Trang trong tổng số 1 trang (5 bài viết)
[1]

Ảnh đại diện

Hạnh Anh

Đã Chuyển  
Thơ Đỗ Biện

Truyện ngắn Đỗ Biện
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

@Gửi bạn Hạnh Anh: Đề nghị bạn hãy tách chủ đề Văn và Thơ ra riêng biệt. Chủ đề về văn bạn hãy gửi vào ngay đây, còn thơ, xin bạn hãy mở chủ đề trong diễn đàn thơ thành viên-thơ mới hoặc thơ tập cổ (tuỳ theo thể loại).
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hạnh Anh

CÂU CHUYỆN Ở NHÀ ÔNG BÀ NGOẠI
(Truyện ngắn)
(Phần 1)
                                             Kính tặng: Quê Ngoại với đầy ắp những  kỷ niệm tuổi thơ yêu dấu
 Nhà Ông Bà Ngoại và nhà tôi ở cách nhau làng trên làng  dưới. Mẹ tôi ngày ấy thường có những thời gian khi thì vài ngày khi thì nửa tháng về bên Ngoại để tham gia công việc trong những  dịp ngày mùa  cấy hái, thu hoạch. . . Nhà Ông Bà tôi có nhiều ruộng vườn, đông vui, có nhiều người ở đi làm. Ông Bà tôi  hiền lành, phúc hậu, những người ở rất quý, họ thấy rất hạnh phúc khi ở và làm việc cho Ông Bà. Đa số họ còn rất trẻ ở độ mười chín đôi mươi. Cái thời ấy thanh niên nông thôn  có ai biết học hành là gì đâu. Đất nước chìm trong đêm đen nô lệ, những người trẻ tuổi lớn lên họ chẳng biết làm gì ngoài  công việc đồng áng. Nhưng cũng không phải nhà ai cũng có đủ ruộng đất mà làm. Họ còn trẻ, nam có, nữ có,  có sức khoẻ, họ đi làm để lấy công nuôi thân, cưu mang người nhà. Sức trẻ của họ đã làm ra bao của cải, lương thực. Gặp được nhà chủ  giầu lòng bác ái  như ông bà ngoại tôi thì thật là may mắn, ngoài cái vô tư của tuổi trẻ, họ còn thấy hạnh phúc nữa, bởi còn có  những câu chuyện tình  xung quanh cuộc sống lao động của họ. Có chuyện thì buồn cười, có chuyện thì nghiêm túc. Có những cặp nên vợ nên chồng vì được ông bà tôi  luôn  tác thành, cưới xin , cho đất ở riêng. . .Với con cái trong gia đình, những người như Mẹ  tôi  và  các Gì, Cậu , đối với những người  ở  thật chẳng có một khoảng cách nào. Ngày ngày đi làm cùng, ăn uống cùng, sinh hoạt cùng, những buồn vui đều được chia sẻ.  Họ thân mật như anh em ruột …
 Có một đêm khoảng cuối mùa xuân, dịp sau tết, cấy hái đã xong, mọi người  đều nghe thấy tiếng  nổ  ình ình  ở phía đông, hướng Hà nội , Phùng. Họ kéo nhau ra ngoài rìa xóm để xem và  ai cũng nhìn thấy ánh  hồng rực ở phía ấy. Không ai biết là chuyện gì . . . Mâý  hôm sau mọi người nghe và truyền cho nhau hay tin :
     -  Tiếng nổ  ấy là do quân Nhật đảo chính  quân  Pháp  đấy.
     - Đảo chính là thế nào  nhỉ ?
     -  Là  đánh  nhau  chứ còn là thế nào . . .
     -  Chắc  là   nay  mai  quân Nhật sẽ  kéo  về đây . . .
  Còn cụ thể ra sao thì chẳng biết thế nào nữa . . . Thời gian lẳng lặng trôi . . .
Thế rồi chỉ một thời gian ngắn sau, cả làng  tôi  ai cũng thấy những toán lính Tây từng  đơn vị nhỏ đi  qua làng. Chúng chỉ đi qua, không ghé vào làm việc gì với chức sắc  trong làng .
Mỗi toán chỉ chừng nhiều nhất là ba chục tên. Trông dáng điệu của  chúng  người ta  hiểu được chúng là những kẻ thất  trận. Cái tin đồn quân Nhật đã hất cẳng quân Pháp  đã được minh chứng rõ ràng.Trong tốp binh lính đi đầu bao giờ cũng có  một tên chỉ huy. Tên sĩ quan Pháp  cao to , mặt đỏ như gấc, đầu đội chiếc mũ  có lưỡi, vai đeo ngù màu vàng choé, tay hắn cầm chiếc gậy có tay cầm nạm vàng rất đẹp. Chúng đi  bộ với dáng rã rượi thất thểu, lặng lẽ, chỉ nghe thấy tiếng bước chân ràn rạt đều đặn, không có tiếng hò hét nào, có đôi ba con ngựa được dắt theo. Những con ngựa thường đi  ở cuối hàng quân và được những tên lính không mang súng đẫn dắt. Có đôi lần khi đi  qua ngọn tre nào ngả xuống thấp, tên lính dắt ngựa dừng lại. Hắn trèo đứng lên lưng ngựa, tay bám cành tre đu người vít cành tre xuống để lấy lá cho ngựa ăn. Bị  tên lính Pháp nặng hàng tạ đu người kéo xuống. Những thân cây tre mảnh mai đơn độc đau đớn rời khỏi  bụi  bờ  và  chịu để cho những tên lính mắt xanh mũi khoằm cướp đi những tàu lá xanh quý giá, những chân tay  rứt ruột của mình để dành cho con ngựa của những kẻ không ai mời mà kéo đến đây  . . .
Chúng là những đơn vị quân Pháp đồn trú ở Hà nội vừa bị quân Nhật  đẩy lên đây.
Có đơn vị thì bị tấn công vào giữa trại, tên nào còn sống sót thì  kéo nhau chạy thành tốp . Có đơn vị thì được lệnh của chỉ huy nhanh chóng tập hợp rút chạy nhanh chóng ra khỏi khu vực trước khi những làn đạn của quân Nhật  bắn tới . . . Tan tác, náo loạn không thể nào tập hợp được đội hình để chống trả được nữa. Chúng hè nhau  tháo chạy về hướng Tây Hà nội để dần rút về biên giới sang đất rừng núi của nước Lào. Những tên lính Pháp  mệt mỏi, vũ khí còn nguyên vẹn, đầu đội mũ sắt, mình vận bộ quần áo nhà binh màu vàng xám. Những đôi giầy xăng đá không còn nện gót  mạnh cồm cộp xuống nền đường  nữa, những đôi  mắt đờ đẫn chăm chú nhìn đường, đầu cúi gằm bước đi . . .    
        Một  thời gian  sau, dễ đến hơn  một  tháng có dư, vào một buổi giữa trưa, dưới cái ánh  chang chang của cái  nắng  đầu hè,  khi cả nhà đang ăn cơm  thì nghe tiếng chó sủa rộ ngoài sân. Ông tôi bảo người nhà  ra  xem sao . . .
 Một người cao lớn đã bước vào trong sân, thấy người lạ mấy con chó càng sủa dữ.
Sau khi chỉ chỉ hai bàn tay ra ý bảo người nhà dẹp chó đi và đàn chó đã được xích lại. Cái sân thì rộng, người ấy  đứng ở giữa sân mà trông vẫn cao lênh khênh.  Hai tay người ấy để trước ngực, dáng  hơi còng còng. Người ấy  bước lại gần. Mọi người nhìn ra, ai cũng ngạc nhiên sửng sốt : Đó là một thằng lính Tây . Chao ôi! Một thằng Tây thực sự. Trông hắn thì. . . như một con. . .“ma trơi”: Đầu không mũ, tay không, râu ria xồm xoàm, bộ mặt hốc hác trông thật vô cùng thảm hại. Trên người còn nguyên bộ  quần áo lính rách rưới, lấm lem, bẩn thỉu. Hắn bước đi  chầm chậm về phía mọi người với dáng điệu rất dè dặt (Chắc hẳn là rất khác với khi mới đến, súng lăm lăm trong tay cùng đồng bọn tràn lên một nơi nào đó trên đất Việt).. Chưa thể hiện lời nói nào, hai tay hắn buông xuống chuẩn bị làm một động tác ra hiệu nào đó và  chắc hẳn hắn càng chưa thể mường tượng  tình huống sắp tới sẽ ra sao đối với  tấm thân tàn tạ heó hắt của mình : May hay rủi , lành hay dữ . . .
  Ta thật  đồng cảm ở mức độ cao với hắn  ở lòng vị tha của Chúa. Chắc là sáng sớm nay hắn đã kịp cầu nguyện “Đấng  tối cao lòng thành phù hộ” . . . Số là , khi ấy Bác tôi (Bác là cả, mẹ tôi là thứ hai  sau đó là hai gì và một cậu út) đang dạy học ở nhà cũng đang ngồi cùng cả nhà ăn cơm . Ông nguyên là học sinh trường Bưởi, lúc bấy giờ được là học sinh của trường Bưởi  thật là khó khăn và giá trị lắm bởi  vì  phải  qua kì thi công cua toàn phần thì mới được vào học trường Bưởi. Sở dĩ Bác đang ở nhà dạo này vì một lí do mà toàn bộ số học sinh trí thức như Bác vì lí do ấy đã đứng trong hàng ngũ những nhà  trí thức yêu nước  và bị  buộc thôi  học. Sự kiện ấy đã diễn ra cụ thể như sau:
 Khi học tập ở trường Bưởi, giới thanh niên, học sinh trí thức thường có những hoạt động đoàn thể  rất tích cực : Như  cắt tóc ngắn (nam giới không búi tóc, nhuộm răng đen nữa), không du nhập các phong tục văn hoá Tây phương và đặc biệt  là phong trào để tang cụ Phan Chu Trinh sau khi cụ mất đã làm nhà trường thuộc Pháp nổi giận. Họ lập danh sách và buộc số học sinh này phải thôi  học.
    Bác tôi  trở về quê  mở lớp dạy học.
Quãng thời gian ấy Bác tôi  lại là những người đầu tiên  của vùng được một  chiến sĩ  cách mạng vừa thoát khỏi  nhà tù Sơn la của Pháp trở về quê hương giác ngộ Cách mạng. Là những người đầu tiên tham gia các hoạt động  tuyên truyền vận động, tổ chức các  nhóm cán bộ  hoạt động  để nhân rộng  ra các tổ chức cách mạng. Bác vào Đảng cộng sản Việt nam từ những ngày đầu  ấy, là cán bộ chủ chốt của vùng. Rồi đến những  năm sau,  cuộc Cách mạng Tháng Tám long trời lở đất đã  diễn ra. Ông  là những nhà Cách mạng đầu tiên của quê hưong đứng lên  dũng cảm  tổ  chức  nhân dân giành chính quyền từ tay giặc. Là những người đầu tiên lãnh đạo chính quyền mới, những người đầu tiên thành lập chi bộ Đảng cộng sản Việt nam ở xã nhà. Rồi sau đó cuộc Kháng chiến toàn quốc chống Thực dân Pháp bùng nổ . Bác lại ra đi, xông pha vào cuộc  chiến đấu trường  kỳ  gian  lao  cho đến ngày thắng  lợi . . .  Còn Ông Bà tôi sau  những ngày đầu thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã một lòng  thể hiện lòng yêu nước  qua sự nhiệt tâm ủng hộ cách mạng, ủng hộ hính quyền mới. Sau những đợt vẫn động quyên góp vàng, quyên góp tiền để ủng hộ chính phủ mới, ủng hộ  nhà nước  non trẻ. Ông Bà Ngoại đã ủng hộ không biết bao nhiêu  lần , tổng con số là bao nhiêu, không  có ai thống kê . . . Chỉ  có một sự kiện đã diễn ra mà ai ai cũng biết  rằng  Gia đình Ông Bà Ngoại tôi hồi đó  đã được Chính phủ và Bác Hồ trao tặng một tấm bằng có công với nước và một đồng tiền vàng .  
  Trở lại câu chuyện về người lính Pháp. Hắn đứng giữa sân như trời trồng. Ngập ngừng chưa giám bước tiếp, hắn như đang chờ một cái  gì  đó sắp đến . . .  Bác tôi  bỏ đũa đứng lên đi  ra đứng  trước mặt  anh ta.  Hai người bắt đầu đối thoại. Trình độ  tiếng Pháp của một  cựu học sinh trường Bưởi thật quả là một vận may đem lại
điều sung sướng vô cùng cho kẻ sa cơ trong lúc này.
   Mọi người vẫn ngồi ăn cơm vì đang  giữa bữa, nghe hai người xì xồ nói với nhau những gì  không ai biết. Chỉ thấy trên gương mặt người lính Pháp đã lộ rõ vẻ rạng rỡ, tia hy vọng cứ rạng lên, nhìn động tác của hắn lúc thì  cúi xúống như đang bò, lúc thì  xoa xoa hai bàn tay lên mặt để diễn tả một  điều gì đó . . .
  Tiếp xúc một lúc sau Bác tôi quay vào mâm cơm  nói với mọi người: “Lấy cho nó bát cơm và thức ăn cho nó ăn”. Mấy người con gái trẻ xúc cơm và thức ăn vào một cái bát to, lấy một đôi đũa, nhưng không  ai dám mang  lại gần “thằng Tây” vì sợ. Bác tôi cầm cốc nước, tô cơm và đôi đũa đưa cho nó.
   Tên lính Pháp cầm tô cơm và đôi  đũa. Động tác của hắn rất trịnh trọng  nhưng hắn cứ xoay bên phải  lại xoay bên trái, loay hoay mãi không biết  làm thế nào bằng đôi đũa để đưa được mấy hạt cơm và miếng thịt vào cái  bụng đã lép kẹp của hắn. Mọi người nhìn nhau bấm bụng mà cười. Ông tôi  lại  lệnh cho ai đó  kiếm cái thìa  đưa  cho  hắn và . . .
Hắn đã được ngồi xuống chiếc ghế  dài có chân cao (Gọi là chân mễ để kê bồ thóc) được đặt ở dưới mái hiên nhà tránh nắng. Động tác vẫn dè dặt, trịnh trọng . . .
Khỏi phải  bàn về những điều gì  hiện đang diễn ra trong lòng người lính Pháp đang ở cái  tình  cảnh bi ai như  thế này. Trước hết là cái đói, cái khát đã được đáp ứng. Hắn  ăn như thể chưa bao giờ được ăn, thỉnh thoảng có ngước lên , đôi mắt thì liến  loắng  nhìn vào mọi  người ra ý hàm ơn . Hắn say sưa giải quyết vấn đề trước mắt mà chắc hẳn hắn không muốn, không giám nghĩ lại những giây phút kinh hoàng những  ngày vừa qua. . .
   Anh ta là lính của một đơn vị thường trực đồn trú tại làng Ngọc Hà, Hà nội. Cái  đêm khủng khiếp ấy làm sao mà quên được. Hai giờ sáng, hắn vừa thiu thiu ngủ sau ca thay gác thì  những tiếng nổ oành oành của đủ các thứ đạn to đạn nhỏ  đã thức hắn dậy. Ông trung uý quan hai Morant chưa kịp rúc còi tập hợp  quân lính thì  đã nghe thấy thêm nhiều tiếng súng  trường nổ đọp đọp, tiếng kêu rú ở đầu dãy và tiếng hò hét của bọn lính Nhật. Chúng đã tràn vào các dãy nhà lính bắn súng uy hiếp vào các phòng ở, chúng sẵn sàng tiêu diệt kẻ nào chống cự, có lẽ trong đám lính đồng đội của hắn có kẻ đã trúng đạn, bị thương. . . và hắn, cái  người lính Pháp khốn khổ ấy không chạy ra để đứng trước mũi súng của bọn Nhật mà lợi dụng lúc nhốn nháo đã tìm một xó tối và  nấp vào đó. Khi bọn lính Nhật chạy tới chạy lui  qua khỏi, chọn thời điểm vắng không còn tên nào, hắn đã lẩn ra  khỏi dãy nhà chạy thục mạng ra phía hàng rào, chạy hẳn ra ngoài dễ dàng bởi hàng rào chỉ là một vài sợi thép gai thưa, đóng quân ở đây đã lâu, sâu trong làng, dân chúng nơm nớp lo sợ, bọn lính Pháp đã làm mưa làm gió ở đây. Chúng rất chủ quan vì cho rằng chẳng có khi nào chúng lại bị tấn công cả , chẳng hề thấy một lực lượng bạo lực nào chống đối đứng trước mũi súng của quân đội Pháp ngoài đám dân chúng nghèo nàn khổ  sở  hèn mọn kia. Ra khỏi trại lính, hắn, Phơranxoa tạt ngay vào khu nhà dân  cạnh đó,  súng ống, thức ăn thức uống  bỏ lại hết chẳng hề nghĩ đến. Hắn chẳng thể nào  cầm  mang theo  bất cứ một cái  gì khác ngoài bộ quần áo đang mặc trên người.  Khu nhà dân này dường  như cũng đã  vắng hẳn người ở từ khi đơn vị hắn đến đóng ở đây, nhièu người , nhiều gia đình đã bỏ đi tản cư  nơi khác,  vì vậy hắn tương đối ung dung khi ra khỏi khu trại lính . Nhưng hắn biết đi  đâu bây giờ. Không thể ở lại khu dân cư này được vì bọn Nhật chỉ ngày mai sẽ sục đến . Hắn chỉ biết trước mắt hãy thật nhanh ra khỏi  cái  đám  ùng oằng chiến sự . Cứ nhằm thẳng đêm đen phía trước, hãy để lại sau gáy  đám lửa đỏ rợp trời kia càng xa càng tốt và  hắn  cứ lùi lũi mò mẫm mà bước đi . . .
   Ra khỏi cái làng  dân vắng vẻ ấy là gặp ngay cánh đồng. Đồng lúa vừa sau vụ cấy hãy còn non, cứ lọp xọp mà lội. Đôi giày xăng đá được thít dây lại cho thật chặt . Hãy cứ  lội đi  cái đã, bên tai vẫn còn văng vẳng tiếng hò hét, tiếng nổ ầm ầm và ánh hồng của lửa đỏ vẫn hằn đến đây. Vẫn phải lội, lội nữa, hai cẳng chân, cổ chân, bắp đùi mỏi dừ như rụng ra khỏi cơ thể hắn. Ngã dúi ngã dụi, lại đứng lên mà lội. Hắn không thể dừng và ngủ thiếp trên quãng đồng này bởi hắn thừa biết chỉ ngày mai thôi bọn Nhật vốn xông xáo sẽ đi lùng sục. Việc hất cẳng người Pháp chắc chắn là xong xuôi  rồi. . .
Hắn phải tránh được những đụng độ  trước mắt ấy và phải tiếp tục bước đi cho xa hơn cho dù phía trước chỉ là đêm đen mịt mùng và chẳng có một điều gì chờ đợi. Chẳng có một niềm hy vọng cho hắn dù chỉ mong manh  như sợi chỉ . . .
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hạnh Anh

CÂU CHUYỆN Ở NHÀ ÔNG BÀ NGOẠI
(Phần 2)

 Trời mờ sáng, hắn đã loáng nhìn thấy một màu xanh rờn của lúa, cảm thấy cũng đã xa xa nơi hắn xuất phát, nhưng lại thấy một con đường cái to mà trên đó thấy có  những  tụm người, súc vật trâu bò,  ngựa kéo xe trên đó. Có cả xe nhà binh, hẳn là xe của bọn Nhật. Trong lòng hắn chưa bình tâm chút nào. Hắn cố lia đôi mắt nhằm tìm một bụi cây nào gần đó để núp tạm mà chẳng hề có. Nhưng cuối cùng hắn lại tìm thấy một phên liếp che nắng  trong một lò gạch con con. Một chố trú ẩn  lí tưởng, hắn nghĩ thầm trong bụng như vậy. Hết đi lom khom lại bị, trườn như con rắn, hắn đã luồn được cái thân hình dai ngoẵng  cao gần hai mét  xuống  cái  hố trũng không sâu lắm  nhưng  khô ráo . Từ đây hắn có thể nghỉ  ngơi  định thần lại  một chút và  tiếp tục tính kế . . . Thời tiết lúc này là gần cuối mùa xuân , sáng ra còn hơi  sương lạnh lắm. Thế mà từ đêm qua đến giờ hắn chẳng hề thấy lạnh là gì. Trong lúc hoảng loạn và những cú chạy thục mạng đã cho hắn qua được cảm giác rét mướt, ngay cả khi đang lội trên ruộng lúa đầy bùn nước, thậm chí còn nóng nữa là khác vì trong người hắn luôn có cảm giác nhơm nhớp, hầm hập. Hắn còn có  giây phút nào để nghĩ về đồng đội của hắn nữa? Từng tên một, bọn chúng chạy đi đâu ? Những thàng nào còn sống như hắn hay chết hết cả rồi? Thôi! Không giám nghĩ nữa, lúc này chỉ có tính làm sao cho những đoạn tiếp theo của hắn được trôi chảy mà không phải lâm vào tình cảnh tồi tệ hơn  . . .
  Hơi  ấm của tiết cuối xuân làm cho hắn tỉnh táo hơn,đã thấy loang loáng mặt trời dưói  tấm  cót  che nắng, sau khi nghỉ được một chập, hắn đã thấy lại sức và bắt đầu thấy đói, mới hôm qua, lúc thời gian này hắn đã có thể chuẩn bị lôi  một khúc dăm bông để ăn với mấy lát mì gối ngon lành, trước khi ăn thì  thằng  Robbert lại thường hay thổi  Ac-mo-ni-ca nữa chứ. Nghe  giai điệu bài dân ca vùng Oocleđant
qua tiếng kèn của thằng Robbert thì nhớ quê hương quá chừng. Quê hắn cũng ở vùng trồng nhiều nho, điệu dân ca miêu tả cảnh các cô gái khoác vai nhau tay vung vẩy chiếc làn vừa đi hái nho vừa hát. Hắn đã có những ngày sống êm ả thanh bình đẹp đẽ ở quê hương. Thân trai khoẻ mạnh, được thoả chí căng sức ra  mà  dồn hết cho những vụ nho bội thu của quê nhà. Những đêm thanh cùng đám thanh niên trai gái nhẩy nhót,  hát ca  đến tận khuya  rồi  lăn trên đệm ca bin máy kéo mà ngủ. Thế mà loáng một cái, bây giờ hắn đã phải ở  tận cái nơi xa tít tắp  tận cùng biển Đông. Trở thành một kẻ nghèo xơ xác, cô đơn nhất, khốn  khổ nhất trên thế gian này . . .
 Bao nhiêu câu hỏi đòi hắn phải giải đáp trong lúc này nên hắn chẳng còn thời gian mà than thân trách phận.
  Tiến lên! Tiến lên phía trước, phải  tiến lên  thì mới giải toả được mọi vấn đề. Nguy hiểm nhất là nằm chết gí ở đây. Trước hết là chết đói, thứ hai là sẽ gặp người đi qua đây để đi  làm đồng. Họ sẽ sẵn sàng báo cho quân Nhật  để tiêu diệt hắn. Bởi vì dân xứ này qua bao nhiêu năm dưới ách đô hộ, họ rất căm thù   quân Pháp. Hắn cũng biết vậy nên mọi sự cảnh giác của hắn là rất phù hợp, rất đúng đắn và đã giúp hắn thoát chết trong lúc này. Nhưng hắn cũng không thể đứng thẳng lên mà đi bình thường giữa ban ngày  được. Trên người hắn còn bộ đồ lính, người thì cao lênh khênh so với đám dân Việt kia, còn bộ mặt nữa . .ôi chao, không thể , không thể , phải chờ đến tối thôi. Nhưng mà đi hướng  nào ? Hãy cứ chiếu thẳng hướng vừa đi, nó sẽ  xa dần nơi  cũ, xa hẳn  nơi có bọn “chó” Nhật bản. Đó là điều trước nhất. Thứ hai là tình cảnh này hắn phải tạm gạm gác lại cái khoảng cách vốn sẵn có với người dân bản xứ. Phải cầu xin họ tha thứ, che chở, cho ăn uống thì mới sống được để có chăng tìm thấy toán lính Pháp nào trôi dạt mà nhập bọn. . . Đó là điều duy nhất mà hắn không cần suy tính nhiều  đã  thấy rõ và ngay lập tức định hướng  làm  theo.
  Dù là ban ngày,  giữa đồng không mông quạnh nhưng vì hắn cũng đã tránh xa được hướng đường cái to nên lúc này hắn đã có thể thẳng người mà đi  trên những bờ ruộng lúa. Những cây lúa vừa bén rễ, mới  chớm màu xanh xanh, thấp lè tè chẳng có thể che chở được hắn. Hắn cảm giác những khóm lúa non xanh kia như có nói gì với hắn, khóm nào cũng như khóm nào, chúng reo vui, vẫy vẫy chòm lá mỏng manh vừa nhú. Chúng vô tư quá, chúng ung dung  thanh thản quá. Sao ta là người, là con người hẳn hoi  mà không được như chúng . .  .
Trong đầu  hắn miên man mà chân vẫn cứ chầm chậm bước những bước đều. Đói, khổ, mệt quá chừng, mắt hoa lên mà không biết nghỉ ở chỗ nào, nắng gắt, nóng quá, hắn đã cởi áo lót  ra che lên đầu. Tốt, vừa đỡ nắng, vừa đỡ mặc hai áo nóng vã mồ hôi, mặt trời đã lên đỉnh đầu, hắn đã đi xa chỗ hắn xuất phát  ước tính độ 5 hay 6 cây số. Hắn đã bình tâm hoàn hồn nhìn lại phía sau. Chỉ còn nhìn thấy một vệ xanh xanh màu đậm của làng mạc va nơi dân cư đông đúc của đô thành  Hà nội. Tạm yên rồi, có thể nghĩ rằng thế là thoát được cái nguy nan đe doạ sinh mạng trước mũi súng của bọn Nhật rồi. Làm cái thân lính, làm sao mà hắn biết được tai sao bọn Nhật lại tấn công tiêu diệt chúng. Dạo trước  cũng có một hay hai lần đám binh lính Pháp cũng được các sĩ quan chỉ huy cho biết bọn Nhật đã vào Đông dương, vào nước An nam và  Bộ chỉ huy Pháp  ở Đông dương đã có một số đối sách  trước tình hình này. Nhưng tuyệt nhiên, toàn đơn vị hắn không hề được thông báo gì và không hề có sự chuẩn bị nào cho chiến sự  kiểu  như thế này…
Từ trước đến nay, hắn chỉ thấy quân Pháp đi  đến đâu là đóng đồn đóng bốt đến đó như đi vào chỗ không người. Đất nước này đã quy phục nước Pháp hoàn toàn . . .
Hắn thầm trách bọn chỉ huy không nắm được mối nguy từ quân đội Nhật để đơn vị hắn và đồng bọn lâm vào cảnh khốn cùng. Vừa đi vừa nghĩ, hắn vẫn đảm bảo cho hành trình đúng hướng và lúc này ở phía trước mặt hắn đã thấy xanh xanh ró nét rặng tre của một ngôi làng. Cái làng này cách biệt với những  dãy làng khác, mặt trời đã xế bóng, từ đây hắn đã suy nghĩ và thấy an lòng để tính những việc tiếp theo. Hắn  cho rằng bọn Nhật chưa thể nào đi đến đây . . .
  Nhứng việc tiếp theo, trước hết là làm sao để có cái gì cho vào bụng, như thế là hắn đã chạy để thoát thân bắt đầu từ nửa đêm hôm qua mà bây giờ là nửa buổi chiều hôm sau. Đã bao giờ hắn chịu nhịn lâu như thế này đâu, làm thế nào đây nhỉ, bây giờ chắc hẳn  hắn không thể có ý nghĩ rằng  như đã có lần trước đây hắn  đã cùng đồng bọn giở bản tính thực dân ăn cướp ra với dân chúng  để  giải  quyết vấn đề  đói. .Nhưng cũng không thể  còn cách nào khác là vẫn phải kiếm cái  ăn  trong dân chúng. Chỉ có  ở đó mới có cái để mà ăn và đương nhiên là phải bằng một phương thức khác: Cầu xin họ tha thứ, cứu vớt kẻ đang  đói khát có nguy cơ sắp phải lìa đời này. . .
  Tay chân hắn đã rời rã đến mức không còn cảm giác, hắn chỉ còn cảm thấy tê tê. Hắn hiểu nếu bây giờ hắn tìm một gờ đất nào có bóng để nằm xuống nghỉ  là hắn sẽ nằm mãi mãi  nằm ở đó và không thể dậy được nữa.
 Thể chất như vậy, tay chân đã như vậy nhưng đầu óc hắn vẫn tỉnh táo làm sao.
Mọi ý nghĩ của hẵn vẫn bật ra. Hắn vẫn suy tính từng chi tiết nhỏ, sắp xếp có trình tự . . . Phải chăng,  trong  gian nguy, sức trỗi dậy của một tráng niên đã dồn vào một bộ phận cơ thể của hắn. Đó là trí  não, trong toàn bộ cơ thể hắn bây giờ có lẽ chỉ có một cơ quan làm việc hiệu quả chất lượng nhất, đó là bộ não, và cũng chính vì vậy đã cho phép hắn tồn tại. Hắn liếc nhìn bóng của hắn trên mặt bờ cỏ, bóng đã ngả dài hơn thân hắn, như vậy chẳng bao lâu nữa  mặt trời sẽ lặn và trời sẽ tối. Y nghĩ vào dân chúng xin ăn  đã  được quyết định và khiến hắn phải ngay lập tức hướng bước chân mình về phía ngôi làng. Sự suy tính lúc này có hai nhẽ, một là khi tiếp xúc người ta sẽ  trói hắn lại xử lí theo  kiểu của họ hoặc giam hắn lại để vài hôm sau khi bọn Nhật đến sẽ trao cho chúng. Hai là người ta sẽ cho hắn ăn và để hắn tiếp tục đi . . . Tình huống thứ hai sẽ là một đặc ân đối với hắn. Hắn lại vừa đi vừa suy tính và chẳng mấy chốc hắn đã nhìn thấy một con đường  đất nho nhỏ  dẫn vào ngôi  làng.
  Con đường đất dẫn vào làng ấy có màu vàng oạch nên từ xa non 100 mét  hắn đã nhìn rõ. Nó không thẳng tắp mà hơi  ngoằn nghèo một chút. Phranxoa ngắm con đường, cảm giác hơi  là lạ, vì sao nó không thẳng, mà màu vàng của nó  nổi lên trên nền xanh của những thửa ruộng lúa được soi dưới ánh nắng chiều  trông cứ như trên một bức tranh vậy. Đất nước này đẹp là vậy mà người ta mang  súng đạn, chiến tranh đến đây làm gì nhỉ. Để cho hắn phải  từ  biệt quê hương và cô vợ chưa cưới  vượt muôn trùng đaị dương đến đây, những cuộc bắn phá ở đây đã mang lại gì cho nước Pháp? Bao giờ thì đến một kết cục và cái kết cục đó là gì vậy ? Mấy câu hỏi ấy lại cùng một lúc vụt thoáng qua trong đầu người lính của quân đội thực dân . . . Anh ta không thể nào trả lời được, đã có bao giờ và đã có ai  nói cho anh ta nghe bao giờ đâu. Thuở còn trẻ đi học, khi được nghe các linh mục giảng giải  trong trường giòng, họ chỉ nói những vấn đề  về giáo phái của họ. Khi nghe các triết gia của giới quý tộc nói chuyện, Phơranxoa hiểu thêm về địa lý, hiểu về những ai đã  làm phát triển rực rỡ những vùng miền rộng lớn đó, những ai có quyền thượng đẳng  trong một nền văn minh mà họ đã  tạo nên . . . Còn những chuyện súng đạn ở nơi đây thì . . . tuyệt nhiên  không, không có ai nói đến một câu nào. Phoranxoa không suy nghĩ câu trả lời, và cúng không suy nghĩ  điều gì thêm nữa, một vật thể có hình ảnh là một mảnh vuông có màu bàng bạc dội về ánh mắt của anh ta. Cái  mảnh vuông ấy ở dưới chân  rặng cây xanh. Cái  gì vậy? Phoranxoa lấy bàn tay che ánh nắng chièu, chớp chớp đôi mắt mệt mỏi, anh ta thu gọn hình ảnh ấy vào đôi  mắt, tư duy ngắn ngủi mấy giây và đã rút ra  một xác định: Đó là một mái lều, con đường đất đỏ  dẫn lối vào sẽ gặp mái  lều ấy trước khi bước vào  làng.
 Dừng lại một chút, lấy thêm một chút bình tĩnh, Phranxoa mạnh dạn bước lên con đường đất đỏ. Tương đối kĩ càng khi dự tính các tình huống sẽ đến sắp tới, anh ta lấy cái  áo lót trùm lên đầu, che mồm, mũi và chỉ để hở đôi mắt và cứ thế bước lên phía trước. Tuy trời đã về chiều nhưng mặt trời còn non con sào, trời còn sáng nên Phoranxoa đã nhìn thấy trong túp lều ấy có người . . .
  Căn lều ấy chưa phải là nhà ở của một gia đình mà chỉlà một quán bán hàng ở đầu làng và người đang ngồi bán hàng là một phụ nữ đã luống tuổi . . .
     Người chủ quán bán hàng nhìn thấy từ xa một người dáng cao lớn đang đi về phía mình. Quán đang vắng, chị thấy vui vui khi có khách đến. Khi đi vào đến bóng dâm của ngọn tre. Người khách dừng lại. Người ấy lấy tay sửa lại cổ áo và cái “khăn” màu trắng trùm đầu. Chị chủ quán cứ nghĩ người ấy sẽ bỏ cái “khăn” trùm đầu để tránh nắng ra, nhưng không. Người ấy hình như còn quấn lại “cái khăn” cho thêm kín mặt và dừng lại nhìn chị chằm chằm, hai tay người ấy để trước ngực dáng vẻ khúm núm chứ không đàng hoàng.
     -  Bác vào hàng em uống nước bác ơi!  Chủ  quán lớn tiếng gọi mà chưa để ý đến dáng điệu của “người khách”
 Người kia không đáp lại câu gì, bước chậm  rãi lên một hai bước rồi lại dừng lại và vẫn cứ nhìn người chủ quán chằm chằm.
      - Bác vào uống nước cái đã ..., chiều rồi còn định đi đâu?  
 Chỉ cách “người khách” độ non 20 thước, đã hai lần lên tiếng và đoán biết  “người khách “ có thể đã nghe thấy, khi mời gọi cùng động tác vẫy vẫy bàn tay thì  hẳn anh ta đã lĩnh hội được ý của chị .
   Những tưởng “khách” sẽ vui vẻ vào quán uống nước, nhưng chị chủ quán ngạc nhiên khi thấy người lạ không biết mặt mũi ra sao, hai mắt  cứ  thô lố lên mà nhìn.  Anh ta tiến lên một vài bước nữa vẫn không nói câu gì. Không cởi  đồ che mặt ra rồi bất thình lình anh ta  quỳ mọp xuống đất, hai tay chắp trước ngực, đầu cúi xuống hướng về chị  gật lia lịa. Chị chủ quán xiét đỗi ngạc nhiên, cũng chưa biết trao đổi với  ai  xung quanh vì  chẳng có ai ở gần đây cả . . . Hai người cứ như vậy nhìn nhau. Chẳng ai nói  thêm câu nào, kẻ đang quỳ thì vừa cúi đầu xuống lại vừa chờ thái độ của  người đang ngồi trong lều. Còn người chủ quán thì không biết xử sự thế nào tiếp theo.Thế rồi thời gian cũng đã trôi đi được một chập. Rất hay lúc ấy  có một người nông dân  đi  thăm đồng về đến đó với cái  nón đội trên đầu , vai vác chiếc cuốc. Bác ta cũng lấy làm lạ khi thấy một người đang quỳ dưới đất  cách quán nước độ  hơn mươi  bước chân. Sao? Anh ta làm gì thế này?  Không vào hẳn quán mà uống nước mà lại quỳ ở đây thế này? Chắc hẳn cũng có chuyện gì? Bước lại gần người lạ, bác ta nhận ra cái người mặc đồ lính, vải trắng che mặt nhưng đã lộ ra  nhúm tóc rủ xuống trán màu vàng hoe, đôi mắt thì xanh biếc, người dáng to cao… Dù có sững sờ đôi chút nhưng  người nông dân ấy cũng nhận ra và xác định đó là một người lính Tây...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hạnh Anh

CÂU CHUYỆN Ở NHÀ ÔNG BÀ NGOẠI
(Phần 3)
Song  với dáng vẻ của người lính  trông rất là yếu thế như thế này, không phải đắn đo gì thêm, người nông dân bước lại trước mặt Phranxoa :
    -  Ông là ai?  Đi  đâu?
Nghe câu hỏi giật, dù không biết tiếng Việt nhưng Phranxoa dường như cũng hiểu là mình phải trả lời câu gì … Hắn ấp úng :
    -  Mour, Mour france (Tôi  là người Pháp). Vừa nói hắn vừa đưa tay chỉ về phía  hắn vừa ra đi, phía Hà Nội . . .
   Anh nông dân  hiểu ra ngay vấn đề  bởi cả vùng quê  anh đã rộ lên  sự kiện quân Nhật  đã hất cẳng quân Pháp để chiếm quyền cai trị. Súng nổ ùng oàng từ  tối hôm qua đến tận sáng nay. Người ta nói quân Pháp đã thua chạy tan tác  khắp nơi  và
có lẽ . . . đây là hình ảnh minh chứng.
   Chị chủ quán quan sát cả hai người và để cho họ “trao đổi” với nhau xong, cùng bước lại gần quán mới hỏi. Chị cũng vô cúng sửng sốt  nhận ra kẻ mới đến và cũng đoán  người lạ là ai… Có thêm người nông dân, chị vững tâm không sợ
  -   Lính Tây đồn đấy hả bác Đương? Chắc là chạy tan tác cả lũ hôm qua đấy  . .
Phran xoa làm thêm một vài động tác, một  tay hắn ôm vào bụng, một tay hắn chỉ vào mấy cái bánh tẻ trên sạp bán hàng . . .
   Cả hai người đều hiểu tình cảnh của hắn, hiểu mình phải làm gì  là  nên trong hoàn cảnh này. Rốt cuộc cũng chẳng có ai là đồng ý chứa chấp hắn cả. Chị chủ quán mời  ông Đương (tên người nông dân) uống nước và hai người thống nhất với nhau là cho hắn cái gì để ăn rồi về báo cho các ông chức sắc trong thôn làng . . . Trước mắt  trời tối rồi, chủ quán dọn hàng về và để hắn nghỉ  đêm tại cái  lều này. Đêm ấy, sau những thời khắc kinh hoàng, khổ sở, mỏng manh, Phranxoa tên lính thực dân khốn khổ và tiều tuỵ  đã được ăn mấy cái bánh tẻ của người chủ quán.
Tuy mùi vị của máy cái  bánh có là lạ nhưng cơ bản là đáp ứng được những  vấn đề còn thiếu hụt và vô cùng  khẩn thiết trong cơ thể con người hắn.
 Trong đêm đen Phran xoa tựa lưng vào vách lều  miên man nghĩ ngợi trong tiếng ran của đàn muỗi . Nhưng củng chỉ được một lúc, quá mệt mỏi, hắn đã thiếp đi không còn biết mọi điều gì xung quanh nữa . . .
     Tờ mờ sáng, khi nhìn chưa rõ mọi vật, tiếng lao xao, quàng quạc của đàn cò vạc trên ngọn tre đã đánh thức Phran xoa. Thoắt một cái  hắn đã tỉnh  dậy. Cảm thấy trong người tỉnh táo và khoẻ hẳn ra, Phran xoa nhớ lại hoàn toàn sự việc và tình cảnh của hắn bây giờ, hắn càng thêm tỉnh táo. Hắn quyết định không chờ đợi gì thêm nữa, bởi vì  khi  nhiều người kéo đến biết hắn là lính Pháp  đang trốn chạy thì liệu có hay ho gì không, ở nơi  đây cũng chỉ cách nơi hắn ra đi chừng năm sáu cây số  và cũng không chờ đợi gì thêm để kiếm thêm miếng ăn nữa mà phải khẩn trương đi  ngay. Đi  ngay cho xa hơn, càng xa càng tốt cái nơi  ùng oàng, khét lẹt chết chóc  kia  . . . Hắn vụt đứng dậy,  vươn vai một cái, xoa xoa hai bàn tay vào mặt  rồi  bước nhanh ra khỏi căn lều nhỏ.
  Bước trên  con đường sỏi, ra khỏi luỹ tre làng thì trời mới chỉ rạng rạng màu đỏ ở phía đông, Phran xoa cũng nhìn được toàn cảnh khu cánh đồng mà mới chiều hôm qua hắn mới mò đến. Song Phran xoa cũng đã định hướng ra được ngay. Tiết trời sáng sớm có hơi lạnh một chút nhưng càng làm cho Phranxoa tỉnh táo hơn. Quả là có tí lương thực vào bụng, được ngủ mấy giờ đồng hồ say sưa người thấy khoẻ hẳn. Đó là điều mà Phran xoa cảm thấy trong ngày đầu tiên  khi thoát ra khỏi cơn  hoạn nạn to lớn trong cuộc đời hắn.   
  Chúa đã phù hộ ta có được điều may mắn đó chăng. Trước hết  là ta đã thoát được không phải ngã gục trước những viên đạn hung hãn của bọn Nhật. Hắn nhớ lại giây lát: Khi đó vừa mới nghe được một hai tiếng nổ và vừa mới ngửi thấy mùi thuốc đạn khét lẹt, hai người bạn đồng đội của hắn nằm bên cạnh vừa mới nhẩy ra khỏi giường nằm, đang đứng chưa kịp xỏ đôi giầy thì đã trúng đạn, chúng chỉ kịp rên ự lên một tiếng rồi cả hai gục xuống. Phran xoa khi ấy cũng chuẩn bị xỏ đôi giầy thấy vậy hoảng hồn cứ thế  xách đôi giầy chạy lao ra khỏi trại . . .
 Bây giờ hắn đã ở đây, hắn xác định lại hướng đi và lại vừa bước vừa nghĩ. Trong lòng cũng thấy đôi chút ấm cúng. Phrantxoa lại dừng lại một tý chút. Cơn gió đồng thoảng bay, mang cái hơi lạnh phả vào  làn da mặt se se của hắn. Ôi, dễ chịu làm sao, Phran xoa mở to đôi làn môi khô, dương cái miệng rộng ra, vươn đôi vai rộng, ưỡn ngực hít hít sâu mấy nhịp. Cải cảm giác khoan khoái dễ chịu làm hắn tạm quên đi mối lo âu của tình cảnh hiện tại. Hai tay hắn nhịp nhàng hạ xuống thì vừa hay bàn tay phải của hắn  chạm phải cái cục gì mềm mềm nằng nặng ở trong cái túi áo to ở vạt áo bên phải . . .
Ôi chao! Thật không tin nổi. Đó là cặp bánh tẻ! Nhớ ra rồi! Chiều hôm qua sau khi đưa cho Phran xoa  cặp bánh tẻ để hắn ăn, chị chủ quán còn dúi nốt cho hắn hai cái còn lại vào túi áo cho hắn. Phran xoa  luôn mồm nói “mec xi”, “mec xi” và chắp hai tay  ra phía trước mà không biết hắn đã học được ở đâu để  cám ơn chị chủ quán. Rồi hắn tập trung vào bữa ăn và cũng đi quên mất một cặp hai chiếc bánh còn nguyên trong túi . . . Ôi chao! Người phụ nữ ân nhân ấy ta sẽ nguyện hàm ơn suốt đời ta, con ta, cháu ta.  
  Phran xoa khoẻ hẳn lên, vui vẻ hắn lên, hăm hở vững tin bước lên phía trước.
  Ngày đầu tiên của kẻ thất trận sa cơ là như vậy . . .
  Rồi sau đó không biết bao nhiêu ngày tháng nữa, tên lính lê dương ấy đã đi  qua bao nhiêu làng mạc Việt nam? Gặp bao nhiêu người?  Được ăn bao nhiêu bữa? Vượt qua bao nỗi hiểm nguy?  
 Chỉ biết rằng cứ mỗi một ngày qua đi là Chúa lại đã trao cho anh ta một ân huệ: Được ăn uống và bình  an. Đất nước này, những người dân xứ này thực sự đã cứu sống Phrantxoa . .  .  
  Và cũng chính vì vậy mà  đến hôm nay,  nơi đây, nhà Ông Bà ngoại tôi , như trên đã nói: Hôm nay đây là ngày thứ bao nhiêu, là nơi thứ bao nhiêu Phran xoa lại đến một gia đình của người dân Việt. Như đã thông thuộc về lòng nhân ái của con người ở xứ sở này, như đã  giải thích được lòng bao dung của Chúa, Phranxoa không ngần ngại bước vào. Bề ngoài tuy vẫn tỏ ra ngần ngại, dè dặt nhưng trong lòng  anh  ta  bình thản vững tin lạ . . .                                                      
     Sau khi người lính Tây ăn xong tô cơm, uống xong cốc nước, Bác tôi lại bảo ai đó đưa cho anh ta cái  khăn mặt đã dấp nước. Bác tôi quả là một người tinh tế và đầy ắp tình nhân ái. Phranxoa  nhìn Bác tôi với vẻ mặt ngưỡng vọng của kẻ biết hàm ơn. Hắn luôn mồm nói và hai người tiếp tục nói chuyện trao đổi  với nhau hồi  lâu . . . Trao đổi xong với người lính Pháp, Bác tôi  vào nhà báo cáo lại với Ông tôi và với lòng nhân đạo, với đạo đức truyền thống của gia đình  hai người đã thống nhất ý kiến: Chỉ đường cho người lính Pháp này đi đến khu đồn điền trang trại  ở cách  đây chỉ vẻn vẹn bốn cây số. Đó là trang trại của  một  chủ  người Pháp từ đã lâu đời. Cái đồn điền ấy đã có cái tên đã được người dân quen gọi là đồn Mi-so, tên của chủ người Pháp hoặc được gọi theo địa danh là đồn Đồng tôm . . .
  Phrantxoa thật may mắn, anh ta đã tạt vào một gia đình như gia đình Ông Bà ngoại tôi để tiếp tục làm cái việc cầu xin thường lệ trong suốt cuộc hành trình của mình. May mắn bởi được gặp ngững người chủ  đầy lòng nhân ái, đối xử đầy ắp tình người,  may mắn bởi gặp được một người  trí thức cách mạng  thông thạo tiếng Pháp.  
Mà do đó những thông tin cần nhận biết để đi đến bước giải quyết cuối cùng quan trọng có tính chất sống  còn của cuộc đời người lính lê dương là: Đưa Phran xoa về được với đồng bào của mình nhanh nhất đã  được thực hiện . . .
  Sau này Bác tôi kể lại: Trong khi nói chuyện, có những lúc Phran xoa cúi xuống như đang bò hoặc đưa hai tay xoa lên mặt là miêu tả lại những lúc hắn đang đi trên đường phải tránh bọn Nhật có lúc cũng phải xuống ruộng lúa cùng cúi xuống với người dân đang làm cỏ. Có lúc đi trên chỗ đông người thì phải bôi  bùn lên mặt để  không ai nhận ra. . . Về đến đây thì không phải  như thế nữa, anh ta  đội ơn người dân  nước này nhiều lắm . . .  
  Càng về sau, lịch sử càng có nhiều sự kiện  to lớn hơn về số phận tất yếu của những kẻ đi xâm lược. Nhưng con đường đào tẩu để thoát khỏi địa ngục của chúng sẽ không ngắn hơn, không thuận buồm hơn  tên lính lê dương kia . . .
      Thằng Tây được ăn uống no, được tắm rửa, được cho một cái mũ lá, một cái chăn chiên và được chỉ đường nơi đến với đồng bào của hắn trên một tờ giấy .
Với những điều đã được trải  nghiệm những ngày qua, Phantxoa có thêm nghị lực mới. Được ăn uống, được nghỉ ngơi chăm chút, được chỉ đường và biết được điểm đến sắp tới có thể gặp đồng bào của mình sẽ không còn xa, trong lòng phấn chấn vô cùng, sải những bước dài, Phrantxoa  khoẻ khoắn bước đi . . .
Chắc chắn, cùng lắm là non hai tiếng đồng hồ nữa là hắn sẽ đến đồn điền Mi Sô. Sau khi hất cẳng quân Pháp, đúng như mọi người dự đoán, bọn Nhật ngay sau đó  kéo về đầy quê hương nơi đây. Khắp nơi  trên cả nước chúng đã thực hiện một ách thống trị khắc nghiệt, tàn ác để phục vụ bộ máy  chiến tranh của chúng.  Chúng đã bắt dân nhổ  bỏ  lúa để  trồng đay và nạn đói to lớn đau thương  của đất nước ta đã xảy ra. Cũng sau sự kiện lịch sử này tất cả những người dân Việt nam đều nghe rõ những lời  hiệu  triệu sáng suốt: Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Trước mắt là công việc  cứu đói.  Nhân dân dưới sự dẫn dắt của những người Cách mạng đã tập hợp nhau lại làm những việc to lớn động  trời: Phá các kho  lương thực của bọn Nhật cai trị cứu đói cho đồng loại. Khắp nơi làng trên xóm dưới hò nhau đi phá các đồn  điền, trang trại của bọn chủ  Nhật Pháp và đồn điền Mi-sô, nơi  mà Phrantxoa được chỉ đẫn đi đến  để tá túc, trú ngụ khi lâm nạn là một trong những địa điểm đã bị tấn công và đã bị phá vỡ tan tành trong năm đó.
  Không ai biết được rằng Phran xoa, người lính lê dương ấy thêm một lần nữa có bị làm sao trong cơn  biến loạn đó không?
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 1 trang (5 bài viết)
[1]