Trang trong tổng số 7 trang (61 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Giai thoại thơ Đường - Cao Tự Thanh

Người tiên mời rượu ở đâu rày?

Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai,
Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi.
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai,
Ước cũ duyên thừa có thế thôi.
Đá mòn rêu nhạt,
Nước chảy hoa trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời.
Trời đất từ đây xa cách mãi,
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
Ai cũng biết bài Tống biệt trên đây là của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, song có lẽ ít người đối chiếu để thấy cảm hứng chủ đạo của nó đã được khơi…
Ảnh đại diện

Giai thoại thơ Đường - Cao Tự Thanh

Sứ quân họ Bạch là tài tử
 
Vu Sơn là một dãy núi ở Tứ Xuyên, Trung Quốc. Núi này gồm mười hai ngọn, ngọn cao nhất là Thần Nữ phong, dưới có đền thờ Thần nữ. Thời Chiến quốc, nhà thơ nổi tiếng nước Sở là Tống Ngọc cùng Sở Tương vương ra chơi đầm Vân Mộng (đầm lớn ở Hồ Nam, Hồ Bắc), làm bài Cao Đường phú, đề tựa rằng “Xưa tiên vương ra chơi Cao Đường (tên một cái đài của nước Sở trong đầm Vân Mộng), đến tối đi nghỉ, mộng thấy một nữ nhân tới nói là gái ở Vu Sơn, làm khách Cao Đường, nghe vua tới…
Ảnh đại diện

Giai thoại thơ Đường - Cao Tự Thanh

Nguyên Chẩn, nhà thơ đa tình

Thi nhân vốn đa tình, nên nói Nguyên Chẩn là một nhà thơ đa tình e chưa chính xác. Song người đời cũng có lắm kẻ đa tình mà không phải là thi nhân, vả chăng sự đa tình ở thi nhân cũng có lắm chỗ khác với người đời, nên nói như vậy cốt để làm rõ rằng ông chỉ là người đa tình trong các nhà thơ mà thôi, chứ chẳng phải là so với con người trong thiên hạ.

Chẩn nghe danh kỹ Tiết Đào ở Ích Châu giỏi từ chương, muốn gặp mà chưa có dịp. Đến khi được cử làm Giám sát vào…
Ảnh đại diện

Giai thoại thơ Đường - Cao Tự Thanh

Ngày xưa vâng lệnh triệu, Lòng đạo dễ đâu toàn

 Phí Quan Khanh tự Tử Quân, người Trì Châu. Đi học lâu ngày ở kinh đô, có làm bài thơ Cảm hoài:

Huỳnh chúc bất vi khổ, Cầu danh thủy tân toan.
Thượng quốc vô giao thân, Thỉnh yết đa thiểu nan.
Cửu nguyệt phong đáo diện, Tu hãn thành băng phiến.
Cầu danh sĩ công đạo, Danh dữ công đạo viễn.
Lực tận đắc nhất danh, Tha hỉ ngã thả khinh.
Gia thư thập niên tuyệt, Quy khứ tri thùy vinh.
Mã tê Vị Kiều liễu, Đặc địa khởi sầu thanh.
(Học…
Ảnh đại diện

Giai thoại thơ Đường - Cao Tự Thanh

Ruộng vườn mờ mịt lối
 
Lưu U Cầu có bài thơ Thư hoài (Tỏ nỗi lòng) như sau:

Tâm vị minh thời tận,
Quân môn thượng bất dung.
Điền viên mê kính lộ,
Quy khứ dục hà tùng.
(Lòng dạ phô bày hết,
Cửa vua còn chẳng dung,
Ruộng vườn mờ mịt lối,
Quay bước khó về cùng).


Lưu U Cầu người Ký Châu, cuối đời Trung tông làm quan tới chức Ngự sử. Khi Vi hoàng hậu đầu độc Trung tông, phế Tương vương mà lập Ôn vương làm vua để thao túng triều đình, con Tương vương là Lâm Tri vương Long Cơ…
Ảnh đại diện

Giai thoại thơ Đường - Cao Tự Thanh

Một thời làm khách nay về lại
 
Thôi Nguyên Lượng tự Hối Thúc, người Từ Châu, sinh năm Đại Lịch nguyên niên (766). Năm Trinh Nguyên thứ 19 (803) triều đình mở khoa Hoằng từ cho những người đã đậu Tiến sĩ và làm quan thi, lấy bốn người là Nguyên Chẩn, Lã Quế, Vương Khởi, Bạch Cư Dị đậu hạng Bạt tụy, bốn người là Lý Phục Lễ, Lã Tần, Kha Thư Viên, Thôi Nguyên Lượng đậu hạng Bình phán. Nguyên Lượng đậu sau rốt, có thơ tự vịnh như sau:

Nhân gian bất hội vân gian sự,
Ưng tiếu Bồng Lai tối hậu…
Ảnh đại diện

Giai thoại thơ Đường - Cao Tự Thanh

Làm sao chống lạnh đây

 Nho giáo đề cao đạo thầy trò tới mức đặt thầy trên cha trong thứ bậc Quân Sư Phụ. Triều đình nhà Đường cũng vậy. Sử sách chép khi Lý Thế Dân còn là Tần vương, được Đường Cao tổ Lý Uyên đón Trương Phục Dận làm khách dạy cho kinh sử. Sau Thế Dân lên ngôi, có lần đãi yến quần thần ở hồ Nguyệt Trì, đắc ý hỏi Trương Phục Dận rằng “Như đệ tử ngày nay thì thế nào?”. Phục Dận tâu “Xưa đức Khổng tử có ba ngàn học trò mà kẻ được vinh hiển chẳng một ai được phong tới tước tử tước…
Ảnh đại diện

Giai thoại thơ Đường - Cao Tự Thanh

Qua mùa chưa bỏ giàn leo cũ

Lý Quý Lan giỏi thơ ngũ ngôn, có bài Ký Hàn Hiệu thư gởi Hiệu thư lang Hàn Bát rằng:

Vô sự Ô Trình huyện
Ta đà tuế nguyệt dư
Bất tri Lan các sứ
Tịch mịch ý hà như?
Viễn thuỷ phù tiên trạo
Hàn tin bạn sứ cư (xa)
Nhân quá Đại Lôi ngạn
Mạc vong bát hàng thư

(Huyện Ô Trình rảnh rỗi
Năm tháng luống ơ thờ
Chẳng biết người văn nhã
Cô đơn ý có mơ?
Chèo tiên khua nước vằng
Xe sứ mỏi sao mờ
Qua bến Đại Lôi ấy
Đừng quên gửi ít thơ)

Bài thơ thật độc đáo,…
Ảnh đại diện

Giai thoại thơ Đường - Cao Tự Thanh

Khiến người lại nhớ Bình Nguyên Quân

...Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu
Còn như vào trước ra sau
Ai cho kén chọn vàng thau tại mình
Từ rằng: Lời nói hữu tình
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên quân

Ngoài lối "đoạn chương thủ nghĩa" dùng cho câu đầu, trong đoạn đối đáp giữa Thuý Kiều và Từ Hải trên đây, Nguyễn Du đã dịch hai câu thơ của Cao Thích để nói lên sự cô đơn của nàng tài nữ Thuý Kiều trong việc tìm một kẻ sĩ tri âm và sự ngạc nhiên của người anh hùng Từ Hải khi giữa một cuộc…
Ảnh đại diện

Giai thoại thơ Đường - Cao Tự Thanh

Cát vàng chảy thẳng vào mây trắng

Vương Chi Hoán cùng Vương Xương Linh, Cao Thích uống rượu trong quán, có bọn giáo phường tới ca hát. Thời bấyg ìơ những ca kỹ thường lấy thơ của các danh sĩ phổ nhạc để hát, nên bọn Chi Hoán nhân đó hẹn nhau rằng nếu người nào có thơ được hát nhiều thì người ấy giỏi hơn. Người ca kỹ đầu tiên bước ra hát, là bài Phù Dung lâu tống Tân Tiệm của Vương Xương Linh:

Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô
Bình minh tống khách Sở sơn cô
Lạc Dương thân hữu như tương vấn
Nhất…

Trang trong tổng số 7 trang (61 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài viết:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tìm trong:

Tên chủ đề:

Nội dung:

Người gửi:

Diễn đàn:

Gửi sau ngày (ngày/tháng/năm):

Gửi trước ngày (ngày/tháng/năm):