao giở trò
Đâu chỉ có mỗi vô dụng súng
Rợ không quen đi đứng bùn trơn
Thấp ruộng sâu cao đống cồn
Lũ thì lóp ngóp lũ dồn đẩy nhau
Nhóm rợ có thằng đầu mặt ác
Da voi làm giáp bọc dầy thân
Hầu Trường Địch một giáo xuyên
Chất Chi thủ cấp treo nguyên mười ngày
Rối ren muốn trốn bay không cánh
Giết cầm đầu việc tính dễ dàng
Từ đầu lưới lớn mở toang
Cá khô lại được thung thăng vẫy vùng
Giải nỗi lo hoà nhung Nguỵ Giáng
Bài đồng cừu sang sảng phong nhân
Làm sao bờ cõi vẹn toàn
Lụa vàng năm nộp nhờ bàn mưu cao
Làng Tam Nguyên ở ngoại ô phía bắc Quảng Châu. Bài này làm vào khoảng năm Đạo Quang thứ 21 (1841), ngày 19 tháng 2 năm đó quân Anh đến cướp phá vùng lân cận làng Tam Nguyên. Thái Nông và Vi Thiệu Quang tổ chức dân chúng chống lại, tiêu diệt được một bộ phận địch ở gò Ngưu Lan.

[1] Tả truyện: Trang Công năm thứ 10 có “Phù chiến dũng khí giã, nhất cổ tác khí” (Phàm đánh nhau là dũng khí vây, một hồi chống gây khí thế). Ở đây dùng trái lại với điển cố, dân làng không phải chờ tiếng trống mà dũng khí đã đầy đủ.
[2] Tương truyền, cờ đen là tín hiệu của quân Anh quyết tử chiến, vừa hay hôm đó dân làng cầm lá cờ đen thất tinh ra trận, quân anh nhầm cho là hiệu tử chiến.
[3] Nguyên là một loại tộc người rợ Bắc Địch, đây chỉ quân Anh.
[4] Nguyên là thủ lĩnh Thiền Vu của Hung Nô tự lập, sau bị Tây Hạ và Thiền Vu Hô Hàn Tà Hung Nô phối hợp đánh bại. Chất Chi bị giết, tướng Hán treo đầu của Chất Chi mười ngày cho mọi người xem. Ở đây dùng để chỉ quân quan quân Anh.
[5] Lúc bấy giờ tri phủ Quảng Châu là Dư Bảo Thuần cùng với quan viên triều Thanh, uy hiếp lừa dối dân chúng giải vây cho quân Anh.
[6] Tả truyện: Đại phu nước Tấn thời Xuân Thu, năm 569 tr.CN từng khuyên Tấn Điệu công ký hoà ước với các tộc người Nhung.
[7] Chỉ tác giả. Kinh thi - Vô y: “Vương vu hưng sư, Tu ngã qua mâu, Dữ tử đồng cừu” (Dấy binh thiên tử truyền ra, Cây mâu cây giáo chúng ta lo cùng, Cùng anh đánh dẹp thù chung).
[8] Vàng bạc tơ lụa.
[9] Thời Tống hằng năm cứ phải nộp bạc lụa cho nước Liêu gọi là tuế tệ. Ở đây chỉ chính phủ Thanh nộp tiền đền cho quân Anh.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Trương Duy Bình » Tam Nguyên lý