16/10/2024 03:53Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Vanachi vào 14/05/2006 12:07
Nguyên tác
望君煙水闊,
揮手淚沾巾。
飛鳥沒何處,
青山空向人。
長江一帆遠,
落日五湖春。
誰見汀洲上,
相思愁白蘋。
Phiên âm
Vọng quân yên thuỷ khoát,
Huy thủ lệ triêm cân.
Phi điểu một hà xứ,
Thanh sơn không hướng nhân.
Trường Giang nhất phàm viễn,
Lạc nhật Ngũ Hồ[1] xuân.
Thuỳ kiến đinh châu thượng,
Tương tư sầu bạch tần.Dịch nghĩa
Ngóng nhìn bạn chỉ thấy mây nước bao la
Vẫy tay từ giã nước mắt thấm ướt khăn áo
Chim bay không biết biến mất về đâu
Núi biếc trơ trơ nhìn người đưa tiễn
Trên Trường Giang một cánh buồm xa xa
Mặt trời lặn chiếu lên Ngũ Hồ một màu xuân sắc
Có ai thấy kẻ đứng trên hòn đảo nhỏ
Tương tư bạn sầu đám cỏ tần trắng xoáBản dịch của Nguyễn Hữu Bông
Nhìn anh: khói, nước mông mênh,
Đầm khăn gạt lệ, nặng tình vẫy tay.
Tuyệt vời, chim nẻo nào bay?
Xanh xanh chỉ ngọn núi này nhìn ta.
Sông dài một lá buồm xa,
Năm hồ in bóng dương tà chiều xuân.
Bãi kia nào thấy cố nhân
Sầu vương cả khóm bạch tần vì ai?
[1] Có hai nghĩa. Một là nói năm hồ ở nước Sở ngày xưa gồm Bá Dương hồ, Động Đình hồ, Sào hồ, Thái hồ và Chung hồ. Hai là tên thường gọi Thái hồ ở khoảng giữa tỉnh Giang Tô và Chiết Giang, vì hồ ấy có năm ngả như năm hồ họp lại làm một.