Trang trong tổng số 4 trang (35 bài viết)
[1] [2] [3] [4] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Đỗ Xuân Thu

.


NGỌN NẾN ĐÊM NOEL

http://xuanthu.vnweblogs.com/gallery/2268/previews-med/16739-DSC03853.jpg



Nhà thờ Vân Cương nằm trên đỉnh một quả đồi bên bờ Sông Lô. Từ đây người ta có thể bao quát được bốn phía. Trước mặt là dòng Sông Lô trong xanh hiền hoà như dải lụa. Sau lưng bên trái, bên phải đều là núi. Những ngọn núi xanh thẫm giữa trời chiều in bóng xuống dòng sông. Dân làng nơi đây một trăm phần trăm đều theo đạo. Hàng năm, ngày noel đến, quả đồi có ngạn nhà thờ này đông nghịt những người là người. Dân xứ đạ khắp nơi trong vùng hành hương về thụ lễ. Khu vực hành lễ, suốt từ cổng đến vào sân, trong và ngoài nhà thờ được trang hoàng, kết đèn hoa lộng lẫy. Một chiếc đèn ông sao to tướng đặt phía trên chính giữa trước cổng chào. hàng chục dây hoa giấy đều được chăng khắp sân, nối với một chiếc đèn lòng treo lơ lửng lưng trời chính giữa sân. Đèn điện đủ các màu thi nhau nhấp nháy. Tiếng nhạc, lới hát của những bài thánh ca được cất lên từ những chiếc loa công suất lớn nghe dìu dặt, du dương. Sân khấu, nơi linh mục sẽ làm lễ được dải chiếu hoa, đặt thêm cùng với mấy cây cảnh cùng với bục. Loa thùng, đèn hắt lủng cà lủng cung. Phía sau là tấm phông nhung cỡ lớn có hàng chữ kính chúa yêu nuớc tạo cho khung trời nơi đây vừa gần gũi lài vừa uy nghiêm. Ban hành giáo đang đốc thúc đội ca đoàn kiểm duyệt chương trình lần cuối, nhắc nhở cánh phục vụ chuẩn bị bàn ghế, nước nôi đón khách. Mấy cái quán bán hàng ngoài cổng khách ra vào nườm nượp. Đông người như vậy nhưng không lộn xộn, không tranh bán, tranh mua, không mồi chài lèo lái như mọi khi. Những cái ban bia cũng được chủ của nó dẹp sang một bên, thay vào đó là bộ bàn ghế ấm chén phục vụ khách. Mọi người đến đây mọi bực dọc, toan tính đều được rũ bỏ trên đường.

         Hoà trong dòng người đi lễ đó có lão Thue không phải là dân xứ đạo, không phải là người làng này. Nhưng không noel nào là lão Thư không có mặt. Hơn 70 tuổi, đầu tóc bạc phơ, da nhăn nheo, lão đi không vữngnữa. dắt theo chiếc xe đạp cà thàng thay cho cây gậy lão thập thững bám theo chiếc xe mà đi. Người ta bảo chiếc xe ấy là kỷ vật trong thời công tác của lão. cấp trên phân phói cho lão từ ngày lão còn làm chủ nhiệm HTX mua bán. Người ta thay bao đời xe, đến cả xe máy ô tô rồi nhưng lão vẫn cọc cạch cái xe cà khổ ấy. Giống ngựa sắt này thế mà thuỷ chung. Nó chẳng hiểu trong ngực của chủ nó con tim thương rộn lên mỗi khi ngày noel đến. Chân lão hình như vội hơn, bước những bứoc dài hơn làm cho 2 chiếc báng xe cùng như quay nhanh hơn. Phía ấy, tiếng chuông nhà thờ đang dóng dả gọi lão. Lão đến nhà thờ không phải đi lễ, cũng không phải là lão đi xem lễ. Lão đến đó để tìm lại kỷ niệm xưa với Hoài.

         Lần nào cũng thế trước khi vào khu vực nhà thờ, lão thường đến quán bà Phương nghr chân uống nước. Chủ, khách vồn vã hỏi thăm nhau sức khoẻ, cuộc sống trong một năm qua. Bà Phương hơn 50 tuổi, chỉ bằng tuổi con lão nhưng bà khá ràng rẽ chuyện tình của lão với cụ Hoài. Cho nên, tuy lão chưa hỏi han gì tình hình của cụ Hoài nhưng bà Phương đã loe xoe kể ra hết. Nào là cụ Hoài độ này khoẻ, tối nào cũng chống gậy đến nhà thờ cầu kinh. Nào là cụ Hoài có mái tóc bạc phơ như  thế mà đôi mắt tinh nhanh đáo để... Lão Thư vừa nhấp nháy chén trà nóng vừa trâm tư lắng nghe không bỏ sót một lời nào. Gió rét căm căm, có năm mưa phùn tê tái mà nghe chuyện về cụ Hoài, lòng lão như ấm lại. sau đó, lão gửi xe đạp bà Phương lọ mọ đi lên khu nhà thờ, vừa đi, lão vừa ngó trước ngoảnh sau mông tìm gặp một dáng người.

         - Thư à? ông đến lâu chưa?

         Cái tiếng nó ấy như khẽ cất lên. Đằng đẵng một năm lão mới được nghe.Âm thanh ấy giờ không còn trong trẻo như ngày xưa nữa nhưng Lão vẫn thấy trong lòng minh một cảm giác ấm áp và êm ái lạ lùng. Con tim lão rộn lên, lão quay đầu lại nở một nụ cuời như thời trai trẻ.

         - Hoài à! Anh cũng vừa mới đến! Hoài có khoẻ không?

         - Khoẻ! Còn ông

         - Em  nhìn thì biết.

         Họ nhẹ nhàng chậm chạp tách đám đông đứng ở góc sân.

         - Thư ơi! bây giờ có ai nghe thấy  chúng mình " anh em" với nhau thế này chắc buồn cười lắm Thư nhỉ.

         Thì đã bao giời anh nghĩ chúng mình già đâu. Vẫn như ngày xưa thôi.

         - Thế cũng được nhưng phiải nói khẽ thôi đấy nhé.

         Cụ Hoài móm mém đưa ánh mắt trìu mên đưa mắt lên nhìn Lão Thư. Họ chỉ kịp trao đổi với nhau ngắn gọn đôi câu như thế  rồi lai ai về phận ấy . Phía xa kia, đôi mắt của cụ Sơn, chồng Hoài đang theo dõi họ. Cụ Hoài bịn rịn chia tay lão Thư hoà vào đám các cụ bà đang chuẩn bị cho giời làm lễ. Lão bước những bước khó nhọc về phía chân đồi tới gốc cây thông già, lão cởi cái túi vải deo ra khỏi người. Không ai biết lão đi đâu. làm gì kể cả cụ Hoài lão lôi một tờ báo tron túi ra, rải xuống đất làm chỗ ngồi. Sau đó, lão lạng lẽ ngồi như hoá đá thả tầm mắt về phía bờ sông đang chiều heo hút gió. Những cơn gió mùa đông thổi tung mái tóc bạc phơ của lão như ngàn mũi kim đâm vào da thịt lão, rét tê tái. lão như không biết gì. Tay lão run thò vào trong túi lấy ra một quyển sổ tay bìa cứng màu nâu xám. Lão bần thần giửo trang đầu tiên, hai tay lão lóng ngóng. Đôi mắt lão trân trân nhìn vào quyển sổ. Hình như lão khóc. Một tấm ảnh rơi ra, không không phải là một tấm ảnh hoàn chỉnh. Đúng ra chỉ là một hình người được cắt theo đường nét của người đó từ một tấm ảnh ngày xưa. Hoài ! người đó là Hoài! Hoài của 50 năm về trước. Lão Thư buông vội quyển sổ, hai tay như vồ lấy tấm hình. Lão ấp nó vào ngực thì thầm Hoài, Hoài ơi! Ngày ấy... Hoài ơi! Tiếng chuông nhà thờ bất chợt ngẩn ra báo hiệu giờ làm lễ bắt đầu. Lão ngồi như hoá đá. Kỷ niệm về Hoài ào ạt hiện về mặc cho màn đêm buông xuống tự lúc nào cũng không biết nữa.

         Ngày ấy, Hoài là một cô gái đẹp nhất xứ Đạo Vân Cương này. nàng có đôi mắt bồ câu long lanh, lúc nào cũng ươn ướt buồn một cách kiêu sa như Đức mẹ, mái tóc đen óng ả buông bồng bềnh xoã xuống 2 bờ vai thôn thả. Khuôn mặt trái xoan với 2 lúm đồng tiền đôi má cùng với cái miệng xinh xinh lúc nào cũng như cười càng làm cho Hoài thêm hấp dẫn lạ kỳ. Những lúc ai hỏi điều gì Hoài khẽ "hứ" lên một tiếng rồi ngước mắt nhìn người nói chuyện khiến khối kẻ phải xao lòng. Vừa hiền ngoan, nhõng nhẹo lại vừa kiêu sa đến thế. Hoài nổi bật giữa đám thiếu nữ xứ đạo nhờ tham gia trong đôi ca đoàn của nhà thờ mà Hoài càng có điều kiện bộc lộ năng khiếu ca hát của mình. đám trai làng chết mê, chết mẩn vì Hoài. Thế mà Hoài nào có để ý đến ai chỉ có Thư , người bí thư xã đoàn năng nổ của xã bên cạnh, nhờ những buổi giao lưu văn nghệ mà lọt vào đôi mắt xanh của nàng phải nói rằng họ rất xứng đôi vừa lứa. Trai taì gái sắc gặp nhau như đôi chim loan phượng. Những đêm giao lưu văn nghệ cụm xã, rồi những mùa hội diễn ở huyện, Hoài, Thư quấn quýt bên nhau. Có tiết mục Hoài hátm Thư đệm đàn nghiêng ngả cả đêm diễn. Lũ trai làng xứ đạo thấy thế bực lắm, bọn chúng đã liên kết với nhau cấm vận trai làng khác đến tán tỉnh, cưa cẩm gái xứ đạo. Nhiều vụ ẩu đả xảy ra. Thư mấy lần bị bọn chúng vây đánh.

         Năm ấy, vào trước lễ giáng sinh một tuần đúng đêm 17 tháng 12 , Hoài, Thư hẹn hò nhau tâm sự. Gốc thông cạnh nhà thờ là điểm hẹn của hai người. Đêm ấy, trời mưa rét như cắt da, cắt thịt. Đường làng không một bóng người. Mưa rét thế ai còn ra đường làm gì. ấy vậy mà laị mang cho Thư. Thư đàng hoàng phóng xe đến điểm hẹn. Hoài đợi Thư cũng được một lúc hai người ôm chặt lấy nhau trao cho nhau những nụ hôn tràn trề hạnh phúc. Họ tâm sự với nhau khá nhiều chuyện những lời thề thốt yêu thương như có cánh. Mấy hôm sau, trưứoc noel một đêm, nhân buổi giao lưu văn nghệ với quân đội Hoài đã tặng Thư quà giáng sinh bằng một quyển sổ và một cái kẹp ca vát. Hai thứ đó, đến bây giờ Thư vẫn trân trọng nâng niu cất giữ. Đó chính là quyển sổ mà lão Thư mà giáng sinh nào cũng giơ ra đọc. Trong đó toàn những bài thơ viết về Hoài do Thư sáng tác.

         Ngỡ cứ tưởng họ cứ thế nên vợ thành chồng, nào ngờ... Lũ trai làng xứ đạo, trong đó có Sơn không chinh phục được Hoài kể cả sách ẩu đả, chúng bèn ton hót với bố mẹ Hoài. Do ngày đó tệ phân biệt đạo đời quá sâu sắc, cấm trai gái bên lương bên đạo được lấy nhau. nên bố mẹ Hoài ra sức cấm đoán. Các cụ sợ bị rút phép không công Hoài không được ra khỏi nhà nếu chưa được bốmẹ đồng ý. Họ còn bắn tin sang nhà Thư rằng không bao giờ gả con gái ra ngoài xứ đạo. Bố mẹ Thư cũng kiên quyết phản đối nhân dịp đó Sơn chủ động tấn công, cả họ hàng bên Sơn vào cuộc cuối cùng Hoài đành nhắm mắt đưa chân mặc cho số phận đưa đẩy, chán đời, nhân có đợt xuất khẩu đi ma lay si a, Thư làm đơn biệt xứ. Anh không dám nhìn cảnh người yêu đi với người khác. Anh muốn bình yên cho Hoài. Và anh đã chạy trốn.

Những tưởng là nơi đất khách quê người Thư sẽ quên dần Hoài đâu ngờ những buổi chiều xứ lạ khi tiếng chuông nhà thờ gióng lên là Thư lại quay cuồng trong nỗi nhớ. Không người thân thích, không anh em họ hàng một mình Thư một bóng vò võ trong đêm. Đôi mắt Thư đầm đìa nước mắt. thư lao vào viết để vợi đi phần nào nỗi nhớ và viết để nhớ Hoài hơn những bài thơ không tứ, không vần ngổn ngang chữ nghĩa trên trang sổ mà Hoài tặng. Không chiều nào là Thư không giở tấm hình của Hoài ra ngắm nghía. Trước ngày biệt xứ Thư lấy tấm hình chụp hôm hội nghị liên tịch giữa đôi ca đoàn của Hoài mà đoàn xã của Thư , may quá hình ảnh của hai đứa nổi khá rõ giữa bao người nọ , Thư cắt riêng khuôn hình hai đứa ép vào cuốn sổ mang để. Hoài ơi ! Thư đây! đất khách quê người anh luôn nhớ về em đây. Anh cầu chúc em hạnh phúc. Và cứ thế Thư âm thầm khóc một mình, khóc cho số phận bẽ bàng. Khóc cho tình duyên lỡ dở bao đêm bên xứ người là mấy đêm Thư thức trắng. Chạy trốn một tình yêu mà nào có trốn được. Tiếng chuống nhà thờ nhất là mùa giáng sinh cứ thánh thót gõ vào tim óc Thư lôi Thư vào về với dòng Lô về với Hoài. Ba năm sau hết hạn, Thư lại về quê cũ sống cạnh xã Hoài. Hình ảnh của Hoài choáng hết cả đời Thư. Không một đêm noel nào là Thư không đến nhà thờ Vân Cương. Anh đến cốt  chỉ được nhìn thấy Hoài, bà chúa tình yêu của đời anh.Thấm thoát mà đã mấy chục năm đằng đẵng. Cây thông ngày ấy giờ đã thành cổ thụ. Vỏ nó mốc meo, sần sùi dấu vết của thời gian.

NOEl năm nay đông hơn mọi năm, đường làng xứ đạo đã được bê tông hoá, điện đã về làng làm cho không khí ngày giáng sinh thêm tưng bừng náo nhiệt. Lão Thư lại đeo cái túi vải, dắt xe cà tàng đến xứ đạo.

- Vào nghỉ chân uống nước đã cụ Thư ơi !

Lão giật mình nhận ra tiếng bà Phương mải nghĩ suýt nữa thì dắt xe đi qua quán của bà ấy. Lão lọ mọ dựng xe. Bà PHương đon đả.

- Năm nay, cụ đi lễ sớm nhỉ?

- Rét thế mà cụ cũng đi à?

- Đi chứ bà? Còn được mấy năm nữa đâu chứ cụ Hoài thế nào hả bà?

- Lâu lắm rồi con không gặp cụ ấy. Chẳng biết tin tức gì cả cụ ạ!

- Thế hả? Không rõ NOEL này bà có đi không.

         Lão sốt sắng hỏi thẳng cái đêm lão hằng mong nhớ mà năm nay sao nó lại rét thế cơ chứ. Hay là cái tuổi của lão nó thế.Đã  mấy lần lão định đến thẳng nhà cụi Hoài để thăm cụ ấy. Nhưng suy đi tính lại, lão lại thôi, thôi đừng khuấy lên một điều gì nữa. Hãy để cho Hoài và gia đình bình yên. Mỗi năm cứ đến ngày NOEL gặp nhau ít phút trước sân của chúa là được rồi. Và lão ước giá ở nơi này có chợ tình như ở Sa Pa thì hay biết mấy. Chẳng còn ràng buộc gì nữa, mỗi năm một phiên chợ tình tha hồ cho đôi lứa yêu nhau lỡ dở gặp nhau. Lúc ấy, dưới gốc thông già kia, chỗ của lão và Hoài, tha hồ cho lão và Hoài yêu nhau.

         Năm nay, sương muối nhiều, nắng hanh lắm nên về đêm càng giá buốt. Mới 4, 5 giờ chiều mà sương đã giăng khắp xóm. Không có gió mà chân tay cứ buốt thon thót. Lão nhìn cây thông già trầm mặc trong sương. Giá như mọi năm, lão gửi xe đạp rồi lóc cóc lên nhà thờ ngay. Nhưng năm nay, lão cảm thấy mệt mỏi quá. Lão vừa ngồi thở, vừa chăm chú nhìn những gương mặt đi qua không thấy Hoài đâu?

         - Có lẽ năm nay cụ Hoài lại không đi lễ đâu cụ ạ!Thôi, cụ uống chén trà nóng này rồi về kẻo rét thì khổ>

         Bà Phương như đọc được được ý nghĩa của lão. lão đón chén trà xuýt xoa uống. Đoan, lão đứng dậy:

         - Bà cho tôi gửi cái xe đạp tôi phải lên nhà thờ một lát đã.

         Lão lọ mọ, bước thấp, bước cao hoà vào dòng người lên nhà thờ, lòng dạ lão bồn chồn. Được một lúc lâu sau, lão khó nhọc quan về quán bà Phương.

         - Có gặp cụ ấy không- hả cụ?

         - Không bà ạ! Cho tôi xin cái xe, tôi về bà nhá.

         Lão thẫn thờ bám theo chiếc xe đạp bước đi. Thế là thêm một năm nữa Hoài không đi lễ NOEL. Lão thấy trong lòng tái tê vì cơn gió mùa đông bắc chợt đến. Trong ráng chiều chạng vạng. Hoài ở nơi nào, Hoài ơi!

(còn nữa)
Giữa dòng đời tôi nhặt được tứ thơ
Không viết được để hồn lang thang mãi
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đỗ Xuân Thu

.Tiếp theo ''Ngọn nến đêm noel"


Mùa giáng sinh nữa lại đến. Năm nay. Lão Thư ăn mặc khá tươm tất có thể nói rằng là diện nhất trong tấ cả những ngày NOEL từ trước đến nay. Bộ quần áo com lê màu trắng, vật kỷ niệm mà Hoài mua cho Thư trước ngày biệt xứ . Nó rộng thùng thình ôm lấy tấm thân già còm nhom của lão. Lão THư định cởi ra mấy lần song lại thôi. Không, mình phải mặc nó lần này nữa. Và thế là lão độn cả mấy áo len, áo cánh vào trong, thắt cavát đường hoàng. Lão hồi hộp lấy cái kẹp ca vát cùng với cây bút mà Hoài tặng cài cẩn thận. Đã lâu lắm rồi, dễ chừng có đến 5 năm nay, giờ lão mới đóng bộ như thế chỉnh tề đâu đấy, lão cảm thấy ấm áp và khoẻ khoắn lạ lùng. Dắt chiếc xe đạp cà khổ đeo cái túi vải sau lưng. Lão lọ mọ thoe tiếng chông nhà thờ, thập thững bước đi.

         Bầu trời chiều cuối năm dường như trong xanh và cao hơn. Hôm nay lại đúng ngày rằm tháng1 dân bên đạo kéo đến nhà thờ đông nghìn nghịt. Dan bên lương cũng sắm sửa cúng rằm, đường làng nhộn nhịp hẳn lên. lão Thư cảm thấy trong người phấn trấn lạ.

         Qua hàng bà Phương như một phản xạ., lão dừng xe lại. Ngơ ngác nhìn dòng người rồi lại nhìn cây thông già đang vi vút phía đằng xa. Bà Phương cũng đã nhận ra lão:

         - Cụ Thư năm nay diện quả nhỉ? Nghỉ chân vào quán con uống nước đã cụ.

         - Cảm ơn bà cho tôi gửi bà cái xe để lên nhà thờ cho sớm.

         - Vội thế cơ à cụ : Vâng. Cụ cứ dựng nó vào kia, con sẽ trông cho. Lão Thư dựng cái xe đạp vào góc quán rối hấp hởi đi luôn. Dáng lão liên xiên bước. Mặc dù lão cố ra vẻ khoẻ khoắc như năm ngoái. Bà Phương nhìn theo lão, ái ngại. bà gọi Trà Mi con gái út:

         - Con bám theo cụ Thư kia nhé. Có gì đỡ đần cụ kẻo cụ ngã thì khổ.

         Vốn tính tò mò, ưa tiừm hiểu thích văn chương cô bé 18 tuổi nghe lời mẹ liền bám sát theo lão Thư. Trà MI giữ một khoảng cách vừa đủ để tôn trọng sự tự do của lão, vừa để xư lý tình huống kịp thời nếu lão có mệnh hệ gì. Lão Thư không hay biết là có người đang theo dõi mình liền đến sân nhà thờ, lão đứng lại thở một lúc rồi ngơ ngác nhìn mọi người, Đôi mắt lão lờ đờ mỏi mệt cả cái nhìn cũng không nghe lời con tim của lão nữa rồi. Len lỏi, loanh quanh một lúc không thấy người cần gặp , lão còn lách khỏi đám đông đi về phía cây thông già năm trước. TRà Mi bí mật bám theo. Cô chọn cây ngâu thông cách gốc thông chừng gần 5 m để ẩn mình quan sát

         Đến bên gốc thông lão Thư cẩn thận lau mặt, phẩy bụi áo quần rồi lựa chỗ trải tấm ni lông nhỏ làm chỗ ngồi. Chưa bao giờ lão trịnh trọng như thế. Lão lại thò tay vào cái túi vải lấy ra các thứ mang theo. Quyển sổ tay bìa cứng màu nâu, cái hộp đựng kẹp ca vát, một cây nến, hai cái chén con, một chai rượu bé xíu và một gói báng nữa thì phải. Trà Mi hồi hộp, tò mò. Cô dứng hẳn người lên nhòm lão qua khe lá.

         Lão cẩn thận mở gói bánh kẹo, trong đó có một miếng bành ga tô. Chắt rượu ra hai cái chén xong, lão bật lữa châm nến. Trời nhá nhem tối, trên khu nhà thờ điện sáng chưng, còn ở nơi này ánh nến lẻ loi, leo nét càng tạo nên sự huyền ảo kích thích tính tò mò của My. Đoạn lão cầm quyển sổ mở ra tìm tấm ảnh. Tay lão run run giơ tấm ảnh ra sát ngọn nến.Hoài! Hoài ơi! lão khẽ gọi rồi đưa tấm ảnh áp vào ngực, ấp vào môi mấy lần. Tay lão lần theo đường nét tấm ảnh, mơ màng nhớ về Hoài. Lão có cảm giác như ngửi thấy hơi thở thơm tho thịt d Hoài. ánh mắt ấy, khuôn mặt ấy, nụ cười ấy... Thế mà đã 55 năm ! Trời ơi! ngày ấy tóc nàg thơm lắm tiếng cưới của năng trong trẻo lắm. Những đêm bên nhau sao mà thiêng liêng thế Hoài ơi! .

         Lão lẫy dao cắt đôi miếng bánh sinh nhật rồi cắm hai chiếc rĩa vào hai miếng bánh đó. Giọng lão ngàn ngạt như có nước mắt:

         - Hoài ơi! 55 năm rồi, kể từ đêm ấy chúng mình xa nhau. Anh biết em bỏ anh anh đâu dám trách. Ba mùa giáng sinh anh lặn lội tìm em mà không được gặp em nữa. NOEL này anh đến biết đâu là NOEL cuối cùng? Anh mua bánh kẹo, cả bánh sinh nhật cho em đây. Anh biết em không thích của ngọt nhưng mà HOài Ơi! có ai làm bánh sinh nhật mặn hoặc chua bào giưò đâu. Trước đêm giáng sinh hai ngày là ngày sinh nhật của em mà cũng không phải em sinh vào tháng 2 giữa mùa xuân cơ nhưng bố mẹ cho em đi học sớm nên đổi lại ngày sinh trên giấy như thế thì chúng mình cứ lấy ngày đo smà tổ chức sinh nhật có sao đâu. Nào em, ăn với anh miếng bánh ga tô này để chúc mừng sinh nhật em yêu lần nữ. Em còn sống hay đã về với nước chúa ? thì mình cứ mừng cho nhau có sao phải không em? Ăn đi em, một miếng thôi để anh mừng. Tặng em mười bông hoa hồng, triệu bông hồng dành riêng cho em nhé. Hoài ơi !.

         Lão Thư lẩm nhẩm nói một mình. Đoạn lão cầm cái rĩa đưa lên miệng ăn ngon lành. Sau đó mỗi tay một chén rượu lão đưa lên ngang mặt rồi tự cụng vào nhau.

         - Mình uống rượu nghe Hoài! chén rượu thề đêm ấy anh vẫn còn giữ đây. Uống đi em, uống cho say trọng một kiếp người vì nhau em nhé. Bây giờ thế này thôi NOEL tư fnay không có chúng mình nữa. Không có em, không còn mùa giáng sinh nào hết Hoài ơi! Không ngờ cái đêm chúngmình nằm bên nhau lặng yên rồi đi, say đắm lắm không một lời từ biệt của năm ấy đã trở thành cái đêm định mệnh của tình duyên đôi ta. Suốt đờ anh âm thầm theo em như một cái bóng. Thế mà Hoài ơi! trọn kiếp người anh cũng chỉ là người hát rong khốn khổ. Em biết anh quý nhất thứ gì không, tấm hình của em, quyển sổ, cây bút và cả cái kép cà vạt này nữa anh đã đem theo bên minh suốt 55 năm trời đăng đẵng. Bay giờ không có em anh mang nó cho ai ngắm nữa, anh xin gửi nó theo em, nó mang theo cả hồn vía của Thư này về cúngcát bụi. Hoài ơi, em ở phương nào hãy chờ anh với" Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi" Hoài ơi ...

         lão khóc rưng rức nức nở như đứa trẻ, ngọn nến cháy đã gần hết. Hai tay lão run run nâng tấm ảnh của Hoài dưa ra ngọn nến lần cuối. Đôi mắt lão vô hồn. Đoàn lão lại áp tấm ảnh lên ngực lên môi mấy lần. Cuối cùg lão kiên quết đưa tấm ảnh đó và quyển sổ cùng cây bút lên ngọn lửa của ngọn nến sắp tắt. Lửa bùng lên soi rõ hình lão trơ trơ như pho tượng. Trà My hoảng hộ đứng thẳng dậy nhìn chằm chằm vào lão Thư. Lão luống cuống dùng dao đào một cái hố nhỏ ngay cạnh đống lửa. Dưới ánh sáng màu vàng như những vũ công cong mình nhảy nhót trên tay lão.Dưới gốc cây thông lửa cháy bập bùng huyền ảo,. Lão tháo chiếc kẹp cà vạt cho vào cái hộp rồi chôn cả cái hộp xuống cái hố vừa đào. Lấp đát xong lão đặt 10 bông hồng xung quanh bụi đất đó. ánh lửa yếu dần nhường chỗ cho ánh trăng mùa đông vằng vặc xuống. Hình như chưa đêm nào trăng sáng ngư thế bóng cây thập ác và cái tháp nhà thờ in sừng sững giữa trời đêm. Tiếng nguyện cầu của những con chiên vọng xuống bông f bềnh: Xin chúa thương xót cho chúng con...! đã sắp đến giờ chúa giáng sinh rồi. Ngọn lửa leo lét rối tắt hẳn dưới ánh trăng. Lão Thư vun đống tro tàn xung quanh những bông hồng của nâsm đật nọ. Lão khó nhọc đững dậy lê bước về phía nhà thờ. Trà Mi ngơ ngác một lúc rồi cô cũng rón rén bước theo lão.Phía sau, nơi gốc thông lão vừa ngồi lại bùng lên ánh lửa. Từ đống tro tàn do những cơn gió về khuya bất chợt thổi đến.

         Từ NOEL năm sau bà Phương cùng con gái là Trà Mi và mọi người xứ đạo Vân Cương không còn thấy lão Thư nữa, không hiểu lão đi đâu? Dân bên đạo nói lão Thư đã lên thiên đàng về với nước chúa. Dân bên lương lại kháo nhai lão Thư đã xuống suối vàng với cõi phật thiên thu. Chỉ có bà Phương, nhất là cô gái Trà Mi là biết khá chính xác về lão. lão đã đến vương quốc của tình yêu, gặp lại Mộng Hoài ở bên kia thế giới. Ngọn nến đêm NOEL bừng sáng trong trái tim ừng rực yêu thương của Tra Mi và cây thông già cạnh nhà thờ kia vẫn ngàn năm nghi ngút gió.

        
Giữa dòng đời tôi nhặt được tứ thơ
Không viết được để hồn lang thang mãi
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đỗ Xuân Thu

.

CHÔNG CHÊNH


http://xuanthu.vnweblogs.com/gallery/2268/SoiTinh.jpg




Cuộc tranh luận giữa chị và mẹ chồng lên đến đỉnh điểm khi mẹ chồng chị bắt đầu kể công đối với chị. Nào là lo xin việc, lo chuyển công tác cho chị từ vùng núi về thành phố, nào là chuyện bà làm ô-sin vất vả như thế nào sau khi chị sinh cháu thứ hai. Rồi thì vì chị mà bà phải bỏ quê hương chòm xóm lên đây để suốt ngày ru rú quanh bốn bức tường hầu hạ mẹ con chị. Lại còn rên rỉ ca cẩm rằng con trai bà ngu nên mới thế. Giọng bà đay nghiến, chì chiết. Mấy chiều nay, chiều nào cũng vậy, cứ thấy bóng chị về là bà lại lặp đi lặp lại cái điệp khúc ấy. Phải chăng, chị sinh lần này không được như ý bà. "Lại con gái!", hôm chị sinh đứa thứ hai mẹ chồng chị chẳng đã buột mồm ca cẩm vậy còn gì?
Chị đã cố nín lặng, nhẫn nhịn. Nhưng mẹ chồng chị mỗi lúc một ra rả hơn. Không thể chịu đựng thêm được nữa chị đã hét lên. Ngay sau lúc hét chị không còn nhớ là mình vừa nói gì. Tiếng hét ấy như một sự giải tỏa những ấm ức dồn nén, tích tụ trong chị bấy lâu nay. Mẹ chị cũng bật im lặng, há hốc mồm, tròn xoe mắt ngạc nhiên nhìn chị. Bà không ngờ hôm nay chị lại phản ứng như vậy. Với bà, tiếng hét ấy là sự hỗn hào, là sự xúc phạm to lớn. Sau tiếng hét ấy, không khí căng thẳng giữa mẹ chồng và nàng dâu chính thức bắt đầu. Khoảng cách giữa mẹ chồng, nàng dâu nay đã có thêm một bức tường vô hình dựng lên, đẩy chị và mẹ chồng về  hai phía đối nghịch.

Hai mươi ba tuổi, vừa tốt nghiệp đại học, chị về làm dâu nhà người. Ai cũng bảo chị sướng vì nhà chồng ở phố, lại nhà cao cửa rộng, chồng có công việc ổn định. Cán bộ nghiên cứu khoa học, làm ở Sở Khoa học công nghệ cơ mà. Ban đầu, chị cũng tưởng thế nhưng cuộc sống không đơn giản như chị nghĩ. Chị cảm thấy cô độc ngay trong chính ngôi nhà của mình. Về nhà chồng rồi chị mới biết chồng chị chỉ được cái mẽ bề ngoài, suốt ngày cắm cúi vào chương trình nọ, dự án kia, chưa bao giờ là chỗ dựa cho chị cả về vật chất và tinh thần. Anh nhu nhược, bảo thủ, thậm chí còn cố chấp, ích kỷ. Hơn thế, anh luôn coi mọi thứ thuộc về gia đình mình là chuẩn mực mà chị nhất mực phải tuân theo. Sự lãng mạn của những ngày yêu nhau bỗng dưng biến mất. Chị biết mình nên cố hoà nhập và càng không có ý định cải cách. Nhiều khi, chị chỉ muốn thêm một tiếng nói nhưng đã bị cô lập.

Mặt chị đỏ bừng, miệng chị méo xệch vì nỗi oan ức. Chị nhìn sang anh cầu cứu. Chẳng những không góp một lời cho không khí bớt căng thẳng thì chớ, đằng này anh lại còn thủng thẳng vừa nói vừa tỉnh bơ nhìn ra phía cửa: "Đã từ lâu tôi duy trì cái gia đình này là vì con cái, còn với cô thì...". "Thì là gì?". Chị không kiềm chế nổi mình tiếp tục gào lên khi anh bỏ lửng câu nói ở đó. Anh hạ nhục chị, coi chị như không tồn tại. Chị chỉ là một con thú bị thương anh không thèm để ý đến? Chị chết lặng trước mặt mẹ chồng. Chị không ngờ người chị vẫn gọi là chồng, lấy làm chồng không xuất phát từ tình yêu mà từ sự kính trọng ấy lại nói lên những điều như thế. Mỗi lời nói của anh như những nhát dao đâm vào tim chị. Chị không thể tin được những lời đó lại được chính chồng chị nói ra. Chị không hiểu nỗi đau của người đàn bà bị chồng bạo dâm như thế nào, nhưng chị cảm nhận trong nỗi đau thể xác đó vẫn còn có một chút gọi là tình yêu. Còn chị, nỗi đau mà anh vừa gây ra cho chị tuy không đau về thể xác nhưng khiến chị vật vã về tinh thần. Mắt mờ nước, tai chị ù đi.

Ngay lúc đó và cả sau này khi ngồi nghĩ lại, chị vẫn không hiểu tại sao? Là người học văn, vẫn tự cho mình là người nhạy cảm, mà sao suốt bao lâu nay chị không nhận ra điều đó. Quả thực, chị cũng đã mơ hồ nhận thấy một khoảng cách giữa chị và chồng chị nhưng chị không thể nghĩ khoảng cách đó lại lớn đến như vậy. Nó đã trở thành hố sâu ngăn cách giữa hai người. Anh che đậy quá khéo hay chị ngu ngơ? Chị khóc, rồi cười. Không phải sự khóc cười của kẻ điên mà là sự khóc cười của người bị đánh đau, nỗi đau của con tim cô độc. Chị khóc, cười cho gần mười năm đi làm dâu, một mình lo toan nuôi hai mặt con để anh yên tâm học hành để đến giờ được đền đáp như thế. Chị cười vì ai đó đã bảo "nhân nào quả đấy".

Sống trong nhà chồng, giống như nhiều phụ nữ khác, chị bị đẩy về một phía xa với mẹ chồng. Nhưng khác với nhiều phụ nữ, đến hôm nay chị mới biết rõ, phía chị không có chồng. Dù chỉ một lần thôi, chị cầu mong anh công bằng hơn với chị. Chị chưa một lần muốn anh bênh vực để đối nghịch với mẹ chồng mà chỉ mong anh khách quan nhìn nhận mọi chuyện để mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu được dung hòa, để chị có thể hòa nhập vào môi trường khác với môi trường mà chị được giáo dục từ tấm bé. Nhưng... giờ thì đã hết. Chị đã hiểu rõ hơn con người anh, hiểu rõ một người dù mất đến ba năm yêu nhưng cái bồng bột của tuổi trẻ đã khiến chị lạc đường.

Trước, chị cũng đã từng nghĩ đến chia tay, cũng muốn tìm đến sự giải thoát nhưng con người truyền thống như chị rất ngại thay đổi. Hơn nữa, chị sợ nỗi đau tinh thần sẽ đeo bám không chỉ bản thân chị mà nó sẽ ám ảnh tâm hồn đứa con gái của chị. Nhưng nay, sau tất cả những gì anh nói chị lại nghĩ khác. Chia tay biết đâu chẳng là giải pháp tốt. Điểm kết thúc cũng là điểm khởi đầu. Chị cũng đã lường trước tất cả những gì chị phải đối mặt khi đi đến quyết định đó. Bởi bỏ chồng hay chồng bỏ thì đàn bà bao giờ cũng chịu nhiều thiệt thòi. Nhưng biết đâu đấy, chị mới ngoài ba mươi, cuộc sống vẫn còn đang ở phía trước. Chị chợt nghĩ, nếu thiếu đi một người đàn ông trong cuộc đời với có một người đàn ông nhưng lại như không bên mình thì có lẽ chọn cái thiếu lại tốt hơn, dù vẫn tâm niệm, mọi sự thiếu, thừa đều không hoàn hảo.

Ở cơ quan, lũ bạn chị vẫn bảo chị may mắn. Chả may mắn lại không ư? Ra trường chị có việc làm ngay. Từ vùng sâu vùng xa chuyển về phố rõ ngon ơ. Chồng chị là người đàn ông hoàn hảo. Đẹp trai, trí thức, lúc nào cũng mực thước, khuôn mẫu, thậm chí chính xác như một cái máy. Không rượu chè, cờ bạc, không đi đêm về hôm, không túm năm tụm ba bù khú. Hình như anh không có bạn thì phải. Suốt ngày chỉ thấy anh đọc báo chí với tài liệu. Dỗi nữa thì xem ti vi, bóng đá, cấm mó vào lấy một việc cỏn con trong nhà. Chả bù cho những ngày trước khi còn yêu chị, anh hào hoa phong nhã bao nhiêu thì bây giờ lại thu mình, khô cứng bấy nhiêu. Bọn bạn chị bảo với chị: "Mày chẳng phải lo mất chồng. Hạnh phúc nhất mày đấy". Họ có hiểu đâu, chị lấy chồng là để sẻ chia, tâm sự chứ cứ như một cái máy, một cái đồng hồ bên chị thế này thì... Có lần, chị định trao đổi với anh về một vấn đề gì đấy hay định rủ anh đi chơi thăm thú bạn bè thì chưa kịp mở miệng anh đã gạt phắt: "Em bỏ ngay cái kiểu tiểu tư sản lãng mạn ấy đi nhé. Bây giờ có còn như ngày xưa đâu mà phải nhõng nhẽo. Mơ mộng viển vông nó vừa vừa thôi". Chị cụt hứng. Dần dần chị thu mình lại, sống trong lặng lẽ âm thầm và cam chịu. Chồng chị ở bên thật đấy mà sao chị cảm thấy cứ như người xa lạ.

Khi chị sinh bé gái thứ hai, nhất là từ lúc mẹ chồng chị lên chăm cháu thì khoảng cách giữa chị và anh ngày một roãng ra. Anh buồn vì chị đẻ cho anh "không đúng kế hoạch". Anh là con trai duy nhất của dòng họ Đinh. Chẳng lẽ họ Đinh ở làng Phùng đến anh là chấm hết? Mặc dù là một "nhà khoa học" của tỉnh nhưng dưới sức ép của dòng tộc và quan niệm thâm căn cố đế của anh về nam và nữ đã khiến anh vốn đã khô cứng nay lại càng khô cứng hơn. Đẻ đứa nữa ư? Không được. Anh đang nằm trong diện quy hoạch cán bộ của Sở. Với lại, biết đâu lại là con gái thì sao? Kiếm chác, gửi gấm ở chỗ khác ư? Anh chưa dám nghĩ tới. Một mặt, mẹ anh suốt ngày ca cẩm, đá thúng đụng nia, mặt khác vợ anh thì chẳng có biểu hiện gì là "ân hận" sẻ chia khiến anh lại càng bực. Tuy nhiên, với dáng vẻ trí thức, anh vẫn cố làm ra vẻ "trong ấm, ngoài êm". Chính vì vậy mà lũ bạn của chị vẫn cứ ao ước được như gia đình chị.

Chiều nay, do họp công đoàn cơ quan nên chị về muộn. Chị đến trường đón con thì chồng chị đã đón cháu về rồi. Vừa về tới cửa thì mẹ chồng chị bắt đầu ca cẩm. Lại điệp khúc như mọi chiều. Anh vẫn ngồi thản nhiên đọc báo. Mẹ chồng chị vừa bế cháu bé, chơi với cháu lớn vừa cạnh khoé chuyện nọ xọ chuyện kia. Bếp núc lạnh tanh. Chân đăm đá chân chiêu chị tất bật chuẩn bị bữa tối. Mất điện. Trời oi bức ngột ngạt đến khó chịu. Mẹ chồng chị phành phạch cái quạt lá cọ rên rỉ.

Có tiếng chuông leng keng của xe rác. Chị vội xách xô rác chạy ra. Vừa lúc đó, người thu tiền vệ sinh phí hàng tháng cũng vừa đến. Nhá nhem tối, ông ta đứng ở cửa nhà hỏi tiền. Chồng chị làu bàu bỏ vào trong. Cất chiếc xô không vào xó nhà, chị vội vã lấy tiền đưa trả cho người thu phí. Mẹ chồng chị buông một câu: "Chỉ được cái thế là nhanh. Cứ làm như tiền là vỏ hến không bằng!". Chị dằn lòng nhã nhặn: "Thì đến tháng người ta thu mà mẹ!". "Tôi không dám nói chị", mẹ chồng chị nhấm nhẳn. Chị im lặng đi vào bếp.

"Tối quá, anh thắp cây nến lên một tí". Chị gọi chồng. Chồng chị bẳn lên: "Chả đợi thêm lát nữa hãy về!". "Cơ quan người ta họp công đoàn tranh thủ ngoài giờ, em về sớm sao được!". Chị thanh minh. "Phải! Người ta cán bộ là phải họp, phải bàn chứ. Đâu có như anh, công chức quèn. Ba cọc ba đồng lấy đâu mà đòi cửa cao nhà rộng". Mẹ chồng chị tỉa tót. Chị tím mặt suýt khóc. Hai đứa con chị dáng chừng tối, nóng lại muỗi đốt nên cứ nằng nặc đòi mẹ. Được thể, mẹ chồng chị quát chúng: "Có yên không thì bảo. Lát nữa khắc được mẹ mày đưa đi ăn quán!".

"Mẹ không phải tỉ thế. Các cháu nó không có tội gì đâu!". Đến nước này thì chị không thể yên được nữa. Hình như chỉ đợi có vậy, mẹ chồng chị lu loa lên: "Đấy, anh thấy nó nói với tôi thế nào chửa? Ai dám động đến nó mà nó bảo tôi tỉ nọ tỉ kia? Đi suốt ngày giờ về lại hành hạ bà cháu tôi thế đấy!". Chồng chị đang lóng ngóng châm nến liền quay lại nói: "Dễ chỉ mình bà khổ thôi à?". Chị ôm mặt kêu giời. Hai đứa con thấy chị vậy vội bỏ bà chạy đến ôm chân mẹ chúng. Chúng khóc ư ử.

"Nhà cửa điện đóm đâu mà tối om thế này?". Có tiếng ai đó hỏi thay câu chào. Chồng chị vội cầm cây nến ra phòng khách. Anh nhìn ông khách rồi bất chợt reo lên: "Ôi bác Sở! Có việc gì mà bác đến nhà em tối thế?". "Thế dễ có việc tôi mới đến nhà cậu chắc?", ông khách ý nhị. Chồng chị cười xoà giới thiệu mọi người trong nhà với ông khách. Thì ra đó là ông giám đốc sở, thủ trưởng cơ quan của chồng chị. Khác hẳn với ngày thường, chồng chị hoạt bát hẳn lên. Anh quay gọi chị: "Hà đâu, em ra pha nước mời bác Sở đi chứ. Khổ quá. Bác đến chơi lại đúng lúc mất điện". Chồng chị xun xoe. Mẹ chồng chị từ nãy đến giờ im lặng bỗng lên tiếng: "Chả mấy khi thủ trưởng đến thăm cháu, mất điện thế này thật là bất tiện". Ông khách xua tay: "Không sao! Không sao! Điện đóm bây giờ nó thế mà". Chị dắt hai đứa con lại bên mẹ chồng và pha nước mời khách. Tất cả như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Riêng chị vẫn cảm thấy ấm ức trong lòng về câu chuyện lúc nãy.

Qua câu chuyện của ông khách và chồng chị, chị biết chồng chị đang được cất nhắc trong kỳ đại hội sắp tới. Đó cũng là lý do ông khách đến chơi nhà chị hôm nay. Sau khi ông khách về, chồng chị vui hẳn lên. Cái chức vị như sáng ra trước mặt anh mặc dù điện vẫn chưa có. Anh nói: "Từ nay, bà với mẹ mày tuyệt đối không được mặt nặng mày nhẹ với nhau nữa. Phải ủng hộ tôi trong cái thời điểm nhạy cảm này. Mai kia, tôi được cất nhắc, khắc có tất cả". Mẹ chồng chị ậm ừ: "Có lẽ mai tao về quê!". Chị định thanh minh rằng đâu có phải tại chị nhưng lại thôi. Một sự nhịn chín sự lành, biết đâu sau đận này không khí gia đình sẽ thay đổi.

Đêm ấy, buồn vui lẫn lộn, chị buông tiếng thở dài bên anh. Hình như vẫn có sự chông chênh nào đấy.

Giữa dòng đời tôi nhặt được tứ thơ
Không viết được để hồn lang thang mãi
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đỗ Xuân Thu

HUYỀN THOẠI HOA NHÃ MY

       Trằn trọc mãi tôi không tài nào ngủ được. Trở mình hết bên nọ lại bên kia mà đôi mắt tôi vẫn cứ chong chong. Ánh trăng luồn qua khe cửa chiếu vào chỗ nằm khiến cho tôi càng nôn nao bứt dứt. Giữa mùa mưa cao nguyên sao lại có đêm trăng đẹp đến thế? Nhìn qua cửa sổ, trăng mười sáu vằng vặc giữa trời. Ánh trăng như dát vàng dát bạc xuống khắp rừng cao su, nhễ nhại trên tán lá cây kơ nia đầu hồi nhà Tuấn, chảy vào tận đây, chỗ tôi nằm. Bao tháng ngày quen với ánh điện phố phường, đêm nay bỗng dưng òa ra một đêm trăng như thế bảo sao tôi ngủ được? Hơn nữa, câu chuyện ban sáng, loài hoa lạ tôi gặp ban sáng lúc ở thác Phú Cường lại cứ ám ảnh tôi, nhiều lúc khiến tôi sởn da gà. Không thể chịu được nữa, tôi lay Tuấn:

         - Này, dậy với tớ đi!

         - Dậy làm gì? Anh không ngủ được à?

         Tuấn dụi mắt. Tôi khẽ khàng thở dài:

         - Không. Lạ lắm. Cứ chợp mắt là hình như có người lay gọi dậy.

         - Anh mê ngủ thế nào chứ? Chắc tại hôm nay đi thác mệt quá mà. Thôi, nằm lại đi, đếm từ một đến một trăm khắc ngủ được.

         Tuấn nhẹ nhàng khuyên tôi.

         - Đếm rồi. Hơn một ngàn rồi mà vẫn không ngủ được.

         Tôi chỉ ra ngoài:

         - Chú nhìn xem, trăng đẹp thế kia cơ mà. Cứ lơ mơ là tớ lại thấy có một cô gái như tiên sa, bước ra từ rừng cao su, cầm một nhánh hoa nhã my chạy đến ôm tớ. Cô ấy khóc. Thật đấy. Chú bảo thế tớ làm sao mà ngủ được?

         - Anh khéo tưởng tượng quá. Làm sao có chuyện ấy được.

         - Thật mà - Tôi khẳng định - Này, cái chuyện hoa nhã my chú kể ban sáng có thật không mà ám ảnh tớ mãi thế?

         - Thì em cũng nghe đồng bào ở đây truyền kể lại thế, em kể lại cho anh, thế thôi. Chẳng tin, mai hai anh em mình trở lại Phú Cường, vào bản gặp già làng khắc rõ.

         - Thôi. Không mai nữa. Dậy đi với tớ, tìm gặp ông ấy luôn.

         Tôi nhỏm người dậy sốt sắng. Tuấn giương mắt, tỉnh ngủ nhìn tôi ngạc nhiên:

         - Đi giữa đêm khuya này?

         Tôi gật đầu:

         - Chú xem, trăng thế kia mà ngủ được sao? Dậy! Đi với tớ! Giữa đêm khuya tĩnh lặng, bát ngát trăng, giữa rì rầm tiếng thác mà nghe kể chuyện huyền thoại về một loài hoa thì còn gì bằng.

         Chẳng ngờ tôi kích đúng cái máu lãng mạn trong con người Tuấn khiến cậu ta tỉnh như sáo. Tuấn dậy, khẽ khàng khép cửa cùng tôi vào làng.

            alt

           Cái anh chàng này là thế, máu phiêu du ngấm từ bé. Chả vậy mà đang công nhân quốc phòng, công việc đang ổn định ngoài bắc, bỗng dưng có mươi phút bỏ lại tất cả để vô đây. Từ trai bắc, nói giọng bắc, hơn chục năm qua, Tuấn đã trở thành người cao nguyên thứ thiệt, nói giọng nam khiến người thân cũng ngỡ ngàng. Từ công nhân cao su, Tuấn học bổ túc làm giáo viên cắm bản. Yêu thích văn chương, ham tìm hiểu khám phá, Tuấn đã  sưu tầm được nhiều câu chuyện dân gian ở đây, ghi chép nó lại và sáng tác được một số tản văn, bài thơ tâm đắc. Mấy ngày rong ruổi cùng Tuấn tôi mới thấy mảnh đất này đủ lý do để anh dừng chân. Chỉ nguyên cái đêm trăng hoang sơ nguyên thủy này đã làm tôi mê mẩn rồi huống gì Tuấn, cái máu nghệ sỹ ấy, cả tháng, cả năm hưởng khí trời, lộc đất, gió cao nguyên như thế dễ nào mà hắn bỏ đi được.

         Hai chúng tôi đi bộ dưới ánh trăng. Đêm cao nguyên mát rượi. Gió lồng lộng phóng túng. Trời cao vằng vặc trăng. Sau khi tôi trình bày mong muốn của mình, quả đúng như tôi nhận định, già làng đồng ý liền. Ba chúng tôi đi bộ tiếp ra thác Phú Cường.

         Từ xa đã nghe tiếng thác đổ. Lúc đầu là rì rầm, thủ thỉ, càng đến gần tiếng thác càng sục sôi, gầm réo. Ánh trăng chiếu vào ngọn thác trông như một bờm con ngựa bạch không lồ đang tung vó trên cao nguyên. Già làng kéo hai chúng tôi ngồi xuống trên một mỏm đất cao. Từ đây, chúng tôi vừa nhìn rõ ngọn thác, tiếng thác vừa đủ làm nền cho câu chuyện mà ông sắp kể.
Giữa dòng đời tôi nhặt được tứ thơ
Không viết được để hồn lang thang mãi
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đỗ Xuân Thu

HUYỀN THOẠI HOA NHÃ MY (Phần cuối)

        Ngày xửa ngày xưa, nơi đây hoang sơ lắm. Rừng rú rậm rịt. Hổ beo, chim muông đầy đàn. Cây cối tốt tươi. Trăm hoa đua nở. Chim véo von hót. Buôn làng ít người lắm. Chủ yếu sống bằng săn bắt, hái lượm. Cuộc sống tưởng thanh bình, ấy vậy mà một năm nọ, xuất hiện một loài thú dữ thường xuyên về quậy phá buôn làng. Những con vật kỳ quái khiến voi, hổ cũng phải kiêng nể. Con đầu đàn xưng là chúa tể rừng xanh. Không chỉ tàn phá hoa màu, cướp bóc của cải, nó còn bắt dân làng hàng tháng phải cống nộp cho nó một cô gái đẹp.  Đến nỗi, một năm nọ, làng không còn cô gái nào nữa. Thì mỗi tháng cứ nộp một cô như thế làm sao mà đủ gái cho nó được?

         Không biết trời xui đất khiến thế nào, hôm đó có một cô gái từ trong phía nam lạc về đây. Nàng đẹp lắm. Suối tóc nàng như mây. Da nàng trắng như nước. Đôi mắt nàng ngơ ngác giữa rừng xanh. Dân làng thấy cô cũng sững sờ. Con cái nhà ai, đi đâu mà lạc đến nơi khỉ ho cò gáy này? Già làng hỏi, nàng chỉ cười. Nàng cười làm bừng lên tiếng chim rừng. Chúng đua nhau hót râm ran. Lũ công, phượng xòe đuôi, nhún nhấy múa. Suối róc rách hòa ca. Nắng lung linh qua kẽ lá. Hoa rừng đua nhau tỏa hương thơm ngát. Lũ trai làng tròn mắt ngạc nhiên ngắm nàng. Các cụ già cũng ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của nàng.

         Đúng lúc đang cảnh thần tiên ấy thì tin sét đánh đến. Chúa tể rừng xanh yêu cầu dân làng đúng rằm tới phải nộp cô gái theo đã định. Lấy đâu ra con gái đồng trinh mười sáu tuổi nữa? Các nhà trong làng đều không còn cô gái nào hết. Cứ cập kê là nó chuẩn bị bắt đi. Bây giờ toàn con nít, trẻ nhỏ. Chợt như cùng một lúc, hầu như tất cả mọi người trong làng đều nghĩ tới nàng. Rồi cũng trong khoảnh khắc ấy, đồng loạt một ý nghĩ chạy trong đầu mọi người. Và họ cùng lắc đầu đồng loạt: Không được! Không thể được! Giữa rừng, nàng vẫn ngây thơ hái hoa, ngắm cảnh. Chim vẫn hót véo von và suối vẫn chảy róc rách.  

         Chỉ còn một tuần nữa là đến hạn nộp mạng cô gái cho chúa tể rừng xanh. Cả làng chìm trong nỗi sợ hãi. Nếu không có người con gái nào nộp cho nó thì nó sẽ phá tan làng, giết hết người già trẻ con, đốt sạch của cải, nhà cửa. Những cặp mắt buồn bã nhìn nhau. Cái lo sợ hiện lên trên từng khuôn mặt. Cô gái lạc bước kia vẫn hồn nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Mọi người lo thay cho nàng. Đúng đêm rằm, nếu không thấy cô gái nào đến nộp mạng thì đích thân chúa tể rừng xanh sẽ đến làng. Nếu vậy thì cô gái kia, dù dân làng có muốn hay không cũng sẽ phải thế mạng. Bóng ma u ám trùm khắp núi rừng.

         Đang lúc gay cấn như vậy, một hôm, có một đoàn ngựa chiến phi đến làng. Dẫn đầu là một chàng trai tuấn tú, khôi ngô. Vó ngựa tung bụi mù mịt cao nguyên. Mọi người ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của họ. Hỏi ra mới biết đó là đoàn chiến binh của nhà vua do một hoàng tử dẫn đầu vào để dẹp lũ yêu quái nọ. Cả làng thở phào mừng rỡ. Vị cứu tinh của ta đây rồi! Lũ làng ơi! Sống rồi! Giàng ơi! Sống rồi! Mọi người ai nấy đều reo lên hoan hỉ.

         Trai làng dùng dáo mác, gậy gộc, nỏ tên kéo cùng đoàn quân cưỡi voi tiến vào rừng xanh. Quân reo dậy đất. Bụi cuốn mù trời. Sáng rằm năm đó, trong khi chúa tể rừng xanh đang hí hửng chờ tối để nhận lễ vật là cô gái thì đùng đùng ngoài cửa hang là voi gầm, ngựa hí, là người reo, mõ kêu… Quái vật ba đầu sáu tay nghênh ngang bước ra cửa hang. Lúc này, hoàng tử hùng dũng tiến lên phía trước giáp mặt nó. Hai bên lao vào trận đấu. Tiếng hò reo vang trời. Cây cối ngả nghiêng gió cuốn.

Đánh nhau đến trưa thì hoàng tử đã chặt được hai đầu, năm tay của con quái vật. Còn một đầu một tay, nó điên tiết lao lên quật đổ cây cối hai bên. Đuôi nó quẫy rạp cỏ cây, nát đất cả một vùng rộng lớn. Hoàng tử khéo léo dẫn dụ nó đến đoạn suối Ia Pet rồi thừa cơ lúc nó trượt chân, hoàng tử vung kiếm chém đứt nốt cái đầu và cái tay còn lại của con quái vật. Con chúa bị giết, lũ quái vật con bị các chiến binh và trai làng đánh cho tơi tả, chết gần hết. Núi rừng trở lại yên tĩnh. Dân làng từ chỗ ngỡ ngàng chưa tin nổi vào mắt mình chiến thắng kỳ diệu đó đến chỗ cùng hò reo, cùng chạy tới công kênh hoàng tử. Thế là từ nay, làng sẽ có một cuộc sống thanh bình. Núi rừng từ nay mãi mãi xanh tươi.

         Dẹp xong quỷ dữ, các chiến binh được hoàng tử cho về quê làm ăn sinh sống. Riêng hoàng tử từ lúc gặp nàng (khi đó, nàng đã được một gia đình người BaNa không có con nhận về nuôi) đã xao động không còn thiết gì nữa. Rũ bỏ gươm giáo, cân đai mũ mão, chàng tìm đến nhà nàng. Từ đó, những buổi tình tự với nhau bên suối cứ nhiều lên. Và tình yêu của họ nảy nở đẹp như hoa rừng, nước suối. Dân làng ai cũng mừng cho cặp trai tài gái sắc.

         Cho đến một ngày chàng nhận được tin gấp của vua cha. Chàng phải về bắc để đưa quân đi trấn ải biên cương. Quân lệnh như sơn, hơn nữa, chàng là hoàng tử phải vâng lệnh vua cha. Bên bờ suối Ia Pét, nàng lưu luyến tiễn chàng về nhận nhiệm vụ. Họ thề non hẹn biển sẽ kết tóc se duyên nên vợ thành chồng ngay sau khi chàng dẹp xong giặc nước.

         Một năm, hai năm rồi ba năm… nàng chờ chàng đằng đẵng. Chàng biệt vô âm tín. Ngày nào, nàng cũng ra bờ suối đoạn mà chàng và nàng hay tình tự để soi gương và tìm lại những kỷ niệm với chàng nhất là những đêm trăng sáng. Dân làng ai cũng cảm thương cho nàng. Một số trai làng đánh tiếng là muốn thế chân hoàng tử đem lại hạnh phúc cho nàng. Nàng đều kiên quyết từ chối, một lòng một dạ chờ chàng. Cho đến năm cả hai bố mẹ nuôi của nàng mất thì nàng suy sụp hẳn. Mọi người nhớ mãi cái đêm rằm năm đó, sau khi cùng dân làng chôn cất bố mẹ nuôi xong, nàng ra bờ suối ngửa mặt nhìn trăng, trông về phương bắc và khóc. Nàng khóc ròng rã như thế cả tháng trời. Ai khuyên bảo gì nàng cũng không nghe. Đến rằm tới thì giông gió nổi lên, sấm chớp đùng đùng, mưa tuôn dữ dội. Giữa đêm, một tiếng sét lớn nổ vang khiến cả làng kinh động. Sáng ra, mọi người đều không tin nổi ở mắt mình, đoạn suối mà nàng ngồi đã sụt lở biến thành một con thác tuôn nước ầm ầm trắng xóa. Không ai thấy nàng đâu nữa. Mọi người nhìn nhau. Già làng thở dài. Nước mắt của nàng đã làm cho con suối Ia Pét từ chỗ nhỏ bé đã rộng lớn hơn và trở thành con thác này đây. Và rồi, sau đó ít ngày, hai bên vách thác mọc ra một loài hoa kỳ lạ chưa ai thấy bao giờ.

         Lại nói về hoàng tử, sau khi chia tay nàng, chàng lao vào cuộc chiến hết năm này qua năm khác. Chinh chiến liên miên, hình ảnh về nàng vẫn đau đáu trong tim chàng. Cái kỷ vật là một chạc ba cành kơnia có hình dáng như chiếc chìa khóa, như lá bùa hộ mệnh nàng trao lúc chia tay, chàng luôn để trong túi ngực, phía sau làn áo giáp. Chính nhờ cái bùa hộ mệnh ấy mà chàng liên tục giành chiến thắng trong các cuộc giao tranh. Khi dẹp tan hết giặc, chàng xin phép vua cha trở lại tìm nàng. Cha chàng đồng ý. Chàng liền một mình một ngựa vượt hàng vạn dặm trở lại chốn xưa.

         Dân làng toàn người mới, chẳng ai quen biết. Lớp cũ không còn. Lớp trẻ lớn lên chẳng ai biết chàng là ai. Ngôi nhà xưa bên suối của nàng cũng chẳng còn. Chàng gọi nàng trong vô vọng. Cả người và ngựa mệt nhoài sau chặng đường dài hàng tháng trời. Tìm đến chốn cũ, nơi chàng và nàng thường hò hẹn thì hỡi ôi, trước mắt chàng là con thác đang gầm réo. Mỏi gối, chồn chân cả người và ngựa lững thững xuống thác. Chàng cứ thế quẩn quanh thác hàng tháng trời chờ đợi nàng. Có đêm, mệt quá chàng ôm gối gục xuống, thiếp đi lúc nào không biết. Và rồi, trong mơ, chàng chợt thấy ông bụt hiện lên mỉm cười nói với chàng: “Người mà con yêu đang ở bên con đấy!”. Chàng choàng tỉnh ngơ ngác. Nhìn ra xung quanh chẳng thấy gì hết. Chỉ có những đóa hoa lạ, màu tím biếc đang lấp lóa dưới trăng.

         Cũng chính lúc này, những đóa hoa lạ ấy dù ở xa vẫn cứ cố vươn về phía chàng. Những tiếng kêu chẳng thành lời âm âm u u vọng lại: “Chàng ơi! Em đây! Em của chàng đây! Hãy đến với em chàng hỡi!”. Không ai nghe được tiếng gọi thảm thiết đó. Chỉ có tiếng thác ầm ầm đáp lại. Chỉ có tiếng gió ù ù thổi lại. Chỉ có ánh trăng luênh loang trong sương. Chỉ có sương mây giăng mờ mờ ảo ảo…

         Mãi đến một đêm rằm nọ, dân làng lại nghe thấy một tiếng nổ lớn giữa đêm trăng thanh vắng ở ngoài thác. Sáng sau, mọi người thấy dưới chân thác không phải là đất cát như trước nữa mà lổn nhổn những đá là đá. Đá đủ loại hình thù, đủ mọi kích cỡ. Ngay mô đất chỗ hoàng tử hay ngồi giờ đã là một phiến đá to tướng có thể ngả lưng mà ngủ. Những viên đá hiền ngoan nằm la liệt dưới chân thác. Người ta bảo đó là chàng gối đầu lên chân nàng mà ngủ sau bao ngày chinh chiến binh đao, xung quanh là hoa rừng ngát hương, và kia nữa là thác nước - suối tóc của nàng.

       Dân buôn làng ngạc nhiên vì hiện tượng lạ này. Giữa cao nguyên đất đỏ lại mọc ra một khu toàn đá là đá. Già làng bảo đó là xương thịt của hoàng tử hóa thành. Và loài hoa lạ ấy từ khi có đá thì hình như tươi tốt hơn, hoa thắm màu hơn. Các cụ bảo, hoàng tử hóa đá để những dòng nước mắt của nàng rơi vào đó, bắn thành bọt tung lên tưới cho hoa. Những ngày mưa nắng xen nhau, những bọt nước li ti ấy kết thành một dải cầu vồng lung linh bảy sắc làm cho cảnh tượng nơi đây như chốn thần tiên. Từ đấy trở đi, dân làng đặt tên cho loài hoa mới này là hoa Ia My. Tiếng dân tộc gọi Chư là núi (Chư Sê, Chư Prông…), Ia là nước. My là mắt, Ia my là nước mắt. Phiên âm dần là Ja my và để phổ thông hóa, về sau này mọi người gọi loài hoa này là hoa Nhã My.

         Hoa nhã my nở đẹp nhất vào mùa thu. Lúc này nước suối Ia Pét vừa đủ, thác không ầm ầm tựa tấm màn bạc, mịt mù hơi nước như mùa mưa, nó thu gọn lại đổ xuống óng mềm như dải lụa để hoa nhã my rực rỡ khoe màu. Đứng từ dưới nhìn lên, dải thác như chiếc khăn lụa trắng nổi bật trên nền trời thu xanh thắm với một vùng hoa lá cỏ cây vây quanh. Và hoa nhã my kia, dù khiêm nhường đến mấy vẫn cứ nổi bật lên giữa thảm thực vật xung quanh thác.

           Già làng kết thúc câu chuyện thì trời vừa sáng. Ông vươn vai đứng dậy nhìn hừng đông đang rạng, nhìn ngọn thác đang tung bọt nước trắng xóa. Phía cuối rừng kia là vầng trăng còn đang ngơ ngác lạc trôi trên nền trời như muốn nghe mãi câu chuyện huyền thoại hoa nhã my. Đoạn, ông bảo hai chúng tôi về nhà ông uống rượu. Bao giờ cũng thế, cứ kể xong huyền thoại hoa nhã my là người ông như trút hết tinh lực, trở nên rỗng tuếch, chênh chao. Là người nghe, tôi cũng cảm thấy sởn da gà, như có một luồng điện chạy dọc khắp người. Ông kể tỉ mỉ chi tiết hơn Tuấn kể cho tôi sáng qua. Đóa nhã my tôi giấu trong túi áo ngực dường như đang cựa quậy tỏa hương ngầy ngậy thơm. Tôi bâng lâng bước theo già làng và Tuấn.

        Đợi cho hai người ngả nghiêng vì rượu, tôi quyết định trở lại thác Phú Cường. Kể cũng lạ, uống nhiều rượu như thế, nhậu tới bến như thế, thế mà tôi vẫn tỉnh như sáo. Trong khi đó, già làng và Tuấn thì gục ngay bên ché rượu cần.

          Một mình tôi xuống thác. Tôi đi như thôi miên, bước chân vô định trên từng viên đá, men theo vách thác. Mắt tôi nhòa đi khi trước mặt là bạt ngàn những nhành hoa tím rung rinh trong gió sớm mai. Hoa như vẫy gọi tôi, mỉm cười cùng tôi. Những hạt nước li ti như mưa bụi bắn ra từ thác phả vào mặt tôi, tưới lên những đóa hoa khiến tôi có cảm giác hơi lành lạnh. Vừa lúc đó, mặt trời nhô lên khỏi đỉnh núi. Những tia nắng sớm mai chiếu xuống thác gặp hơi nước tạo thành chiếc cầu vồng lung linh bảy sắc bắc qua ngọn thác. Tôi ngây người tưởng mình như sắp bước lên cầu kia mà bồng bềnh phiêu du.

          Hoa nhã my! Ơi đóa hoa nhã my huyền thoại! Tôi lựa chân nhảy qua trên từng viên đá, tới vạt hoa gần nhất ngắt cho mình cả một bó nhã my. Ôm chặt bó hoa nhã my trước ngực, tôi úp mặt vào hoa hít hà cái hương thơm dìu dặt, nhắm mắt lại để tận hưởng cái sắc màu lung linh tím biếc thủy chung. Những giọt sương mai hay giọt nước thác đọng ở hoa làm khuôn mặt tôi cũng ướt nhòe. Ơ kìa, hay là tôi khóc? Thương quá một loài hoa! Yêu quá một huyền thoại! Bất chợt tôi nhớ em vô cùng. Những hòn đá dưới chân tôi hình như cũng đang cựa quậy. Tôi quyết định chọn lấy hai viên đá đẹp nhất tượng trưng cho hòn chồng hòn vợ cùng với bó hoa nhã my này tôi sẽ mang về tặng em, kể cho em nghe về huyền thoại một loài hoa cao nguyên đầy nắng gió. Tôi sẽ đặt hai viên đá và trồng cây nhã my này trong vườn thơ của tôi như lời thề tình yêu tôi với em - lời thề hoa nhã my. Huyền thoại hoa nhã my sẽ chắp cánh cho thơ tôi, cho tình yêu của tôi bay lên, bay lên…

                                                                                                         Tháng 7-2011
Giữa dòng đời tôi nhặt được tứ thơ
Không viết được để hồn lang thang mãi
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đỗ Xuân Thu

CÓ TẬT GIẬT MÌNH (Phần 1)


Chín giờ sáng. Giám đốc Hách mở cửa phòng làm việc. Tâm trạng lâng lâng sau bữa “chào buổi sáng” với mấy ông bạn vàng, ông Hách hạ mình đặt cặp mông to tướng lên chiếc ghế xích đu rồi co chân xoay xoay mấy vòng, nhắm mắt mơ màng bắt đầu cho tám giờ vàng ngọc. Chẳng việc công nào hiện lên trong đầu ông mà chỉ toàn thấy những gương mặt của các em xinh đẹp. Khổ thế cơ chứ. Số ông là số đào hoa. Ngũ thập rồi mà các em vẫn cứ ríu rít theo. Ông đã tự dặn mình rằng Nga sẽ là em cuối cùng trong đời ông để rồi sau đó ông sẽ sống “yên thân” trong chiêm nghiệm thế mà nào có được. Sáng nay, tự nhiên lại gặp em Mai xinh thế, ngon thế, mắt lúng la lúng liếng đong đưa hớp hồn ông mới khổ chứ. Đàn bà gì đã hai mặt con rồi mà trông vẫn cứ hơ hớ phây phây ra đến vậy. Ngỏ ý xin việc cho em trai mà cô ta cứ như ra lệnh cho mình mới tài chứ.
Sực nhớ tới lời tay Tuyên úp úp mở mở lúc ở quán, ông Hách bấm máy gọi cô thư ký. Chưa đầy một phút sau, Hằng đã ỏn ẻn đến bên:
- Dạ! Sếp cho gọi em ạ?
Vừa nói, Hằng vừa áp bầu ngực nóng hổi vào lưng ông Hách. Ông Hách ngoảnh mặt lại hỏi:
- Báo “Cội nguồn” về chưa em?
- Dạ, về rồi sếp ạ. Em đã chuyển cho sếp mươi ngày rồi còn gì. Sếp chưa đọc sao?
- Thể hả? Bận tối mắt tối mũi người ta có thời gian nào mà đọc. Lúc nãy ngoài quán, tay Tuyên nó bảo có cái truyện ngắn “Thọt” hay lắm, hình như nó viết về anh thì phải?
- Thế ạ? Thế thì vinh dự cho anh và lâm trường ta quá rồi còn gì!
Hằng uốn giọng thẽ thọt và chớp chớp đôi mắt nai mơ màng. Cử chỉ này ông Hách khoái lắm. Như một lẽ tự nhiên, ông cầm bàn tay của Hằng vuốt ve.
Thực ra, báo chí cơ quan trang bị cho ông hơi bị nhiều. Có điều, nó chuyển đến chỗ ông như thế nào thì khi bán cho hàng giấy vụn nó vẫn giữ nguyên như thế. Tất cả đều được cô thư ký xếp đặt gọn ghẽ ngăn nắp thành từng mô, từng món trên chiếc bàn làm việc của ông. Vào phòng ông ngợp những sách báo, tài liệu. Bề thế lắm. Sang trọng lắm. Khi từng chống báo, tạp chí ấy cao đến độ vừa đủ thì chính Hằng lại làm nhiệm vụ bó buộc nó lại cất vào tủ cho đến khi nhiều quá thì “tập đoàn sách báo” ấy sẽ bị tống khứ cho mấy bà ve chai giấy vụn.
Giở tờ báo “Cội nguồn”, ông Hách lơ đễnh đọc lướt qua các chuyên mục. Vẽ chuyện! Báo với chả chí! Toàn các vị lắm chữ làm rắc rối vấn đề. Đây rồi! “Thọt” đây rồi! Xem nó viết thế nào mà tay Tuyên nó bảo viết về mình cơ chứ?
Ông Hách càng đọc càng tái mặt đi. Mẹ cha nó chứ, ai lại viết về ông như vậy được? Thế này bằng nhổ vào mặt ông rồi còn gì! Ông Hách vò nhàu tờ báo rồi vứt xoạch xuống nền nhà.
- Cô gọi ngay cậu Phẻn lên đây cho tôi!
Hằng đang hí húi cắm lại mấy bông hoa bỗng giật mình trước việc làm và thái độ của ông Hách.
- Có việc gì thế sếp?
- Việc gì! Gọi ngay tay Phẻn lên đây cho tôi!
Ông Hách sẵng giọng ra lệnh. Mặt ông tím dại. Đôi mắt ông vằn lên. Miệng ông bạnh ra tức tối. Hằng nem nép mở cửa chuồn ra ngoài.
Lát sau, Phẻn, chánh văn phòng hấp tấp đến.
- Thủ trưởng cho gọi em?
- Phải!
- Có việc gì thế ạ?
Phẻn khúm núm. Ông Hách chỉ vào tờ báo vo viên dưới sàn nhà:
- Cậu đọc nó chưa?
- Đọc gì ạ? Phẻn ngơ ngác hỏi lại.
- Báo “Cội nguồn” chứ còn gì nữa. Đấy! Cầm lên mà xem! Nó viết về thủ trưởng của các anh như thế mà các anh để yên được à?
Phẻn cúi nhặt tờ báo, vuốt lại cho phẳng. Anh ngây ngô hỏi ông Hách:
- Nó viết về thủ trưởng chỗ nào ạ?
- “Thọt” đấy. Thủ trưởng của cậu đấy! Cậu không thấy à?
- Ôi! Tưởng gì! Cái truyện ngắn họ hư cấu ấy mà. Em đọc rồi. Chẳng có gì đâu thưa sếp.
Phẻn làm ra vẻ xuê xoa định an ủi ông Hách. Không ngờ, anh chưa kịp thở phào về ý đó thì ông Hách đã dồn cả bực tức lên đầu anh:
- Sao mà anh ngu thế? Nó viết, nó tả rành rành ra như thế mà mắt anh không nhìn thấy gì à?
Phẻn vẫn ú ớ. Ông Hách giằng lấy tờ báo và chỉ vào từng đoạn vừa thở hồng hộc vừa giải thích. Chờ cho ông Hách dừng lời, Phẻn nhẹ nhàng nói:
- Sếp ơi! Không phải họ viết về sếp đâu. Đây là truyện ngắn, một thể loại văn học, mà đã là văn học thì nhà văn có quyền hư cấu, có quyền sáng tạo theo ý tưởng của họ, chứ có phải phóng sự điều tra, hay chi chép, phản ánh có địa chỉ cụ thể gì đâu mà sếp lo.
- Cậu nói lạ. Rõ rành rành nó viết về tôi như thế mà cậu còn bênh à?
Phẻn cầm tờ báo chìa ra trước mặt ông Hách giải thích:
- Đâu nào thưa thủ trưởng? Em có thấy tên thủ trưởng đâu?
- Không nêu tên thì nó nêu họ. Chả họ Đặng thì cái gì đây? Nó chơi mình đủ thứ tội. Nào là tham nhũng, nhận hối lộ, nào là hám gái, cửa quyền. Lại còn xỏ xiên cho là mình đang “phấn đấu vào cái câu lạc bộ một ngàn cái vốn tự có của phụ nữ” mới láo chứ. Văn với chả báo!
- Khổ quá sếp ơi! Đấy là họ viết về nhân vật trưởng phòng Đặng mà anh là giám đốc cơ mà? Anh với thằng cha nhân vật ấy ngẫu nhiên trùng họ thôi.
Phẻn vẫn một mực phân tích để cho ông Hách hiểu song ông ta vẫn gầm gừ, nói rít qua kẽ răng:
- Như thế cũng không được. Không thể được. Cậu phải cho thu hết số báo này ngay. Hiểu chưa? Triển khai gấp đi, đầu giờ chiều báo cáo tôi!
- Dạ. Nhưng mà...
- Nhưng mà sao?
- Dạ. Theo Luật Báo chí thì không làm thế được sếp ạ.
- Không nhưng nhiếc gì hết. Cậu làm ngay đi. Có làm được không thì bảo?
Biết không thể thay đổi được ý định cuả ông Hách, Phẻn cố giấu nỗi bực dọc lùi lũi bước ra cửa suýt nữa thì va vào Hằng đang đi vào. Nhìn bộ mặt dị dạng của Phẻn, Hằng vội hỏi:
- Có việc gì thế anh?
- Việc gì? Cô đi mà hỏi sếp nhà cô ấy!
- Ơ! Cái nhà anh này, sao lại cáu cả với em?
Buổi sáng nặng nề chậm chạp trôi qua. Thấy thái độ của ông Hách vậy Hằng không dám nhõng nhẽo như mọi khi.
Giữa dòng đời tôi nhặt được tứ thơ
Không viết được để hồn lang thang mãi
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đỗ Xuân Thu

CÓ TẬT GIẬT MÌNH (Phần cuối)

Vừa đầu giờ chiều, ông Hách đã gọi Phẻn đến:
- Thế nào? Cậu thu hết được số báo đó chưa?
- Dạ... Thưa anh... Được khoảng non nửa thôi ạ.
- Có nghĩa là...
- Vâng... Có nghĩa là được gần trăm tờ, còn hơn trăm tờ nữa thì rải rác ở các đội sản xuất anh ạ. Có điều...
- Điều gì?
Ông Hách giật mình hỏi lại. Phẻn ấp úng giây lát rồi nói:
- Sau khi biết anh có chủ trương thu hổi số báo này, nhiều kẻ tò mò đã tìm mua nó ở bưu điện hoặc sang mượn ở các cơ quan khác anh ạ. Có người còn phô tô cái truyện ấy ra hàng chục bản phát cho nhau xem nữa kia. Với lại ở các gia đình họ đặt báo riêng, rồi thì trên mạng nữa. Em chịu thôi, thu hết thế nào được.
- Trời ơi! Thế này thì giết tôi rồi còn gì! Tôi biết ngay mà!
Ông Hách vò đầu, bứt tai rền rĩ. Phẻn và Hằng ái ngại nhìn nhau.
- Bây giờ làm thế nào hả anh? Hằng rón rén đến bên ông Hách, sụt sịt hỏi.
- Làm thế nào nữa? Tiếp tục thu hồi chứ còn sao nữa. Thu hết. Thu cho nhanh vào. Khổ lắm!
Chợt ông Hách ngẩng phắt đầu dậy nhòm Phẻn một cách dễ sợ:
- Có phải... Chính cậu là người cung cấp thông tin cho tay nhà báo viết cái bài này phải không? Đúng không?
- Dạ... Ơ... ơ... Không, không ạ! Em có biết mặt mũi cái thằng cha này thế nào đâu, thưa sếp. Oan cho em quá!
Phẻn giãy nảy như đỉa phải vôi. Ông Hách lẩm bẩm một mình:
- Không ai cung cấp mà nó đọc vị viết về mình tài thế nhỉ?
- Vâng. Đúng đấy ạ.
- Cậu bảo đúng? Đúng cái gì? Nó viết đúng à?
Ông Hách dồn chánh văn phòng. Phẻn nhăn nhở:
- Dạ... em... em bảo đúng là... là... không có ai cung cấp thông tin gì thủ...thủ trưởng ạ.
- Thôi được rồi! Tạm tin như vậy. Bây giờ cậu làm thủ tục cắt ngay hợp đồng đặt mua báo “Cội nguồn” cho tôi. Cắt ngay!
- Nhưng... hiện đang là giữa quý, thủ trưởng? Với lại, anh em họ thích đọc tờ báo này lắm ạ.
- Giữa quý cũng cắt. Thích đọc cũng cắt. Cắt! Cắt ngay! Cậu hiểu chưa?  Ông Hách dừng lại ngó chòng chọc vào mặt Phẻn nói nhỏ: - Hay là để tôi... cắt... cậu?
Phẻn co rúm người rùng mình:
- Dạ... dạ... em... em sẽ thực hiện ngay quyết định của thủ trưởng ạ.
Phẻn đi khỏi, ông Hách nói với Hằng:
- Đóng chặt cửa lại, không tiếp khách. Ai hỏi bảo tôi lên tỉnh họp, rõ chưa?
- Dạ... Em hiểu ạ. Anh nghỉ ngơi tĩnh tâm nhé.
Sập cửa phòng sếp xong, Hằng ý tứ về phòng của mình.
Từ ngày làm việc với ông Hách đến giờ, chưa bao giờ cô thấy sếp của mình lại nổi nóng đến vậy. Thực ra, cái truyện “Thọt” này cô cũng đã đọc. Phải nói rằng cái ông nhà văn này viết tinh tế lắm, có đến chín phần mười là chuyện của ông Hách. Cửa quyền, hách dịch, kèn cựa, háu gái, tham tiền, ăn hối lộ, nịnh cấp trên, chèn ép cấp dưới... thôi thì đủ thói hư tật xấu được nguỵ trang dưới cái vỏ bọc mỹ miều hào nhoáng của cái chức giám đốc của ông Hách. Thì chính cô cũng vừa là nạn nhân lại vừa là đồng phạm đấy thôi. Là thư ký đời thứ mấy của ông Hách, Hằng không cần biết. Cô chỉ biết “lấy độc trị độc” bằng cách dựa dẫm vào ông, khai thác lợi thế cái chức vị của ông để tiến thân, để làm kinh tế. Mỗi lần lên giường với sếp là mỗi lần cô nghĩ phải thu lại được một món lợi gì đó phòng cho mai sau. Mang tiếng là “ca ve cao cấp” cô cũng đau lắm chứ, song “đi với ma thì phải mặc áo giấy” vậy chứ biết làm thế nào?
Đang miên man suy nghĩ thì Hằng thấy một bóng người lấp ló ngoài cửa.
- Chào cô! Cô cho hỏi anh Hách giám đốc có nhà không ạ?
Hằng quan sát vị khách mới đến. Ông này trạc tuổi với ông Hách, ăn mặc khá sang trọng. Cô ướm hỏi:
- Dạ... Xin lỗi bác ở đâu đến ạ?
- Tôi ở trên Công ty, bạn thân với anh Hách đây. Chúng tôi hẹn gặp nhau chiều nay mà.
- Dạ... Xin lỗi bác, thủ trưởng em lên tỉnh họp rồi ạ.
Hằng đáp y lời dặn của ông Hách. Ông khách nhìn cửa phòng ông Hách và nhận ra ám hiệu báo rằng ông Hách vẫn đang ở trong phòng. Mấy ông bạn vàng có quy ước riêng với nhau là nếu cửa chính khoá nhưng cửa sổ vẫn mở thì chủ của nó vẫn ở nhà. Đấy là cơ hội, là tín hiệu để họ gặp nhau. Ông khách khẩn khoản:
- Phiền cô nói với anh Hách là có anh Phi trưởng phòng Tổ chức Công ty tới thăm nhé.
Ông khách mới nói vậy, sự nhạy cảm trong thư ký Hằng bỗng nổi lên:
- Dạ... Vâng. Để em vào báo cáo sếp em ạ.
Quả nhiên, trưởng phòng Công ty họ Đặng được ông Hách đặc cách mời vào. Bắt chặt tay khách ông Hách phân trần:
- Chiều nay tôi hơi bị mệt, dặn mọi người không tiếp ai. Ông là trường hợp ưu tiên đặc biệt đấy.
- Thì vưỡn! Chúng mình chẳng đã quy ước với nhau thế rồi còn gì. Ơ! Thế ông quên cuộc hẹn chiều nay đi khách sạn Thu Ngàn à?
Trưởng phòng Đặng Tiến Phi vồ vập. Ông Hách vỗ vỗ tay vào trán:
- Ừ nhì! Nhiều việc quá, suýt quên.
Nhấp xong ngụm trà nóng, trưởng phòng Công ty Phi liếc mắt lên bàn thấy tờ “Cội nguồn” với cái truyện ngắn “Thọt” nằm chềnh ềnh ra ở đó. Ông với tay cầm tờ báo:
- “Thọt”. Ông đang đọc cái này à?
- Không. Đọc làm quái gì ba cái thứ vớ vẩn đó. Tôi vừa giở ra thì thấy nó đấy chứ.
Ông Hách đáp tỉnh bơ. Trưởng phòng Công ty bỗ bã:
- Đúng thế. Tôi cũng có bao giờ đọc báo với chả chí đâu. Ấy vậy mà cái truyện này tôi cũng phải đọc nó đấy.
- Ông cũng đọc? Ông Hách giật mình hỏi lại.
- Đọc chứ. Tại cái tay phó phòng của tôi nó đọc xong rồi bảo tôi nên đọc. Hắn ta nhe nhẻn nói rằng “hình như nó viết về anh đấy”. Tò mò, tôi đọc thử thì ra nó có cạnh khoé mình thật. “Trưởng phòng Đặng”, chỉ khác có mỗi cái tên. Truyện nó viết tên Hậu mà mình thì lại tên Phi, Tiến Phi cơ mà. Nhưng đúng là nó viết về mình thật, ông ạ. Nội dung sự việc thì... cũng na ná thế. Điên tiết, tôi mới gọi tay phó phòng lên lên lớp cho nó một bài, cấm chỉ việc phát ngôn suy diễn, gán ghép tuỳ tiện.
Ông Phi tuôn một hồi dài. Hình như giờ mới gặp được bạn tâm giao để ông bộc bạch cái sự đó. Cuối cùng, ông ta kết luận:
- Chính vì thế mà chẳng có việc gì xảy ra sất. Chẳng ma nào quan tâm thọt với chả què.
Nói xong, trưởng phòng Công ty rung đùi cười mãn nguyện.
Vừa lúc đó, một vị khách nữa lại đến.
- A! Chú Hậu! Đúng hẹn ghê! Bọn anh đang chờ chú đây. Đủ bộ ba rồi đấy.
Trưởng phòng Phi reo to. Người khách tên Hậu vừa đến không thay đổi thái độ. Mặt anh ta vẫn nặng như chì. Quăng tấm thân lên chiếc ghế, anh ta thủng thẳng nói:
- Vui vẻ chó gì nữa mà hẹn với hò! Đang bực mình đây.
- Sao? Có chuyện gì thế chú em?
Ông Hách ân cần rót nước mời khách và hỏi.
- Bọn nó bêu xấu em trên báo chí kia kìa các bác ạ.
- Báo nào? Ông Hách vồ vập.
- “Cội nguồn” chứ báo nào nữa!
- Phải thằng này không?
Phi cầm tờ báo chìa ra trước mặt Hậu. Hậu liếc vội rồi gật đầu:
- Chính nó! Chính cái truyện “Thọt” này này.
- Giời ơi là giời! Đúng là là... Nó viết về thằng cha trưởng phòng Công ty PHASACO đấy. Đồ ngốc ạ!
- Không phải. Nó viết về em chứ - Hậu cãi lại.
- Khổ quá! Chú đúng là đồ thỏ đế, gan chuột nhắt - ông Phi rũ ra cười sặc sụa - Nó viết về thằng Đặng Hậu, trưởng phòng bên Công ty PHASACO sao chú lại vơ vào?
Hậu ngây người gật gù. Khéo thế thật? Lát sau, anh ta chợt bừng tỉnh:
- Ơ! Dưng mà thằng ấy là Đặng Quỳnh Hậu, còn truyện lại là Đặng Hậu cơ bác ơi! Với lại, cái tay Hậu ấy đâu có thế. Uy tín lắm, tài năng lắm. Hắn đang chuẩn bị lên giữ chức Phó Giám đốc Công ty đến nơi rồi mà? Hơn nữa, em đúng là trưởng phòng Hậu y như tên trong truyện đấy thôi.
Hậu băn khoăn.
- Chú rõ là - Phi cắt ngang - Chú trưởng phòng thật đấy nhưng mà là trưởng phòng Trần Hậu chứ không phải Đặng Hậu, nhá!
- Đặng với chả Trần! Có khác chó gì nhau. Em bị ngã xe máy què chân, đi tập tễnh nó viết là Thọt lại không đúng à? Lại nữa, mọi điều trong bài ấy các bác còn lạ gì? Dưới huyện em họ đang đồn ầm lên kia kìa. Họ gọi em là “Hậu Thọt” đấy các bố ạ? Thế có đau không cơ chứ? Mẹ cha nó chứ! Phen này em phải kiện cho nó biết đời!
- Kiện ai! Chú kiện ai? Kiện cái tay nó viết cái này à? Đúng là là... vô cùng ấu trĩ. “Có tật giật mình” lo chả chết. Làm đến trưởng phòng cấp huyện rồi mà vẫn còn ngây ngô thế không biết. Với báo chí phải giữ thái độ thân thiện. Hết sức thân thiện, chú hiểu chưa?
Phi “đúng là là” một thôi một hồi dồn Hậu. Còn ông Hách thì ngây ra nghe như chính tay Phi nó nói đang với mình vậy. Sau rồi ông Hách lên tiếng:
- Đúng đấy! Chú phải mang sách bút mà học sư phụ Phi đây này.
- Sao? Học anh Phi?
- Phải!
Ông Hách dài giọng. Phi vê râu rồi thong thả nói:
- Tớ đây này. Mấy thằng đọc cái “Thọt” này này, chúng nó cũng ý nọ ý kia suy diễn ra cho tớ, tớ sạc cho một trận, khép vào kỷ luật phát ngôn, cấm chỉ việc nói xấu lãnh đạo. Thằng nào ho he cho chết liền. Tịt luôn. Nào, còn ai dị nghị ho he nữa không? Chú chỉ dại, dại lắm! Đang yên đang lành lại “lạy ông tôi ở bụi này”, lo chả chết.
Mặt Hậu ngẩn tò te. Ông Hách cũng ngồi đờ đẫn. Mãi sau, Phi kéo hai người lại gần thì thào:
- Bây giờ thế này, các ông phải đổ tất cái truyện ấy cho tay Hậu bên PHASACO kia kìa để ngăn cái chức Phó Giám đốc Công ty của nó lại. Nó mà lên đấy ngồi thì các ông đợi đến đời mục thất, nhá. Hiểu chưa?
Cả ông Hách và Hậu như bừng tỉnh. Hai người gật gù:
- Cao kiến! Cao kiến! Bọn tôi bái phục sư phụ!
- Thôi, dẹp chuyện đó đi. Đúng kế hoạch, bây giờ ta đi khách sạn Thu Ngàn giải đen. Ở đó có mấy em mới về hay lắm.
Chừng như cả ông Hách và Hậu đều cảm thấy quá mệt mỏi trong chuyện này nên khi nghe Phi nhắc đến “mấy em mới về”, “giải đen” ở khách sạn Thu Ngàn thì họ đều bừng tỉnh và cùng tặc lưỡi: Ừ thì đi.
Bộ ba cùng đứng dậy kéo nhau ra khỏi phòng. Ba con “Mẹc” đỗ lù lù nghênh ngang dưới sân đã lấy lại khí thế cho họ. Đang chuẩn bị khoá cửa thì Phẻn cầm tập giấy tờ chạy đến:
- Báo cáo anh!
- Lại gì thế?
Ông Hách dằn giọng. Phẻn nói vội:
- Dạ. Anh xem lại bản kiểm điểm của anh em chắp bút thế này được chưa ạ để em còn nộp.
- Kiểm điểm cái gì? Ông Hách hỏi lại.
- Dạ. Kiểm điểm đợt hai về học tập và làm theo...
- Thế hả? Cậu viết tốt chứ?
- Vâng. Tốt ạ. Đúng ý chỉ đạo của anh.
- Được rồi! Cứ để trên bàn của tớ đấy, tối về tớ xem lại. Bây giờ tớ phải cùng các anh về Công ty họp gấp. Cậu bảo cô Hằng dọn dẹp phòng cho tớ nhé.
Chẳng để cho Phẻn kịp ý kiến gì nữa, giám đốc Hách xách vội cái cặp quay ngoắt đít ra xe. Dưới kia, hai con “Mẹc” đã nổ máy, bóp còi inh ỏi, giục giã con xe của giám đốc Hách. Trên ban công tầng hai trơ lại chánh văn phòng Phẻn. Lát sau thì Hằng cũng đến. Hai người nhìn theo ba con xe đen trùi trũi như ba con cá trê bóng nhẫy đang lùi lũi trườn ra cổng. Phẻn lẩm bẩm một mình: “Đúng là... “Thọt” có khác”. Cô thư ký Diễm Hằng phá ra cười rũ rượi, một cái cười bao hàm nhiều ý nghĩa khiến cho Phẻn đứng trân trân nhìn cô như nhìn một vị khách lạ./.
Giữa dòng đời tôi nhặt được tứ thơ
Không viết được để hồn lang thang mãi
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đỗ Xuân Thu

MA SỐNG (Phần I)


       Tin nghĩa địa làng Hạ có ma lan rộng ra khắp làng trên xóm dưới. Đi đến đâu người ta cũng bàn tán về chuyện đó, nhất là lũ trẻ con. “Đêm qua có một con ma tóc tai rũ rượi ngồi phủ phục trước ngôi mộ của cụ Hòa”. “Cánh thằng Bang, cái Hảo chơi khuya về gặp nó sợ quá chạy vãi đái, mất cả dép”... Chính mồm thằng Bang bô lô ba la về cái tin giật gân đó. Con Hảo cũng vừa kể vừa run. Chúng thề sống thề chết rằng đó là chuyện có thật một trăm phầm trăm.

         Nghe tin này, Khoẳn ngờ vực. Hắn trộ lại hai đứa: “Tao trông coi cái bãi tha ma này mấy năm nay làm gì thấy con ma nào mà chúng mày bảo có? Chỉ được cái hoa mắt, thần hồn nát thần tính. Mẹ cha chúng mày, đừng có dọa ông”. Thằng Bang vênh mặt: “Cháu cá với chú đấy. Có cái Hảo đây, cháu nói sai cháu chết”. Rồi nó với cái Hảo mô tả lại cảnh gặp con ma đó. Khoẳn nắm tay thằng Bang: “Được rồi, đêm nay mày đi với tao xem con ma nó to bé thế nào. Không có thì mày liệu hồn”. Thằng Bang vùng vằng gỡ tay nói: “Cháu chịu thôi. Chú đi mà đi lấy”. Khoẳn vằn mắt, bặm môi, nhổ nước bọt phì phì: “Mẹ mày chứ. Ma với mãnh gì. Dọa ông à?”. Trong bụng Khoẳn hình thành một kế hoạch khám phá vụ này. Xưa nay, hắn có biết sợ là gì. Ngay cả lúc trông coi nhà xác ở bệnh viện, nằm cạnh mấy cái xác chết hắn vẫn ngủ vô tư. Thậm chí, có lần hắn còn lái xe ôm chở thuê một xác chết cho người ta từ bệnh viện vượt mấy chục cây số đường rừng giữa đêm hôm khuya khoắt hắn cũng còn chẳng sợ nữa là. Ma thật cạnh người còn chẳng ăn ai nữa là ma hoắng.

        Ngay chập tối, Khoẳn đã ra bãi tha ma. Tuy vậy, để tăng thêm khí thế, hắn nạp vào người cả một cút rượu. Mưa phùn gió bấc rét căm căm. Trăng suông trông mọi thứ đều nhờ nhờ. Đồng làng im ắng. Mấy bụi dứa dại lù lù như chứa chấp ai đó để bất ngờ có thể nhảy bổ ra mà dọa dẫm. Khoẳn mặc áo rét, chụp mũ lông, chân tay găng tất nai nịt rất cẩn thận. Thế mà vẫn rét. Một tay cầm con dao quắm, một tay cầm cái đèn pin, Khoẳn lò dò đến nấp sau một bụi dứa dại quan sát. Mả mới, mả cũ mấp mô. Những cái huyệt vừa cải táng chưa kịp lấp trông nham nhở. Bùn nước lõng bõng, thối hoắc. Cây cối hoa màu Khoẳn trồng chẳng hàng lối quy hoạch gì càng làm cho bãi tha ma thêm âm u. Những cơn gió hoang thổi vù vù. Mộ cụ Hòa ở góc khuất mãi đằng kia. Mấy nén hương người nhà ra thắp lúc chiều tối còn sót lại lập lòe trong gió. Người yếu bóng vía nhìn thấy cảnh đó đủ thấy sởn gai ốc. Riêng Khoẳn thì không. Mục tiêu chính của Khoẳn là tóm được con ma như thằng Bang nó nói.

        Căng mắt, căng tai theo dõi. Hơn chín giờ tối vẫn chẳng thấy gì. Lũ kiến, mối ở đâu bu đến chui vào người hắn đốt nhoi nhói. Bầy muỗi đói cũng thi nhau tiu vào những chỗ hở trên người. Khoẳn bắt đầu bực mình. “Mẹ cha cái thằng Bang, mày lại lừa ông à?”. Bất ngờ Khoẳn thấy nhột nhột ở đít. Hắn giật mình nhỏm dậy. Con gì đen trũi to bằng bắp tay chạy vụt đi. Con khác đuổi theo chí chóe. “Mẹ cha lũ chuột, làm ông hết cả hồn”. Khoẳn chửi tục.

    Đang loay hoay lựa lại thế ngồi, lúc ngẩng lên hắn rùng mình trước một bóng người đang đi về phía mộ cụ Hòa. Dụi mắt mấy lần để nhìn cho kỹ hắn vẫn thấy đúng như thế. Hay là người nhà cụ Hồng? Không phải. Ai lại ra mộ cụ lúc này cơ chứ? Với lại bóng đen chui ra từ bụi dứa dại cơ mà? Trống ngực Khoẳn đập thình thịch. Người hắn nổi da gà. Chân tay hắn lóng la lóng ngóng. Chẳng lẽ lại có ma thật? Hồi ở nhà xác hắn không sợ vì còn có bóng điện, có khu bệnh viện cạnh đó, dẫu sao còn có người nọ người kia. Lúc làm xe ôm chở xác vẫn có người đồng hành cùng hắn. Bây giờ một thân một mình giữa đồng không mông quạnh này kể cũng hơi run.

      Lấy hết can đảm để bình tĩnh trở lại, Khoẳn vụt đứng dậy. Tay quét đèn pin, miệng Khoẳn quát lớn: “Ai?”. Bóng đen hú một tiếng nhào lên. Khoẳn giật mình luống cuống. Chiếc đèn pin rơi tuột khỏi tay tắt ngấm. Đêm đen ngòm. Hắn hoảng sợ thực sự, hai tay rờ rẫm tìm chiếc đèn. Nó lăn mãi vào bụi rậm. Một lúc sau hắn mới sờ thấy. Bật đèn lên thì nghĩa địa vắng tanh như chẳng có chuyện gì xảy ra. Trống ngực đập mạnh hơn, hắn lia đèn ngó nghiêng một lúc rồi chuồn. Về đến nhà Khoẳn vẫn chưa hết sợ. Vắt tay lên trán hắn thắc mắc: “Chẳng lẽ thàng Bang nói đúng? Mẹ cha nó chứ”. Hôm sau, thằng Bang thì thầm hỏi hắn: “Chú gặp ma chưa?”. Hắn vằn mắt lên: “Gặp cái con mẹ mày ấy.  Ma với mãnh!”. Thằng Bang ấm ức, tự nhiên lão ấy lại cáu với mình. Nó nghĩ vậy và cun cút bỏ đi.

      Mấy đêm sau, trí tò mò cộng với máu trinh thám nổi lên, hắn lại rình phục con ma. Vẫn không thấy hiện tượng gì. Đúng đêm thứ chín, đang ngồi rình trong bụi rậm thì hắn lại thấy bóng đen xuất hiện. Rút kinh nghiệm đêm trước, lần này hắn giữ thế chủ động, khẽ khàng khom người bò theo bóng đen. Còn cách nó khoảng mươi bước, Khoẳn dừng lại quan sát. Bóng đen ngồi thụp xuống xõa tóc trước ngôi mả mới. Có tiếng rì rầm u u. Khoẳn căng tai nghe ngóng. Đúng. Bóng đen đang lảm nhảm điều gì đó. Người Khoẳn bỗng nhiên lạnh toát. Ma hay người? Nắm chặt chuôi con dao, Khoẳn đứng hẳn dậy. “Ai?”. Vừa quát, Khoẳn vừa bấm đèn pin. Bóng đen bật dậy định chạy. Khoẳn giơ cao con dao quắm: “Đứng yên, không tao chém chết bây giờ”.  “Tôi tôi, tô...ôi đây. Đừ... đừng chém!”. Bóng đen hốt hoảng lắp bắp. Khoẳn thở phào. Thì ra đó là người. “Đứng nguyên tại chỗ. Cấm nhúc nhích”. Khoẳn quát và chiếu ánh đèn pin vào mặt bóng đen. Trước mặt Khoẳn hiện rõ một người đàn bà đội mũ len, choàng khăn kín mặt.

      “Em tên là Hạnh, người làng bên...”. Sau khi dẫn “con ma” về nhà đòn, bật đèn lên, nghe giọng nói để đoán tuổi, Khoẳn nhận rõ trước mặt mình là một cô gái. Tuy vậy, mặt cô ta vẫn bịt kín, chỉ hở ra đôi mắt. Trông vào đôi mắt đó, Khoẳn cảm thấy ánh mắt cô ta rất buồn. “Đêm trước cô trốn ở đâu?”, Khoẳn dằn giọng hỏi. Cô gái run run kể lại: “Lúc anh quát, em hoảng quá cứ cắm cổ liều chạy. Không ngờ rơi tụt xuống cái hố mả cũ họ bốc lâu ngày rậm đầy gai xấu hổ. Em náu ở đó. Gai cào em đau lắm nhưng em cố chịu”. Khoẳn hậm hực: “May cho cô đèn pin tôi hỏng chứ không thì cô ăn đủ. Vì sao cô phải lên tha ma vào giữa đêm hôm như thế?”. Cô gái sụt sùi: “Em bị bệnh”. “Bệnh gì?”. Khoẳn sỗ sàng ngắt lời. “Dạ. Bệnh... bệnh phụ nữ ạ. Đi xem bói, thầy bảo em cao số và có duyên âm. Muốn chữa khỏi bệnh và cắt được duyên âm thì em phải ra bãi tha ma “tâm sự” với những người đã chết để họ hiểu và tha cho. Đặc biệt, đi được vào những đêm có người mới chết và ăn được những thứ người ta mang ra mộ cúng thì càng chóng khỏi. Thế nên, đêm trước em đã ra đây và...”. “Thế cô không sợ à?”, Khoẳn lại ngắt lời cô gái. “Có chứ. Nhưng mà có bệnh thì thầy bảo sao mà chả phải làm hả anh?”. “Bệnh gì mà khiếp thế?”, Khoẳn chủng chẳng hỏi lại. Cô gái có vẻ e dè: “Bệnh phụ nữ. Xin anh đừng hỏi nữa”. “Thôi. Được rồi. Thế cái lão thầy bói ấy bảo cô phải làm như thế bao lâu?”. “Dạ, cũng tùy anh ạ”. “Rõ vớ vẩn. Thế mà cũng tin. May cho cô hôm nay kêu sớm chứ không tôi đã băm nát  cô ra rồi”. Khoẳn nhấm nhẳn. Cô gái thu mình im lặng. Lát sau, Khoẳn nói tiếp: “Từ đêm mai, cô cứ tự do ra mà tâm sự với ma. Tôi cũng mong cho cô chóng khỏi bệnh. Có điều...”. Cô gái cướp lời: “Có điều... anh hãy coi em như là ma đi”. “Sao? Là ma?”. Khoẳn ngạc nhiên hỏi lại. Hạnh giải thích: “Vâng! Vì em muốn làm thế để lũ nghiện chúng nó sợ không dám lên đây nữa. Em vừa chữa được bệnh lại vừa làm được việc đó anh ạ”. Khoẳn ngỡ ngàng. Hay! Hay đấy! Cô gái này có điều gì đó khá bí ẩn. Hạnh sụt sùi: “Em có hai đứa em trai thì một thằng đã chết vì nghiện rồi. Thằng thứ hai đua đòi cũng đang lao vào nghiện hút. Bãi tha ma này là chỗ tụ tập của bọn chúng. Em muốn xua đuổi chúng nó ra khỏi con đường tội lỗi. Thằng em em mới mắc may ra vẫn còn kịp anh ạ”. Khoẳn bặm môi thừ người, bụng nghĩ: “Bọn nghiện chúng nó thì sợ chó gì”.

       Quả thật, tiếng là trông coi nghĩa trang nhưng Khoẳn mới chỉ chú tâm đến trồng hoa màu thu hái sản phẩm, cắm đất mả mới, chỉ chỗ cát táng và đôi khi tham gia... bốc mả thuê. Rượu suốt ngày Khoẳn đi hết đám nọ đến đám kia. Lũ nghiện lấy bãi tha ma này làm tụ điểm tiêm chích, xi lanh, kim tiêm vứt bừa bãi  Khoẳn biết cả đấy song mặc kệ. Có đêm gặp mấy thằng đang chích hút Khoẳn cũng lờ đi hoặc có nói thì cũng chỉ là nhắc lấy lệ. Thế mà bây giờ có một cô gái dám vượt qua cái sợ vừa chữa bệnh vừa giả làm ma dọa bọn chúng thì thật đáng nể phục. Khoẳn tự nhiên thấy mên mến cô gái có cái tên là Hạnh này.

Sau đêm đó, Khoẳn phao ầm lên rằng đúng là trên nghĩa địa có ma. Chính mắt hắn trông thấy con ma đó. Hắn còn làm động tác múa may, thêu dệt thêm nhiều chi tiết kinh dị khiến người nghe cũng phải lè lưỡi rùng mình. Lũ trẻ con thì sợ mất mật chẳng dám thả trâu đùa nghịch cạnh bãi tha ma nữa. Thế đâm ra lại hay, không phải lo quát tháo bọn chúng coi chừng trâu bò dẫm nát hoa màu của Khoẳn. Còn lũ nghiện cũng đã bớt tụ tập chích hút trên nghĩa địa. Ai cũng thế thôi tiếng là cứng đầu cứng cổ mà nghe nói có ma thì cũng chột chứ. Người nào nói còn bảo không tin chứ tay Khoẳn nói thì chỉ có đúng. Thằng cha này có biết sợ là gì. Thế mà nó cũng bị chột rồi đấy. Một vài kẻ bán tin bán nghi thử mai phục như Khoẳn thì gặp lại đúng cảnh Khoẳn đã gặp đêm nào vội chạy bán sống bán chết nên họ càng tin sái cổ.

         Trước kia Khoẳn rất ít lên nghĩa địa vào ban đêm. Từ ngày gặp Hạnh, hắn thường xách chai rượu cầm theo cái điếu cày cùng con chó lên nhà đòn. Hắn ngồi nhâm nhi và hút thuốc lào vặt một mình. Ngoài kia, Hạnh đang “tâm sự” với người chết. Đôi lúc hắn tự hỏi không biết cô ta bệnh gì mà chữa trị một cách quái gở thế? Trông Hạnh có đến nỗi nào. Dáng dấp nhẹ nhõm. Eo co đâu ra đấy. Lời ăn tiếng nói dịu dàng, đúng mực. Mái tóc đen dài óng mượt luôn buông xõa ngang lưng. Những lúc “tâm sự” với ma xong, Hạnh vào nhà đòn với Khoẳn. Đêm hôm khuya khoắt chỉ có hai người, Khoẳn chăm chú nhìn cô gái. Đẹp đấy chứ. Nhưng sao lúc nào cô ấy cũng bịt mặt thế nhỉ? Ôi, đôi mắt của cô ấy kìa, buồn và sâu thăm thẳm đến thế? Bao nhiêu lần Khoẳn định hỏi, định nói điều gì đó song nhìn vào đôi mắt ấy thế là lại thôi. Hai người lại cùng im lặng. Khoẳn tu rượu còn Hạnh lơ đễnh nhìn đâu đó. Đến khi Hạnh nhỏ nhẹ nói: “Thôi, em về!” thì Khoẳn mới giật mình ngơ ngác. Mãi sau hắn cũng lững thững lê bước về nhà. Con chó lũn cũn chạy theo sau. Lúc đó thường vào khoảng hai, ba giờ sáng.

      Về nhà rồi, một mình nằm vắt tay lên trán, Khoẳn ngẫm nghĩ sự đời. Bốn mươi tuổi, sau những năm dài quăng quật trên đường đời, lúc lên voi, lúc xuống chó, Khoẳn trở về quê hương với hai bàn tay trắng. Không vợ con, của nả, không bạn bè người thân, hắn thừa hưởng của bố mẹ ngôi nhà gỗ lợp lá cọ ngay cạnh bãi tha ma. Vào đời bằng nghề lái xe, hai mươi tuổi, hắn trẻ, đẹp trai và rất phóng khoáng. Lái xe cho giám đốc một công ty tầm cỡ của tỉnh, hắn tha hồ vi vu. Những tưởng cuộc đời hắn cứ thế mà đi lên, nào ngờ hắn bị vạ. Số là, vợ lão giám đốc đó lại chết mê chết mệt vì hắn. “Chị chị em em”, hắn như người thân trong gia đình giám đốc. Ai cũng thầm ghen với Khoẳn. Thế rồi, việc gì đến phải đến. Một hôm, Khoẳn đưa giám đốc đi họp xong, hắn nhận được điện của vợ ông ta. Khoẳn đánh xe tức tốc về nhà. Tưởng có chuyện gì ai ngờ mụ ta õng ẹo rồi bất ngờ ôm chầm lấy Khoẳn. Tuổi bốn mươi hồi xuân bốc lửa gặp tuổi hai mươi rực cháy khát thèm, Khoẳn không cưỡng lại được. Cuộc tình trớ trêu vụng trộm ấy đã đi đến nước cuối cùng. Sau nhiều lần như thế, lão giám đốc đã bắt quả tang và Khoẳn bị tống cổ ra khỏi công ty.

       Lại những ngày lang thang. Sau đó, số phận vẫn mỉm cười với Khoẳn. Hắn lại được tiếp tục nghề lái xe nhưng lần này là lái xe cho bà giám đốc. Bà ta cũng biết chuyện của Khoẳn ở công ty cũ song cái sức hút đàn ông từ Khoẳn đã làm cho bà ta chấm Khoẳn về làm lái xe cho mình. Đẹp trai, tháo vát, nhanh nhẹn, bẻm mép, biết làm vừa lòng sếp là những ưu điểm của Khoẳn. Thế rồi, hắn lại trở thành một tên đĩ đực của bà ta. Thấm thoắt loáng cái Khoẳn đã bước sang tuổi ba mươi. Mải mê ăn chơi trác táng hắn quên cả chuyện vợ con. Những tưởng cứ thế sống trong nhung lụa nào ngờ bà giám đốc bị bắt trong một vụ làm ăn phi pháp. Bà ta vào tù, công ty đổ bể. Khoẳn lại bơ vơ. Mãi mấy năm sau, Khoẳn mới xin được chân lái xe hợp đồng cho một bệnh viện. Nhưng thái độ bất cần, phóng túng quen thân, Khoẳn đã để lỡ nhiều ca cấp cứu. Hắn bị di xuống làm chân trông coi nhà xác. Vài năm sau nữa, chán cảnh ấy quá, hắn giải nghệ về quê. Chuyện vợ con hắn đâm ra dửng dưng. Ở một mình cho tự do, vợ con bìu ríu vướng chân cẳng mà làm gì. Hắn nghĩ vậy. Thế nên, bốn mươi tuổi Khoẳn vẫn lêu têu bù khú với rượu. Hắn trở nên bặm trợn với đời. Thương tình làng Hạ cho hắn cái chân trông coi nghĩa trang của làng. Hắn tự hào một mình một vương quốc. Vương quốc của hắn là bãi tha ma, là những người chết. Cũng oách ra phết đấy chứ.
Giữa dòng đời tôi nhặt được tứ thơ
Không viết được để hồn lang thang mãi
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đỗ Xuân Thu

MA SỐNG (Phần II)

       Từ ngày gặp Hạnh, Khoẳn trở nên thâm trầm ít nói và chí thú với công việc ở nghĩa địa hơn. Khoẳn phát quang cây tạp, làm cỏ rả sạch sẽ. Xung quanh nghĩa địa, Khoẳn đã lấy cây que rào lại. Hoa màu nhờ đó mà cũng tốt tươi lên. Bọn nghiện cũng không còn bén mảng đến đây nữa. Ngày nào cũng vậy, Khoẳn chỉ mong cho trời chóng tối, chóng khuya để được lên tha ma, được ngồi trong nhà đòn ngắm Hạnh “chữa bệnh”. Cô gái này vẫn là một điều bí ẩn đối với Khoẳn, thôi thúc Khoẳn phải khám phá. Nhiều đêm mưa rét căm căm Hạnh vẫn co ro ngồi như tượng bên một ngôi mộ. Rồi Khoẳn nghĩ ra cách hôm thì luộc trứng, hôm thì bày hoa quả lên các mộ giả làm đồ cúng của gia chủ để làm “thuốc” cho Hạnh. Khoẳn cũng không hiểu sao mình lại làm như thế nữa. Có lẽ cả Hạnh và Khoẳn đều dơ dở hâm hấp rồi chăng? Cả làng Hạ vẫn không ai hay biết về chuyện này. Một lần Khoẳn hỏi Hạnh: “Bệnh tình của cô ra sao rồi?”. Hạnh nhỏ nhẹ: “Cũng mới đơ đỡ thôi anh ạ”. “Thế còn thằng em của cô? Nó có nghiện không?”. Hạnh buồn rầu: “Nó đi cai rồi”. Khoẳn buông tiếng thở dài ngao ngán.

     “Hạnh! Sao lại thế này?”. Khoẳn cuống cuồng hai tay sờ lên khắp thân thể bất động của Hạnh. Người Hạnh lạnh toát. Con chó dụi dụi cái mõm lên người cô hít hít. Khoẳn vội bế xốc Hạnh chạy vào nhà đòn. Như mọi đêm, Hạnh chỉ “nói chuyện với người chết” độ gần tiếng đồng hồ thôi nhưng đêm nay đã quá từ rất lâu rồi mà cô vẫn chưa xong làm cho Khoẳn sốt ruột phải ra tìm. Khoẳn đặt Hạnh lên chiếc phản rồi luống cuống tìm dầu gió. Anh luồn tay qua mấy lần áo rét của Hạnh xoa dầu lên khắp người cho cô. Chiếc cúc áo bật tung hở ra khuôn ngực trắng ngần của Hạnh, Khoẳn hơi ngỡ ngàng. Cả người cô ngồn ngộn sức sống, đầy quyến rũ. Song lúc này trong anh không có ý nghĩ nào khác ngoài việc làm cho Hạnh tỉnh lại. Anh xoa dầu khắp hai bàn chân, bàn tay cho cô. Đoạn, anh lột chiếc khăn choàng mặt của cô ra thì bất ngờ, “trời ơi, người hay là ma thế này?”, suýt nữa thì Khoẳn kêu lên như thế. Một khuôn mặt dị dạng. Da mặt Hạnh nhăn nheo, xám xịt. Hai má cô trông bầu bĩnh thế mà cũng sần sùi một cách gớm ghiếc. Đến ngang tàng, ngổ ngáo, bất chấp như Khoẳn mà cũng phải sững sờ. Có phải thế này chăng mà Hạnh phải “chữa bệnh” kiểu quái gở nọ? Mất mấy giây định thần, Khoẳn lại tiếp tục xoa dầu lên hai thái dương, lên trán của Hạnh.

      Mãi một lúc lâu sau, người Hạnh ấm dần trở lại. Không thể đưa Hạnh như thế này về giữa đêm hôm khuya khoắt được, Khoẳn quyết định lấy toàn bộ số cờ, phướn đám ma quấn lên người cô. Chưa yên tâm, anh nằm bên ôm chặt lấy cô. Khoẳn muốn truyền hơi ấm cho cô gái đáng thương nọ. Gần sáng thì Hạnh tỉnh hẳn. Cô ngơ ngác nhìn Khoẳn và việc đầu tiên là Hạnh lấy tay sờ lên mặt mình. Cô hốt hoảng vùng dậy lao ra ngoài. Khoẳn đuổi theo cô. Anh ôm chặt lấy cô và quyết dìu cô trở lại nhà đòn. Không thể cho cô ấy về giữa lúc gió rét như thế này được. Hạnh rống lên khóc nức nở.

       “Tôi biết cô chữa bệnh gì rồi - Khoẳn chủ động lên tiếng - Cô có gương mặt xấu xí nhưng Hạnh ạ, tấm lòng của cô, nghị lực của cô thì tôi không chê vào đâu được. Nhờ cô mà nơi đây không còn con nghiện tụ tập. Nhờ cô mà cái bãi tha ma này của tôi đầy sức sống. Cây cối tốt tươi hơn. Khuôn viên nghĩa địa quy củ hơn. Tôi rất hiểu và thông cảm cho cô”. Khoẳn nói khá dài. Không ngờ lúc ấy anh lại nói hay đến thế. Hạnh vẫn gục đầu nức nở. “Anh biết không, chính vì khuôn mặt xấu xí này của em mà em không dám ngẩng đầu với thiên hạ. Nhiều khi em oán hận cả bố mẹ, những người đã sinh thành ra em. Đi xem bói người ta bảo phải chữa như thế như thế. Suốt mấy tháng trời nay em ra đây, may mà có anh ở bên không thì...- Hạnh dừng lại lấy tay quệt nước mắt sụt sịt- Người đời xa lánh em, ghê tởm em, em tìm đến người âm để tâm sự giãi bày, để sửa chữa phần khiếm khuyết của cơ thể. Em biết anh, nghe tiếng anh từ lâu và em rất mến mộ anh. Em ra đây cũng có cả lý do đó nữa. Bây giờ thế này rồi thì...”. Hạnh buông lửng câu nói giữa chừng thăm dò Khoẳn. Khoẳn lên tiếng: “Cô đã tin thì cứ thế mà làm. Tôi sẽ ở bên cô”.

         Sau đêm ấy, Hạnh ít ra nghĩa địa hơn trước. Khoẳn sốt ruột lắm. Nhiều đêm anh ngồi một mình ngóng chờ cô. Không hiểu sao anh lại nhớ cô đến thế. Khuôn mặt gớm ghiếc nọ chẳng làm cho anh bận tâm. Cái dáng hình thon thả dịu dàng nhẫn nhịn của Hạnh cứ in đậm mãi trong lòng anh. Rồi mùa xuân sang, đêm nghĩa địa giun dế, cóc nhái kêu inh ỏi. Chúng đang vào mùa sinh nở. Khoẳn cũng cảm thấy bồn chồn. Đêm nay, Khoẳn vẫn tu rượu suông chờ Hạnh. Cô ấy đến thật. Hạnh mặc bộ đồ trắng làm anh ngỡ ngàng.

         Trong lúc đợi Hạnh “tâm sự với người chết”, Khoẳn dốc hết cả chai rượu mang theo mơ màng. Như mọi đêm, “chữa bệnh” xong, Hạnh lại tạt qua nhà đòn. Trong ngà ngà men say, Khoẳn nhìn Hạnh trắng toát như một thiên thần. Hắn lao ra ôm chặt lấy cô. Hạnh bối rối không kịp phản ứng. Khoẳn hổn hển: “Hạnh! Anh yêu em! Chúng mình lấy nhau nhé!”. Hạnh bàng hoàng đờ đẫn. Được thể, Khoẳn vòng tay xiết chặt lấy thân hình mềm oặt của Hạnh. Cô ngã ra, Khoẳn đổ ập xuống người Hạnh. “Đừng! Đừng anh!”. Cổ họng Hạnh kêu lên những tiếng rên dài, ú ớ. Khoẳn dồn tới, dồn tới, mái tóc Hạnh tràn trên mặt anh. Cơ thể cô rung lên nhè nhẹ, xiết chặt lấy Khoẳn. Cả người Khoẳn căng lên thật cao, rướn vào độ sâu tuyệt đối. Tóc Hạnh quệt qua quệt lại trên mặt anh càng lúc càng nhanh, hơi thở càng gấp rút hơn, dữ dội hơn. Cả hai người cùng chấn động mạnh, run rẩy, thở gấp gáp, dồn dập. Khoẳn như người ngồi trên lưng ngựa, điên cuồng, liều lĩnh phi vào đêm đen rùng rùng, nhịp phi càng lúc càng nhanh, càng thúc bách, tràn lên từng đợt, từng đợt. Hạnh đưa cả thân hình ra chống đỡ. Họ ôm lấy nhau lăn lộn, nghiêng ngả, uốn cong người lại rồi run lên bần bật. Cả hai trôi đi bồng bềnh, dồn thúc. Sau đó họ cùng lịm đi. Chỉ có ánh trăng suông và tiếng kêu rỉ rả của lũ côn trùng chứng kiến được cảnh đó của họ.

      Không ngờ cái đêm kỳ diệu đó lại có tác dụng đối với cả hai người. Khoẳn thuần tính, càng chăm chỉ hơn trước. Khuôn mặt Hạnh cũng rờ rỡ ra, từ màu xám chuyển dần sang màu nâu, có chỗ đã thấy hồng hào trở lại. Riêng khoản nhăn nheo thì không còn nữa. Như có phép màu. Đúng thế. Đến Khoẳn cũng ngạc nhiên ngỡ ngàng. Anh bắt Hạnh soi gương, cái việc mà không bao giờ cô nghĩ tới. Hạnh vui lên như trẻ con. Cô đã không còn che mặt như người đạo Hồi nữa. Người nhà Hạnh, rồi dân làng bên ai cũng bảo cái lão thầy bói đó giỏi và “cái Hạnh thế mà kiên trì”. Nghe thấy thế Hạnh chỉ mủm mỉm cười một mình.

        Mấy tháng sau, gặp Khoẳn, Hạnh thì thầm: “Chúng mình sắp có con!”.  Khoẳn trố mặt ngạc nhiên rồi gần như reo lên. Anh bế Hạnh xoay mấy vòng liền trong nhà đòn. Con chó tròn xoe mắt nhìn theo vòng xoáy của Khoẳn. Nó sực lên sủa gâu gâu rồi vẫy đuôi rối rít, rít ăng ẳng. Cả hai cười hết cỡ mặc dù lúc đó đang là nửa đêm. “Chúng mình sẽ cưới nhau. Nhất định thế, Hạnh nhé!”. Khoẳn đề nghị. Hạnh nhìn sâu vào mắt anh lặng lẽ gật đầu.

        Thanh minh năm đó, hai người mua rất nhiều hương hoa. Họ đến tất cả các ngôi mộ cắm hoa và thắp hương khấn vái. Hình như tất cả những người âm đều chúc mừng họ. Hoa thơm lắm. Hương cháy đượm lắm. Nghĩa địa làng Hạ ngạt ngào hương bay, bồng bềnh khói tỏa. Bóng hai người trôi đi trong huyền ảo.
Giữa dòng đời tôi nhặt được tứ thơ
Không viết được để hồn lang thang mãi
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đỗ Xuân Thu

KHÔNG GÌ BẰNG LÀM THƠ CON BÒ

Truyện vui của Xuân Thu

Cơm tối xong, lão Choẽ vừa vê điếu thuốc lào chưa kịp cho vào nõ điếu thì bà Choẽ đã dấm dẳn: “Ông biết tin gì chưa?”. “Tin gì?”, lão Choẽ dừng vê thuốc, hỏi lại. Bà Choẽ thong thả lấy bọc trầu ra rồi cà kê: “Tin quan trọng!”. “Tin gì, bà nói tôi nghe đi? Quan trọng đến cỡ nào? Bà nghe ở đâu? Có phải động đất ở thuỷ điện Sông Tranh không?”. Lão Choẽ bò hỏi dồn. “Còn hơn cả động đất ấy cơ”. “Thì tin gì? Bà nói ngay đi! Sốt cả ruột”.
Bà Choẽ nhẩn nha: “Chiều nay, tôi qua nhà bác Văn Sĩ Chiến, bác ấy khoe có cái truyện ngắn vừa mới được in báo, nhuận bút dững một triệu cơ”. “Giời ạ! Thế thì có gì là lạ. Bác ấy là nhà văn, có truyện in báo là chuyện thường tình chứ có gì là ghê gớm mà bà cứ úp úp mở mở”. “Chả ghê gớm lại không ư. Truyện có 1000 từ, oánh luôn cả triệu bạc, vị chi mỗi từ của bác ấy giá 1000 đồng, ông biết chửa? Chữ người ta như thế chứ, chữ ông có hoạ mà...”. “Mà làm sao?”. Lão Choẽ nóng gáy. “Thì đấy. Bác ấy sắp đổi xe máy rồi đấy. Chỉ bằng nhuận bút thôi đấy nhá. Còn ông, thơ với phú, bờ lốc với chả bờ leo, chả thấy một xu một cắc nào cả. Toàn mơ mộng hão huyền. Giờ cứ phải thực dụng ông nhá. Mí lại, đã bảo cấm tiệt thơ rồi mà ông cứ “anh anh em em”, lộn cả ruột. “Anh em” mà nó ra tiền thì còn đỡ nhá, đằng này...”.
Bà Choẽ “nhá nhá” một thôi một hồi không kịp cho lão Choẽ cắt ngang. Đợi mãi cho bà nghỉ giọng lấy hơi, lão mới đấu dịu: “Nhưng người ta là cán bộ nhà nước nghỉ hưu, người ta có thời gian viết lách. Còn tôi, suốt ngày phải theo đàn bò, sáng tác thế chó nào được. Tôi mà được như ông ấy á, tôi chả có hàng tá truyện”.
“Thật thế chứ? Bà Choẽ cướp lời - Vậy thì mai ông để đàn bò cho mẹ con tôi chăm, ông ở nhà làm truyện ngắn nha. Cố mỗi ngày lấy một cái kiếm lấy một triệu cho đỡ phải mưa nắng mệt người nha. Nhà mình cũng phải chuyển dịch cơ cấu ngành nghề thôi. Mẹ con tôi chăn nuôi bò, ông chuyển sang sáng tác văn học nghệ thuật nha. Vừa lao động chân tay, vừa lao động trí óc. Nhà nông, nhà văn hai nhà ta thi nhau ông nhá”.
Lão Choẽ ớ người. Lão không ngờ mụ vợ ham tiền của lão “nha nha” có lúc mà văn học nghệ thuật lại ngon ăn đến thế cơ chứ. Muốn là được chắc? Thế nhưng, trót đâm lao rồi lão đành phải lao theo lao vậy.
Và hôm sau, lão Choẽ đóng cửa im ỉm để tập trung vào sáng tác truyện ngắn. Cứ tưởng ngon ăn, nào ngờ bắt tay vào viết mới thấy nó khó. Chỉ được đôi ba câu là lại tịt. Có lúc lão ngồi ngây như ngỗng ỉa mà chữ vẫn không ra. Bao nhiêu cốt truyện, rất nhiều ý tưởng thế mà viết chỉ được vài dòng thì nó lại biến đi đâu hết cả. Biết thế này thì đi thả bò còn hơn. Nhưng chẳng lẽ lại thua lão Chiến? Mà chết cha cái xóm Cổ Cò này, đã có Choẽ bò rồi lại còn có thêm Văn Sĩ Chiến làm gì nữa để bây giờ lão phải khổ thế này đây! Giá không có hắn thì mình có phải nhất xóm rồi không? Mấy bài thơ văn vần đủ khẳng định tên tuổi Văn Sĩ Choẽ, đưa Choẽ bò vào đội ngũ văn nghệ sỹ rồi, ấy vậy mà... Tức thật! Thế này thì tức thật! Tức quá đi thôi mất.
Hôm sau nữa, hết cả tuần, rồi cả tuần sau nữa, vưỡn đếch được chữ nào. Bà Choẽ thì hễ đi thì thôi chứ về đến nhà là lại ngó ngó nghiêng nghiêng xem lão viết lách thế nào. “Được mấy cái rồi ông?”. “Gửi cho báo chưa?”. “Cố viết cho nó dài dài ra một tí, hơn hẳn nhà Sĩ Chiến đi. Cho nhà nó trắng mắt ra ông ạ”. “Dài chữ dài tiền ông nhỉ?”. Thế có tức không cơ chứ. Lúc nào cũng tiền tiền tiền tiền. Có hôm thấy lão nhăn nhở quá, bà Choẽ dòm vào tận mặt hỏi: “Viết khó lắm hả? Có khó bằng đau đẻ không ông?”. Lão Choẽ xù lên: “Chả khó lại không ư? Khó gấp chán vạn nghìn lần đau đẻ ấy bà biết chửa? Đẻ còn có cái mà đau, đằng này đau không có cái mà đẻ”. Bà Choẽ thở dài ra chiều thông cảm.
Thế rồi bà thì thầm với thằng Chụm, con trai: “Sao bố mày viết mãi mà chả thấy báo nào về nhỉ? Tao thấy bao nhiêu là bản thảo vứt ở thùng rác là thế nào?”. Thằng Chụm ra vẻ hiểu biết nói: “Mẹ không biết đấy thôi, bố con viết tiểu thuyết đấy!”. “Tiểu thuyết là cái gì?”. “Là rất nhiều truyện ngắn cộng lại”. “Có nghĩa là nhiều chữ?”. “Vâng!”. “Có nghĩa là nhuận bút sẽ nhiều?”. “Thì vưỡn!”. “Thế thì được. Phen này nhà Chiến thì trắng mắt nha. Có mỗi cái truyện ngắn nghìn chữ được triệu bạc mà đã tinh vi. Bố mày á, chữ dài như thế thì tiền dài phải biết con nhỉ?”. “Thì vưỡn! Con biết có ông nhà văn nhận nhuận bút tiểu thuyết, kịch bản phim hàng mấy chục triệu cơ!”. “Thế hả?”. Bà Choẽ tròn xoe mắt hỏi lại. Cu Chụm gật gật đầu ra cái vẻ lắm lắm.
Mấy chục triệu vị chi là mấy con bò liền. Có mấy tháng, thì cứ cho cả nửa năm đi nữa, mà được dững mấy chục triệu thế thì công vẫn đạt quá rồi còn gì. Chăn bò bao giờ cho được vậy? Đẻ thế mới là đẻ chứ. Thôi, cứ bình tĩnh chờ đợi vậy, để cho lão ấy yên tâm sáng tác. Dưng mà...giá lão ấy làm được cái “đại thuyết” thì tuyệt cú mèo luôn.
Thế rồi, quá nửa năm, hết tám tháng, qua chín tháng mười ngày vưỡn chẳng thấy báo biếu về, chẳng thấy giấy mời lĩnh nhuận bút đâu thì bà Choẽ bắt đầu chán. Còn lão Choẽ thì cứ gầy rộc đi. Bà Choẽ nhìn lão vừa giận lại vừa thương. Chuyển dịch cơ cấu ngành nghề có nguy cơ chệch hướng.
“Có tin rồi bố mẹ ơi!”. Đang buồn như trấu cắn vậy thì cu Chụm tay cầm tờ báo ở đâu chạy về reo to. Vợ chồng lão Choẽ gần như đứng bật dậy cùng lúc. “Đâu? Tin gì? Đọc to lên nào?”. Cu Chụm cầm tờ báo run run đọc. “Hộp thư bạn đọc. Tuần qua chúng tôi đã nhận được tin bài cộng tác của các bạn: Lò Văn Muôi, Phí Văn Tổn, Văn Sĩ Choẽ... Xin cảm ơn sự cộng tác của các bạn”. “Giời ạ! Tưởng tin gì!”. Vợ chồng lão Choẽ bò tiu nghỉu như mèo cắt tai. Thế là vưỡn đếch ăn thua gì rồi ông ơi!
Đêm đó, nằm bên chồng, bà Choẽ thủ thỉ: “Thôi, mai mình lại đi thả bò ông ạ. Thả bò cho nó lành. Truyện với thơ làm chó gì cho nó mệt óc. Ông cứ lại như xưa cho mẹ con tôi nhờ. Lại làm thơ đi, nhưng thơ tình ít thôi, em anh ít thôi, thơ về bò ấy, đưa lên bờ lốc cho thế giới cùng đọc cho vui ông ạ! Người ta làm thơ con cóc thì ông làm thơ con bò. Bò to hơn cóc. Thế mới oách. Không thèm chấp lão Chiến nữa. Mình cứ bò mà phất, cần đếch gì, ông nhỉ?”.
Lão Choẽ thở dài thườn thượt. Thì còn biết làm gì hơn nữa? Và tự nhiên, một bài thơ về bò đã loé lên trong đầu. Lão khoái quá, bật người dậy, châm đèn hí hoáy chép. Bà Choẽ cũng dậy ngồi ngay sau lưng lão Choẽ. Chép thơ xong, lão đọc cho vợ nghe. Cả hai cùng cười ngất trong đêm. “Công nhận cái anh văn học nghệ thuật này ma mị, thần diệu thật, ông nhỉ?”, bà Choẽ vít cổ chồng vào bộ ngực đồ sộ của mình và sau đó thì...
Giữa dòng đời tôi nhặt được tứ thơ
Không viết được để hồn lang thang mãi
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 4 trang (35 bài viết)
[1] [2] [3] [4] ›Trang sau »Trang cuối