27/04/2024 11:20Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Dạy học trò ở cho phải đạo

Tác giả: Nguyễn Trãi - 阮廌

Thể thơ: Song thất lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 24/10/2005 10:13

 

580. Nào là những kẻ học trò,
Nghe lời thầy dậy phải lo sửa mình.
Nghĩa cha sinh cùng công mẹ dưỡng,
Thời đêm ngày tư tưởng chớ khuây,
Hai công đức ấy nặng thay,
585. Xem bằng bể rộng, coi tày trời cao!
Trình vâng từ tốn ngọt ngào,
Đi về thưa thốt, ra vào thăm lênh.
Bánh quà, cá thịt, cơm canh,
Sớm trưa thay đổi để dành hẳn hoi.
590. Bữa thường dâng ngọt dâng bùi,
Nâng niu chào hỏi chẳng sai đâu là.
Nghĩ công khó nhọc nuôi ta,
Đến ngày cả lớn mong cho vuông tròn,
Kể từ lúc hãy còn thai dựng[1],
595. Đến những khi nuôi nấng giữ giàn
Nặng nề chín tháng cưu mang,
Công sinh bằng vượt bể sang nước người.
Đoạn thôi lúc ấy vừa rồi,
Ấp ôm bú mớm chẳng rời trên tay.
600. Mong cho biết ngửa biết ngây,
Biết chuyện biết hóng chẳng khuây bao giờ,
Ngày trứng nước, thủa ngây thơ.
Bao giờ sài ghẻ bấy giờ lại lo.
Lo cho biết lẫy, biết bò,
605. Mong cho biết đứng, mong cho biết ngồi.
Đoạn rồi lại lo khi xảy đậu,
Công, dại, ngây, thơ ấu, u ơ.
Ba năm nhũ bộ[2] còn thơ,
Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào?
610. Chữ rằng “sinh ngã cù lao[3]”,
Bể sâu khôn ví, trời cao khôn bì.
Nhưng mà gặp buổi bình thì,
Tiền trăm, bạc chục việc gì mà lo!
Hay là gặp cửa nhà giàu,
615. Của chìm của nổi dễ hầu lo chi!
Song ta vốn đã hàn vi[4],
Lại sinh ra gặp phải thì can qua[5].
Đòi khi kém đói thiết tha,
Bán buôn tần tảo cho qua lúc này.
620. Việc nhà việc cửa chuyên tay,
Khi đêm quên ngủ, khi ngày quên ăn.
Ngược xuôi gánh vác nhọc nhằn,
Chân le, chân vịt nào phần khoan thai.
Hình dung ăn mặc lôi thôi,
625. Áo thời xốc xếch, khố thời đuôi nheo.
Gian nan đòi đoạn ngặt nghèo,
Mà cho con học có chiều bao dong.
Thế gian mấy kẻ có lòng,
Có công trời hẳn dành công để chờ.
630. Bây giờ loạn lạc bơ vơ,
Cơ trời bĩ thái nắng mưa là thường.
Khuyên con học lấy văn chương,
Có bên nghĩa lý, có đường hiển vinh.
Loạn rồi lại có khi bình,
635. Khi bình ta hãy cá kình giương vây.
Say sưa kinh sử chớ khuây,
Sắt mài ắt hẳn có ngày nên kim.
Mãi Thần[6] kia mới là gan,
Trèo non kiếm củi, đốt than dãi dầu.
640. Bể thánh sâu, cố gia công lội,
Rừng nho gai, thẳng lối xông pha,
Ba năm chợt đổi khôi khoa,
Sân rồng ruổi ngựa, đường hoa giong cờ.
Trần Bình[7] nhà bạc cửa thưa,
645. Đói no chẳng quản, muối dưa chẳng nề.
Đọc sách là chí nam nhi,
Giúp Lưu trót đã lục kỳ nên công[8].
Lọng giương, ngựa cưỡi, xe giong,
Bể sâu cá nhảy vẫy vùng bõ khi.
650. Ấy là thủa trước nam nhi,
Bây giờ đèn sách sớm khuya thế nào?
Chữ rằng: “loạn độc thư cao[9]”,
Khi nên cũng thế, khác nào người xưa.
Nắng lâu cũng có khi mưa,
655. Trồng dưa thì lại được dưa[10] nệ gì.
Mai ngày treo biển tên đề,
Khôi khoa lại được gặp kỳ thánh minh.
Lộc trời, tước nước hiển vinh,
Báo đền đôi đức dưỡng sinh bấy chầy.
660. Bõ khi nghèo khổ chua cay,
Bõ khi đèn sách, bõ ngày gian truân.
Bệ rồng gang tấc chín lần,
Trong triều mực thước, ngoài dân quyền hành.
Một triều là một thanh danh,
665. Bởi chưng có chí học hành thì nên.
Bao nhiêu là gái thuyền quyên,
Lưng ong má phấn cũng chen chân vào.
Đã má đỏ, lại má đào,
Thơm tho mùi xạ ngạt ngào mùi hương.
670. Đủ mùi những thức cao lương,
Sơn hào hải vị[11] bữa thường đổi trao.
Lợn quay, xôi gấc, chè tàu,
Ai ai là chẳng đến hầu làm tôi.
Quạt lông, gối xếp, thảnh thơi,
675. Một lời dạy đến, trăm người dạ vâng.
Tiếng đàn, tiếng địch, tưng bừng,
Câu thơ, câu phú lại dâng chén quỳnh[12].
Trong ngoài quan khách linh đình,
Treo chông nội thất[13], truyền sênh công đường[14].
680. Phấn trần, tranh cánh, giá gương.
Khi buông màn vóc, khi giường chiếu hoa.
Người hầu, người hạ, nhởn nhơ,
Thắm chen vẻ tía, vàng pha màu hồng.
Nhà ngang dãy dọc trùng trùng,
685. Hầu non: con mới, tiểu đông: thằng tranh.
Trai khoe lịch, gái khoe thanh,
Ra vào hài hán, chung quanh dập dìu!
Giàu sang khác vẻ trăm chiều,
Vì ơn cha mẹ lắm điều vì ta.
690. Nghĩa thứ ba là trong thầy tớ,
Dạy mấy lời phải nhớ đinh ninh.
Nghĩa dưỡng sinh hiếu trung là thế
Đường công danh có chí thì nên.
[1] Mang thai, có chửa.
[2] Bú mớm.
[3] Do câu “Ai tai phụ mẫu sinh ngã cù lao” (Thương thay cha mẹ ta, sinh ra ta khó nhọc).
[4] Đói rét, nghèo hèn. Lúc chưa gặp thì còn hàn vi vất vả.
[5] Giáo mác, lúc loạn lạc.
[6] Chu Mãi Thần người đời Hán, quê ở Cối Kê, nhà nghèo chăm học, vừa đi hái củi vừa đọc sách, vợ bỏ đi lấy chồng khác. Sau Mãi Thần làm đến Thái thú, khi đi cung chúc, gặp vợ cũ cùng với chồng phải làm phu đi dọn đường đón quan. Vợ xin tái hợp, Mãi Thần bảo nếu đổ bát nước xuống đất mà bốc lại đầy bát được thì cũng bằng lòng. Vợ biết có ý đoạn tuyệt, bèn tự tử.
[7] Người đời Hán, quê ở Dương Vũ, nhà nghèo chăm học, sau về giúp Hán Cao Tổ, diệt được Hạng Vũ, có công được phong hầu.
[8] Lục kỳ do chữ “Lục xuất kỳ kế” (Sáu lần bày mưu lạ). Trong khi Trần Bình giúp Hán đánh Sở.
[9] Bởi chữ “Loạn thế độc thư cao” (Đời loạn đọc sách là cao hơn cả).
[10] Bởi câu “Chủng qua đắc qua”.
[11] Những món ăn thức nhắm ở rừng và ở bể. Các món ăn quý.
[12] Do chữ “quỳnh tương” (rượu quý).
[13] Nhà trong, nhà riêng.
[14] Dinh công.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Trãi » Dạy học trò ở cho phải đạo