09/05/2024 10:29Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tuyết nguyệt nghi phú
雪月疑賦

Tác giả: Ngô Thì Nhậm - 吳時任

Thể thơ: Phú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Tây Sơn
Đăng bởi Hoàng Hiền Tư vào 17/02/2024 09:44

 

Nguyên tác

一色紛紛,吾不知其何為兮,宵歟晨。
吾欲觀太虛兮,長庚與啟明而俱泯。
指前山而拭瞻兮,草樹堆白以輪囷。
豈長夜之未央兮,胡為乎鳥聲約略相聞。
將清晨之初稀兮,胡為乎板橋敻不見人。
予有疑乎雪月兮,喚輿者而咨詢。
乃殊離之不辨兮,手指口而云云。
行獨會於予心兮,宇宙洪荒之未分。
下誰為川岳兮,上誰為星雲。
中以何狀而為物兮,以何形而為人。
又何為上中下兮,使各類聚而群分。
是理底倥侗兮,是氣底渾淪。
何名利之相逐兮,孰為疏而為親。
何送迎之相煩兮,孰為偽而為真。
自舟車之既陳兮,彼為猫而此為獯。
既矛戟之相燖兮,乃玉帛之相鄰。
始有萬千里之修途兮,重三譯而策驊駰。
苟人迹之所到兮,皆可履青霜而踏紅塵。
又何疑夫雪月兮,計較夫深宵之與大昕。
願長康乎此身兮,效蘧車之轔轔。
幸諮諏之無咎兮,期少答夫洪均。
賦蓮社之歸來兮,囂囂然希莘野之天民。

Phiên âm

Nhất sắc phân phân, ngô bất tri kỳ hà vi hề, tiêu dư thần,
Ngô dục quan thái hư hề, Trường Canh[1] dữ Khải Minh[2] nhi câu dân.
Chỉ tiền sơn nhi thức chiêm hề, thảo thụ đôi bạch dĩ luân khuân[3].
Khởi trường dạ chi vị ương hề, hồ vi hồ điểu thanh ước lược tương văn.
Tương thanh thần chi sơ hi hề, hồ vi hồ bản kiều quýnh bất kiến nhân.
Dư hữu nghi hồ tuyết nguyệt hề, hoán dư giả[4] nhi tư tuân.
Nãi thù ly chi bất biện hề, thủ chỉ khẩu nhi vân vân.
Hành độc hội ư dư tâm hề, vũ trụ hồng hoang chi vị phân.
Hạ thuỳ vi xuyên nhạc hề, thượng thuỳ vi tinh vân.
Trung dĩ hà trạng nhi vi vật hề, dĩ hà hình nhi vi nhân.
Hựu hà vi thượng trung hạ hề, sử các loại tụ nhi quần phân.
Thị lý để không đồng hề, thị khí để hỗn luân[5].
Hà danh lợi chi tương trục hề, thục vi sơ nhi vi thân.
Hà tống nghênh chi tương phiền hề, thục vi nguỵ nhi vi chân.
Tự chu xa chi ký trần hề, bỉ vi Miêu[6] nhi thử vi Huân[7];
Ký mâu kích chi tương tầm[8] hề, nãi ngọc bạch chi tương lân...
Thuỷ hữu vạn thiên lý chi tu đồ hề, trùng tam dịch[9] nhi sách hoa nhân[10],
Cẩu nhân tích chi sở đáo hề, giai khả lý thanh sương nhi đạp hồng trần.
Hựu hà nghi phù tuyết nguyệt hề, kế giảo phù thâm tiêu chi dữ đại hân.
Nguyện trường khang hồ[11] thử thân hề, hiệu Cừ xa[12] chi lân lân.
Hạnh tư tưu chi vô cữu hề, kỳ thiểu đáp phù hồng quân.
Phú Liên xã[13] chi quy lai hề, hiêu hiêu nhiên hy Sằn dã chi thiên dân[14].

Bản dịch của Ngô Linh Ngọc

Lẫn lộn một màu, ta chẳng nhận ra chừ, sớm tối hay đâu!
Ta muốn nhìn xem bầu không chừ, sao Hôm, sao Mai đã lặn rồi, từ lâu!
Trỏ rặng núi trước mặt mà trông lên chừ, cây cỏ thành gò, tròn vạnh mà trắng phau.
Há lẽ đêm dài chưa tắt chừ, sao phảng phất tiếng chim kêu?
Hay bình minh đã hửng chừ, sao không bóng người in trên cầu?
Ta nghi ngờ chẳng rõ tuyết hay trăng chừ, bèn gọi hỏi người đánh xe;
Nhưng tiếng nói lạ tai khó hiểu chừ, tay trỏ miệng mà líu lô.
Ta vừa đi, vừa tự hiểu lấy chừ, buổi hỗn mang ban đầu,
Ở dưới, ai tạc lên núi sông chừ, ở trên ai bày ra trăng sao?
Ở giữa, muôn vật đúc nên theo trạng gì chừ, nặn ra người theo hình nào?
Lại vì sao chia giữa, dưới, trên chừ, khiến họp lại thành từng loài khác nhau?
Cái lẽ đó thật mập mờ chừ, cái khí ấy hỗn độn sao!
Sao lợi danh cứ mãi đua ganh chừ, thân sơ nào biết đâu!
Sao đón đưa làm phiền phức nhau chừ, thật giả biết người nao?
Từ thuở thuyền, xe sinh ra chừ, mới phân biệt đó nơi Huân, đây giống Miêu;
Đã gươm đao giết hại lẫn nhau chừ, lại ngọc, lụa để hoà giao!
Để có con đường muôn dặm sứ Hoa chừ, dịch tiếng nói ba lần, nhoài vó câu!
Dấu chân người đến nơi đâu chừ, đều dẫm lên sương sớm, mà đạp lên bụi đào;
Vậy nghi trăng, ngờ tuyết mà chi chừ, sá kể gì ngày sáng với đêm thâu!
Chỉ mong thân này mãi được khang cường chừ, xe họ Cừ học ruổi mau.
Việc ứng đối may chẳng sai lầm chừ, muôn một đáp ơn sâu;
Rồi vịnh bài phú “Xóm hoa sen”, làm người dân lành quay về chừ, cày nội Sằn vui biết bao.
Lời tự: “Phụng sứ thì tác” 奉使時作 (Làm khi đi sứ).

Bài phú này được Ngô Thì Nhậm sáng tác trong thời gian đi sứ phương Bắc. Theo nguyên văn chữ Hán, bài phú có hai mươi ba vần.

[1] Sao Thái Bạch, còn gọi là sao Kim.
[2] Sao Mai.
[3] Có bản chép “nhân khuân”.
[4] Có bản chép “hoán canh giả”.
[5] Có bản chép “Thị do lý để không đồng, thị khí để hỗn loạn”.
[6] Tam Miêu, tên một dân tộc thiểu số từ đời cổ Trung Quốc.
[7] Huân Dục, tên một dân tộc thiểu số từ đời cổ Trung Quốc.
[8] Có bản chép thiếu 4 câu từ chữ “thục vi nguỵ” đến chữ “tương tầm hề”.
[9] Sứ giả đi qua nhiều nước, qua nước nào thì nước đó phải có phiên dịch ra tiếng nói của họ. Đây nói ba lần dịch tức trải qua ba nước. Có bản chép “trùng trùng dịch”.
[10] Ngựa hoa, ngựa nhân đi nhanh, sứ giả thường dùng.
[11] Có bản chép “trường canh hồ”.
[12] Đời Xuân Thu, Cừ Bá Ngọc là người hiền, làm đại phu nước Vệ. Một hôm Linh Công cùng phu nhân đêm khuya vẫn còn ngồi, chợt nghe có tiếng xe tới cửa khuyết thì im. Phu nhân nói đó là xe của Bá Ngọc! Công hỏi sao mà biết? Đáp: Người quân tử không vì dêm tối vắng vẻ mà bỏ lễ phép. Bá Ngọc là bậc hiền đại phu nên mới thế. Sau vào bệ kiến thì quả là Bá Ngọc.
[13] Đời Đông Tấn, nhà sư Tuệ Viên ở chùa Đông Lâm núi Lư sơn, cùng với bọn Lưu Di Dân mở rộng chùa cảnh, tu về môn tịnh độ. Trong khu vực đó có chiếc ao trồng sen trắng, nhân gọi đó là Bạch Liên xã. Ở đây, tác giả muốn ví mình như Cừ Bá Ngọc.
[14] Sách Mạnh Tử: Y Doãn cấy ở bãi Hữu Sằn, vua Thành Thang đem lụa tới mời về, ông dương dương tự đắc nói: “Ta ở nơi đồng ruộng, vui về đạo Nghiêu Thuấn, chứ nhận lụa của nhà vua làm gì?” Sau vua Thang ba lần tới vời, ông mới đổi sắc mặt nói: “Ta là bậc thiên dân giác ngộ trước, ta sẽ đem đạo Nghiêu Thuấn đó để giác ngộ cho nhân dân sau đây.“Ở đây, tác giả muốn ví mình như Y Doãn.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Ngô Thì Nhậm » Tuyết nguyệt nghi phú