23/04/2024 16:59Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Ký đề giang ngoại thảo đường
寄題江外草堂

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Vanachi vào 17/06/2005 11:53

 

Nguyên tác

我生性放誕,
雅欲逃自然。
嗜酒愛風竹,
卜居必林泉。
遭亂到蜀江,
臥痾遣所便。
誅茅初一畝,
廣地方連延。
經營上元始,
斷手寶應年。
敢謀土木麗,
自覺面勢堅。
臺亭隨高下,
敞豁當清川。
雖有會心侶,
數能同釣船。
幹戈未偃息,
安得酣歌眠。
蛟龍無定窟,
黃鵠摩蒼天。
古來達士志,
寧受外物牽。
顧惟魯鈍姿,
豈識悔吝先。
偶攜老妻去,
慘澹凌風煙。
事跡無固必,
幽貞愧雙全。
尚念四小松,
蔓草易拘纏。
霜骨不甚長,
永為鄰裡憐。

Phiên âm

Ngã sinh tính phóng đản,
Nhã dục đào tự nhiên.
Thị tửu ái phong trúc,
Bốc cư tất lâm tuyền.
Tao loạn đáo Thục Giang,
Ngoạ kha khiển sở tiện.
Tru mao sơ nhất mẫu,
Quảng địa phương liên diên.
Kinh doanh Thượng Nguyên[1] thuỷ,
Đoạn thủ Bảo Ứng[2] niên.
Cảm mưu thổ mộc lệ,
Tự giác diện thế kiên.
Đài đình tuỳ cao hạ,
Sưởng khoát đương thanh xuyên.
Tuy hữu hội tâm lữ,
Sác năng đồng điếu thuyền.
Can qua vị yển tức,
An đắc hàm ca miên.
Giao long vô định quật,
Hoàng hộc ma thương thiên.
Cổ lai đạt sĩ chí,
Ninh thụ ngoại vật khiên.
Cố duy lỗ độn tư,
Khởi thức hối lận tiên.
Ngẫu huề lão thê khứ,
Thảm đạm lăng phong yên.
Sự tích vô cố tất,
U trinh quý song tuyền (toàn).
Thượng niệm tứ tiểu tùng,
Man thảo dị câu triền.
Sương cốt bất thậm trưởng.
Vĩnh vi lân lý liên.

Dịch nghĩa

Ta sinh ra vốn tính phóng khoáng,
Chỉ muốn lánh vào tự nhiên.
Ham rượu, thích gió trúc,
Chọn chỗ ở phải là chốn lâm tuyền.
Gặp thời loạn lạc, chạy đến đất Thục,
Đau đớn nằm mặc cho qua.
Lúc đầu dọn một mẫu cỏ,
Đất rộng còn liên miên.
Sửa sang từ năm Thượng Nguyên,
Đến năm Bảo Ứng mới dứt tay.
Dám đâu xây đắp xa hoa,
Miễn sao vững bền là được.
Nhà làm theo nơi cao thấp,
Cần rộng rãi nghoảnh mặt ra sông trong mát.
Chỉ có những bạn hiểu lòng,
Thường đến cùng thả thuyền câu cá.
Chinh chiến chưa dập tắt,
Ngủ ngon, ca hát sao yên!
Con giao long không nơi tổ ấm,
Chim hoàng hộc bay sát trời xanh.
Xưa nay chí người hiển đạt,
Có chịu ngoại vật ràng buộc bao giờ?
Chỉ vì tư chất mình đần độn,
Hối hận không biết sớm liệu đường.
Bỗng dắt vợ con đi,
Rầu rĩ xông pha khói gió.
Việc đời không hề cố định,
Cốt sao giữ trọn cái thanh nhã và kiên trinh.
Nhớ tới bốn gốc tùng nhỏ,
Cỏ quấn chằng chịt đầy,
Vóc sương không lớn lên được,
Chỉ khiến hàng xóm xót thương hoài.

Bản dịch của Trần Tuấn Khải

Ta sinh vốn tính trời phóng đản
Muốn ngoài vòng, thanh thản tự nhiên.
Ưa gió trúc, thích hơi men,
Ở thì chọn chốn lâm tuyền làm vui.
Gặp đời loạn về nơi đất Thục,
Gượng đau buồn sai giục dọn qua.
Sửa sang một mẫu vườn nhà,
Xung quanh đất rộng còn là liên miên.
Bắt đầu từ Thượng Nguyên mở dựng,
Mãi đến năm Bảo Ứng vừa xong.
Dám đâu xa xỉ viển vông,
Chẳng qua bền vững dễ trông được rồi.
Nhà cao thấp tuỳ nơi cất đặt,
Rộng thênh thang quay mặt ra sông.
Đôi khi mấy bạn đồng lòng,
Thả thuyền câu cá giữa dòng thảnh thơi.
Đời gươm giáo chưa ngơi xô xát,
Riêng mình mình ngủ hát sao yên.
Giao long lẩn lút bao miền,
Cánh chim hoàng hộc bay xen tận giời.
Nghĩ sau trước mấy người hiểu đạt,
Há chịu đau ngoại vật buộc ràng.
Vì mình gàn dở ương ngang,
Không lo tính trước tìm đường lánh xa.
Nay dắt díu vợ già đến đó,
Trải khói sương trăng gió đê mê.
Việc đời đã chẳng cầu chi,
U trinh mong trọn đôi bề thì hơn.
Thường nhớ tới tùng con bốn gốc,
Cỏ chịt chằng quanh mọc phủ bao.
Vóc sương khôn lẽ lớn cao,
Để cho làng xóm ra vào luống thương.
(Năm 763)

Lời tự: “Tử Châu tác, ký Thành Đô cố cư” 梓州作,寄成都故居 (Viết ở Tử Châu, nói về chỗ ở cũ nơi Thành Đô).

[1, 2] Thượng Nguyên (760-761) và Bảo Ứng (762) đều là niên hiệu đời Đường Túc Tông.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Ký đề giang ngoại thảo đường