Trang trong tổng số 55 trang (550 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Nguyễn Trung Anh

(Tiếp theo):
Việc nước Pháp nhân danh Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa

Từ khi ký với triều đình nhà Nguyễn Hiệp ước 6-6-1884, Pháp đại diện quyền lợi của Việt Nam trong quan hệ đối ngoại và việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Trong khuôn khổ sự cam kết chung đó, Pháp tiếp tục thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sau đây là một vài bằng chứng:

Các pháo hạm của Pháp thường xuyên tiến hành tuần tiễu trong vùng Biển Đông kể cả Hoàng Sa và Trường Sa.

Năm 1899 toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đề nghị với Pari xây tại đảo Hoàng Sa (Pattle) trong quần đảo Hoàng Sa một cây đèn biển để hướng dẫn các tàu biển qua lại vùng này, nhưng kế hoạch không thực hiện được vì thiếu ngân sách.

Từ năm 1920, các tàu hải quan Đông Dương tăng cường tuần tiễu ở vùng Hoàng Sa để ngăn chặn buôn lậu.

Năm 1925, viện Hải dương học Nha Trang cử tàu De Lanessan ra khảo sát ở quần đảo Hoàng Sa về hải dương học. Ngoài A. Krempf, Giám đốc Viện hải dương học, còn có các nhà khoa học khác như Delacour, Jabouille... nghiên cứu về địa chất, về sinh vật v.v...

Cũng trong năm 1925, ngày 3-3, Thượng thư Bộ Binh của Triều đình Huế Thân Trọng Huề lại khẳng định Hoàng Sa là lãnh thổ Việt Nam.

Năm 1927 tàu De Lanessan ra khảo sát khoa học quần đảo Trường Sa.

Năm 1929 phái đoàn Perrier - De Rouville đề nghị đặt 4 cây đèn biển ở 4 góc của quần đảo Hoàng Sa (đảo Tri Tôn, đảo Đá Bắc, đảo Linh Côn, bãi Bom Bay).

Năm 1930 tàu thông báo La Malicieuse tới quần đảo Hoàng Sa.

Tháng 3-1931 tàu Inconstant ra quần đảo Hoàng Sa.

Tháng 6-1931, tàu De Lanessan ra quần đảo Hoàng Sa.

Tháng 5-1932, pháo hạm Alerte ra quần đảo Hoàng Sa.

Từ 13-4-1930, đến 12-4-1933, Chính phủ Pháp đã cử các đơn vị hải quân lần lượt ra đóng các đảo chính trong quần đảo Trường Sa: Trường Sa (Spratley), An Bang (Caye d'Amboine), Itu Aba, nhóm Song Tử (groupe des deux iles)[20], Loại Ta và Thị Tứ.

Ngày 21-12-1933, thống đốc Nam Kỳ M. J. Krautheimer ký Nghị định sáp nhập các đảo Trường Sa, An Bang, Itu Aba, nhóm Song Tử, Loại Ta và Thị Tứ vào địa phận tỉnh Bà Rịa[21].

Năm 1937, nhà đương cục Pháp cử kỹ sư công chính Gauthier ra quần đảo Hoàng Sa nghiên cứu chỗ xây dựng đèn biển, lập bãi thuỷ phi cơ.

Tháng 2-1937 tuần dương hạm Lamotte Piquet do Phó đô đốc Istava chỉ huy thăm quần đảo Hoàng Sa.

 

Ngày 29-3-1938, vua Bảo Đại ký Dụ tách quần đảo Hoàng Sa khỏi địa hạt tỉnh Nam Nghĩa đặt vào tỉnh Thừa Thiên[22].

 

"Chiếu chỉ các Cù lao Hoàng Sa (Archipel des iles Paracels) thuộc về chủ quyền nước Nam đã lâu đời và dưới các tiền triều, các Cù lao ấy thuộc về địa hạt tỉnh Nam Nghĩa: đến đời Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế vẫn để y như cũ là vì nguyên trước sự giao thông với các Cù lao ấy đều do các cửa bể tỉnh Nam Nghĩa.

Chiếu chỉ nhờ sự tiến bộ trong việc hàng hải nên việc giao thông ngày nay có thay đổi, vả lại viên Đại diện Chánh phủ Nam triều uỷ phái ra kinh lý các cù lao ấy cùng quan Đại diện Chánh phủ bảo hộ có tâu rằng nên tháp các cù lao Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên thời được thuận tiện hơn.

Dụ:

Độc khoản: - Trước chuẩn tháp nhập các cù lao Hoàng Sa (Archipel des iles Paracels) vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên: về phương diện hành chánh, các cù lao ấy thuộc dưới quyền quan Tỉnh hiến tỉnh ấy".

Ngày 15-6-1938 toàn quyền Đông Dương Jules Brévié ký Nghị định thành lập một đơn vị hành chính tại quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.[23]

Năm 1938, Pháp dựng bia chủ quyền, xây dựng xong đèn biển, trạm khí tượng, đài vô tuyến điện ở đảo Hoàng Sa (Ile Pattle), trong quần đảo Hoàng Sa, xây dựng trạm khí tượng, đài vô tuyến điện ở đảo Itu Aba trong quần đảo Trường Sa.

Hàng chữ trên bia: "Cộng hoà Pháp, Vương quốc An-nam, quần đảo Hoàng Sa, 1816 - đảo Pattle - 1938" (1816 là năm vua Gia Long thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo Hoàng Sa, 1938 là năm dựng bia).

 

Ngày 5-5-1939 toàn quyền Đông Dương Jules Brévié ký Nghị định sửa đổi nghị định ngày 15-6-1938 nói trên và thành lập tại quần đảo Hoàng Sa hai cơ quan đại lý "Croissant và các đảo phụ thuộc", "Amphitrite và các đảo phụ thuộc"[24].

 

Suốt trong thời gian đại diện Việt Nam về mặt đối ngoại, Pháp luôn luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và phản kháng những hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo đó như:

Ngày 4-12-1931 và ngày 24-4-1932, Pháp phản kháng Chính phủ Trung Quốc về việc chính quyền Quảng Đông lúc đó có ý định cho đấu thầu khai thác phân chim trên quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 24-7-1933, Pháp thông báo cho Nhật việc Pháp đưa quân ra đóng các đảo chính trong quần đảo Trường Sa;

Ngày 4-4-1939, Pháp phản kháng Nhật đặt một số đảo trong quần đảo Trường Sa thuộc quyền tài phán của Nhật.

Việc bảo vệ và thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay

Khi trở lại Đông Dương sau chiến tranh thế giới thứ hai, đầu năm 1947 Pháp đã yêu cầu quân Trung hoa Dân Quốc rút khỏi các đảo của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ đã chiếm đóng trái phép cuối năm 1946 và Pháp đã cho quân đến thay thế quân đội Trung Quốc, xây dựng lại trạm khí tượng và đài vô tuyến điện.

 

Ngày 7-9-1951, trưởng đoàn đại biểu của Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu tuyên bố tại Hội nghị San Francisco về việc ký hoà ước với Nhật Bản rằng từ lâu quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam: "... và cũng vì cần phải dứt khoát lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi khẳng định chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi đối với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa".

Tuyên bố đó không gặp sự chống đối hoặc bảo lưu nào của đại diện 51 quốc gia tham dự Hội nghị.

Năm 1953, tàu Ingénieur en chef Girod của Pháp khảo sát ở quần đảo Hoàng Sa về hải dương, địa chất, địa lý, môi sinh.

Chính phủ Sài Gòn, sau đó là cả Chính phủ Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, cũng đều thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Dưới đây là một vài bằng chứng:

Năm 1956, lực lượng hải quân của Chính quyền Sài Gòn tiếp quản các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi Pháp rút quân về nước.

Năm 1956, Sở Hầm mỏ, kỹ nghệ và tiểu công nghiệp miền Nam tổ chức một cuộc khảo sát với sự giúp đỡ của hải quân của Chính quyền Sài Gòn trên 4 đảo: Hoàng Sa (Pattle), Quang Ảnh (Money), Hữu Nhật (Robert), Duy Mộng (Drumond).

Ngày 22-10-1956, Chính quyền Sài Gòn đặt quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy.

Ngày 13-7-1961, Chính quyền Sài Gòn đặt quần đảo Hoàng Sa, trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên, vào tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy tên là xã Định Hải, trực thuộc quận Hoà Vang và đặt dưới quyền một phái viên hành chính.

Từ 1961 đến 1963, chính quyền Sài Gòn lần lượt cho xây bia chủ quyền ở các đảo chính của quần đảo Trường Sa như: Trường Sa, An Bang, Song Tử Tây, v v...

Ngày 21-10-1969, Chính quyền Sài Gòn sáp nhập xã Định Hải vào xã Hoà Long cũng thuộc quận Hoà Vang, tỉnh Quảng Nam.

Tháng 7-1973, Viện Khảo cứu nông nghiệp thuộc Bộ Phát triển nông nghiệp và điền địa Sài Gòn tiến hành khảo sát đảo Nam Ai (Nam Yết) thuộc quần đảo Trường Sa.

Tháng 8-1973, với sự hợp tác của Công ty Nhật Maruben Corporation, Bộ Kế hoạch và phát triển quốc gia Sài Gòn tiến hành khảo sát phốt phát ở quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 6-9-1973, Chính quyền Sài Gòn sáp nhập các đảo Trường Sa, An Bang, Itu Aba, Song Tử Đông, Song Tử Tây, Loại Ta, Thị Tứ, Nam Ai, Sinh Tồn và các đảo phụ cận vào xã Phước Hải, Quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.

Có ý thức về chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, các chính quyền miền Nam Việt Nam đều bảo vệ chủ quyền đó mỗi khi có nước ngoài biểu thị ý đồ tranh giành hay xâm chiếm đảo nào đó trong hai quần đảo.

Ngày 16-6-1956, Bộ Ngoại giao chính quyền Sài Gòn tuyên bố một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa. Đồng thời cũng trong năm này, Chính quyền Sài Gòn đã kịch liệt phản đối việc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa chiếm nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Ngày 22-2-1959, Chính quyền Sài Gòn bắt giữ trong một thời gian 82 "ngư dân" Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng và Quang Hoa trong quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 20-4-1971, Chính quyền Sài Gòn khẳng định một lần nữa quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.

Ngày 13-7-1971 Ngoại trưởng chính quyền Sài Gòn khẳng định một lần nữa chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo đó trong cuộc họp báo ngày 10-7-1971.

Ngày 19/1/1974, lực lượng quân sự của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa chiếm đóng nhóm Tây Nam của quần đảo Hoàng Sa và cũng trong ngày này chính quyền Sài Gòn tuyên bố lên án Cộng hoà nhân dân Trung Hoa xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngày 26-1-1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ; ngày 14-2-1974 tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam.

Ngày 5 và 6-5-1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam thông báo việc giải phóng các đảo ở quần đảo Trường Sa do Chính quyền Sài Gòn đóng giữ. Ngày 28-6-1974, tuyên bố tại khoá họp thứ nhất Hội nghị Luật Biển lần thứ 3 ở Caracas rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là của Việt Nam.

Tháng 9-1975, Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tại Hội nghị khí tượng ở Colombo tuyên bố quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam và yêu cầu Tổ chức khí tượng thế giới tiếp tục ghi tên trạm khí tượng Hoàng Sa của Việt Nam trong danh mục trạm khí tượng của Tổ chức khí tượng thế giới (trước đây đã được đăng ký trong hệ thống các trạm của OMM dưới biểu số 48.860).

Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng về biển và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như: Tuyên bố của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam năm 1977; Tuyên bố của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam năm 1982; Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992; Nghị quyết của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 5 năm 1994 về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; Luật Biên giới quốc gia năm 2003.

Về quản lý hành chính, năm 1982, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, hiện nay, huyện Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hoà.

Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ Nghĩa Việt Nam đã nhiều lần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoặc trong các công hàm gửi các bên có liên quan, hoặc trong các tuyên bố của Bộ Ngoại giao, hoặc trong các Hội nghị của Tổ chức Khí tượng thế giới ở Genève, (tháng 6-1980), của Đại hội Địa chất thế giới ở Paris (tháng 7 năm 1980) v.v...

Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần công bố "Sách trắng" (năm 1979, 1981, 1988) về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam, Việt Nam có đầy đủ chủ quyền đối với hai quần đảo này, phù hợp với các quy định của luật pháp và thực tiễn quốc tế.

Ngày 14-3-1988, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam ra Tuyên bố lên án Trung Quốc gây xung đột vũ trang và chiếm đoạt một số bãi đá ngầm tại Trường Sa.

Tháng 4-2007, Chính phủ Việt Nam quyết định thành lập thị trấn Trường Sa, xã Song Tử Tây và xã Sinh Tồn thuộc huyện Trường Sa
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Trung Anh

( Tiếp theo):
Kết luận

Từ những tư liệu lịch sử rõ ràng, và căn cứ vào những nguyên tắc của luật pháp và tập quán quốc tế, có thể rút ra kết luận sau đây:

1. Từ lâu, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa khi mà các quần đảo đó chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào.

2. Từ thế kỷ XVII đến nay, suốt trong mấy thế kỷ, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện một cách thật sự, liên tục và hoà bình chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

3. Nhà nước Việt Nam luôn luôn bảo vệ tích cực các quyền và danh nghĩa của mình trước mọi mưu đồ và hành động xâm phạm tới chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

------------------------------------------

PHỤ LỤC

Một số tư liệu - điều ước quốc tế liên quan đến chủ quyềnhai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam

1. Tuyên bố Cai-rô ngày 27-11-1943, khi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn khốc liệt nhất, hội nghị tam cường Anh - Mỹ - Trung (Cộng hòa Trung Hoa, đại diện lúc đó là Tưởng Giới Thạch) đã họp và ra một bản Tuyên bố tại Cai-rô (thủ đô Ai-Cập). Tuyên bố có đoạn viết: " ...Nhật Bản phải bị loại ra khỏi tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật đã cướp hoặc chiếm đóng từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914 và tất cả những lãnh thổ Nhật đã chiếm của Trung Quốc như Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ sẽ được trả lại cho Cộng hòa Trung Hoa"[25]. Như vậy là về phần lãnh thổ của Trung Quốc, Tuyên bố Cai-rô khẳng định ý chí của các cường quốc buộc Nhật Bản phải trao trả lại cho Cộng hòa Trung Hoa các lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm của Trung Quốc gồm "Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ", không có gì liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

2. Hội nghị Postdam ngày 26-7-1945, những người đứng đầu 3 nước Mỹ, Anh, Trung (Cộng hòa Trung Hoa) đã lại ra Tuyên ngôn khẳng định "Các điều khoản của Tuyên bố Cai-rô sẽ được thi hành". Sau khi tuyên chiến với Nhật Bản ở Viễn Đông, Liên Xô cũng tham gia Tuyên ngôn này.

Theo quyết định của Hội nghị Postdam là Trung Quốc chịu trách nhiệm giải giáp quân đội Nhật ở khu vực Bắc vĩ tuyến 16. Từ cuối năm 1946, quân đội của Tưởng Giới Thạch đến một số đảo của quần đảo Hoàng Sa và các tỉnh phía bắc Việt Nam để thực hiện việc giải giáp quân đội Nhật Bản ở đây, hoạt động này hoàn toàn không có ý nghĩa xác định hoặc thu hồi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

3. Hội nghị San Francisco từ ngày 4 đến 8-9-1951, có đại diện 51 nước tham dự để bàn về việc ký Hòa ước với Nhật Bản. Điều 2, Chương II của Dự thảo Hòa ước được đưa ra để Hội nghị thảo luận có ghi Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và các đòi hỏi của mình đối với các lãnh thổ được nêu rõ trong các khoản của điều này:

a) Triều Tiên;

b) Đài Loan, Bành Hồ;

c) Kurile, phần phía Nam đảo Sakhalin;

d) Các đảo ở Thái Bình Dương;

e) Châu Nam Cực;

f) Các đảo thuộc các quần đảo Spratly (Trường Sa) và Paracel (Hoàng Sa).

- Tại phiên họp toàn thể ngày 5-9-1951, Hội nghị đã tán thành quyết định của chủ tịch không chấp thuận đề nghị bổ sung đòi "Nhật Bản công nhận chủ quyền hoàn toàn của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối với Manchuria (Mãn Châu), đảo Đài Loan (Formosa) với tất cả các đảo kế cận nó, quần đảo Penlinletao (Pescadores tức Bành Hồ), quần đảo Tunshatsuntao (quần đảo Pratas), cũng như đối với 2 quần đảo Sishatuntao và Chunshatsuntao (quần đảo Hoàng Sa, nhóm đảo Amphitrites, bãi cát ngầm Maxfield) và quần đảo Nanshatsuntao, kể cả quần đảo Trường Sa, và Nhật từ bỏ tất cả các quyền, danh  nghĩa và đòi hỏi đối với các vùng lãnh thổ nêu trong điểm này".

Quyết định này của Hội nghị đã được thông qua với 46 phiếu thuận, 3 phiếu chống, 1 phiếu trắng. Trong các nước bỏ phiếu thuận có: Ác-hen-ti-na, Ô-xtrây-li-a, Bỉ, Bô-li-vi-a, Bra-xin, Cam-pu-chia, Ca-na-đa, Xri-Lan-ca, Chi-lê, Cô-lôm-bi-a, Cô-xta Ri-ca, Cu-Ba, Đô-mi-ni-ca, Ê-cu-a-đo, Ai-cập, En Xan-va-do, E-ti-ô-pi, Pháp, Hy Lạp, Goa-tê-ma-la, Ha-i-ti, Hôn-đu-rát, In-đô-nê-xi-a, I-ran, I-rắc, Lào, Li-Băng, Li-bê-ri-a, Lúc-xăm-bua, Mê-hi-cô, Hà Lan, Tân Tây Lan, Ni-ca-ra-goa, Na-uy, Pa-ki-xtan, Pa-na-ma, Pa-ra-goay, Pe-ru, Phi-lip-pin, A-rập Xê-út, Xi-ri, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Bắc Ai-Len, Mỹ, Việt Nam, Nhật Bản.

Cuối cùng, Điều 2 Chương II của Hòa ước vẫn được giữ nguyên như Dự thảo và gồm 6 khoản sau đây:

"a) Nhật Bản, trong khi công nhận nền độc lập của Triều Tiên, từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với Triều Tiên, kể cả các quần đảo Quelpart Port Hamilton và Dagelet.

b) Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với vùng Formosa (Đài Loan) và Pescadores (Bành Hồ).

c) Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với quần đảo Kurile, đảo Sakhalin và quần đảo nằm sát nước Nhật Bản mà ở đó Nhật Bản đã giành được chủ quyền theo Hiệp ước Portsmouth ngày 5-9-1905.

d) Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đòi hỏi liên quan tới chế độ uỷ trị của Hội quốc liên, và chấp nhận quyết định quyết định ngày 2-4-1947 của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc gia hạn chế độ uỷ trị đối với các đảo Thái Bình Dương trước đây dưới quyền uỷ trị của Nhật Bản.

e) Nhật Bản từ bỏ tất cả các đòi hỏi muốn có bất kỳ quyền, hoặc danh nghĩa, hoặc lợi ích nào liên quan tới bất cứ phần nào của vùng Nam Cực, dù đó là các hoạt động của các công dân Nhật Bản hoặc các hình thức khác.

f) Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đòi hỏi  đối với quần đảo Trường Sa (Spratly) và Hoàng Sa (Paracel)".[26]

- Như vậy, các vùng lãnh thổ mà Tuyên bố Cai-rô xác nhận và Hòa ước SanFrancisco khẳng định lại là của Trung Quốc chỉ bao gồm Đài Loan, Bành Hồ. Việc Hòa ước SanFrancisco tách riêng Đài Loan, Bành Hồ và Hoàng Sa, Trường Sa thành hai khoản riêng biệt (b, f) tự nó đã bao hàm ý nghĩa không công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Trung Quốc.

Cũng tại Hội nghị San Francisco, ngày 7-9-1951, Trưởng đoàn đại biểu chính quyền Bảo Đại là Trần Văn Hữu đã tuyên bố rằng từ lâu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam và "cũng vì cần phải dứt khoát lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi đối với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, những quần đảo luôn luôn thuộc về Việt Nam".[27]

Không có bất cứ một đại diện nào của 51 quốc gia tham dự Hội nghị có ý kiến phản đối hoặc bảo lưu đối với tuyên bố trên của đại diện Việt Nam tại Hội nghị.

Những tư liệu và chứng cứ kể trên cho thấy một cách rõ ràng là những văn kiện pháp lý quốc tế, từ Tuyên bố Cai-rô ngày 27-11-1943 (và Tuyên ngôn của Hội nghị Postdam ngày 26-7-1945 khẳng định lại nội dung Tuyên bố Cai-rô) đến Hòa ước San Francisco ký ngày 8-9-1951 đã không xác nhận chủ quyền của bất cứ quốc gia nào khác đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Đồng thời, việc không một quốc gia nào tại Hội nghị SanFrancisco năm 1951, phản đối hoặc bảo lưu về tuyên bố của Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam lúc đó về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo chứng tỏ cộng đồng quốc tế đã mặc nhiên công nhận chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa./.

------------

Chú thích:

[1] Tức chúa Nguyễn, cát cứ xứ Đàng trong từ năm 1558 đến năm 1775.

[2] Trong tập Hồng Đức bản đồ.

3] Đính trong cuốn "Từ điển La tinh - Việt Nam" (Dictionarium Latino-Anamiticum), 1838. Xem phụ lục III.

[4] "Ghi chép về địa lý nước Cochinchina" ("Note on Geography of Cochinchina") của giám mục Jean-Louis Taberd đăng trong "Tạp chí của Hội châu Á Băng-Gan" (The Journal of the Asiatic Society of Bengal) tập VI, 1837, tr.745.

[5] Chỉ loại pháo cỡ nhỏ.

[6] Dặm: Đơn vị đo lường thời xưa của Việt Nam tương đương 1/2km.

[7] Đối với người Việt Nam cũng như người Trung Quốc, chữ Hán "Sơn" có nghĩa là núi, nhưng cũng được dùng để chỉ các hải đảo. Thí dụ: Phần lớn các đảo ở ngoài cửa vịnh Hàng Châu (Nam Thượng Hải) đều được người Trung Quốc gọi là sơn: Bạch Sơn, Đại Ngư Sơn, Đại Dương Sơn, Tiểu Dương Sơn, Trường Bạch Sơn, Trúc Sơn, Tù Sơn v.v... Người Trung Quốc cũng dùng sơn để chỉ một số đảo của Việt Nam như Cửu Đầu Sơn (đảo Cô Tô), Bất Lao Sơn (Cù Lao Chàm), Ngoại La Sơn (cù Lao Ré) v.v...

[8] Ở phía Nam cửa biển Sa Kỳ, phường An Vĩnh ở Cù Lao Ré cũng thuộc xã này.

[9] Phần viết về các tỉnh Trung Bộ được soạn lại và khắc in năm 1909.



[10] Vạn lý Ba Bình: muôn dặm sóng yên.

[11] Kỷ thứ 2, quyển 122.

12 Bãi Cát Vàng từ lâu là một khu vực có nhiều đá ngầm nguy hiểm ở Biển Đông.

[13] Cửa Sa Vinh nay là cửa Sa Huỳnh, thuộc tỉnh Nghĩa Bình.

14] Cửa Đại Chiêm nay là cửa Đại, thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.

[15] Bài "Địa lý của vương quốc Cochinchina" (Geography of the Cochinchinese Emprire) đăng trong "Tạp chí Hội địa lý Hoàng gia Luân Đôn" (The Jounal of the Royal Geography Society of London) tập XIX, 1849, trang 93.

[16] A. Salles trích dẫn trong bài "Hồi ký về nước Cochinchine của J.B. Chaigneau" (Le mémoire sur la Cochinchine de J.B. Chaigneau) đăng trong "Tạp chí của những người bạn thành Huế cổ" ("Bulletin des amis du vieux Huế") số 2 năm 1923 trang 257.

[17] Tức Đàng Ngoài (le Tonkin).

[18] Danh từ Cochinchine (tiếng Pháp) hoặc Cochinchina (tiếng Anh) trong tài liệu phương Tây trích dẫn ở đây có 2 nghĩa tuỳ theo văn cảnh: a) nước Việt Nam thời bấy giờ, sách này dịch là nước Cochinchine; b) Xứ Đàng Trong thời bấy giờ, sách này dịch là xứ Cochinchine.



[19] J.Y.C trích dẫn trong bài "Bí mật các đảo san hô - Nhật ký về cuộc hành trình đến Hoàng Sa". (Mystere des atolls - Journal de voyage aux Paracels) đăng trong tuần báo "Đông Dương" (Indochine) trong các số ngày 3, 10, 17 tháng 7 năm 1941. - Danh từ vương quốc An Nam trong tài liệu chỉ nước Việt Nam thời bấy giờ.

[20] Nay thuộc tỉnh Đồng Nai. Xem Phụ lục V.

[21] Tức đảo Song Tử Tây và đảo Song Tử Đông.

[22] Nay thuộc tỉnh Bình Trị Thiên.

[23] Xem phụ lục VI.

[24] Xem phụ lục VII.

25] Sách trên. Trang 263.

[26] Hội nghị ký kết Hòa ước với Nhật Bản trang 314. Văn kiện của Bộ Ngoại giao Mỹ, tháng 12-1951.

[27] Hội nghị Cai-rô và Teheran 1943 trang 448. Văn kiện Bộ Ngoại giao Mỹ , 1961-Washington.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

@Lá@

Phát biểu của GS Tương Lai tại Hội nghị Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam http://www.viet-studies.i...ngLai_PhatBieuMTTTQVN.htm


Đằng này Mặt trận tuyệt đối im lặng. Thật là lạ. Một chuyện xảy ra tận Cuba bên kia bán cầu, Mặt trận đã có ngay lời tuyên bố đanh thép. Thế mà, Hoàng Sa, Trường Sa máu thịt của Tổ quốc bị người ta mưu toan lấn chiếm, biến thành quận huyện của của họ, thì Mặt trận lại im thin thít. Vì sao? Mặt trận Tổ quốc có còn kế thừa truyền thống của Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng nữa không?

Trong một bài báo viết nhân dịp này, tôi dẫn ra chỉ dụ của vua Lê Thánh Tông nhắn nhủ "bọn thái bảo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy": "Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại có thể vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, thì phải tội tru di", chép rõ ràng trong Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ thực lục, Kỷ Nhà Lê, bị tòa soạn cắt mất. Thậm chí cắt cả câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tôi dẫn ra ở trên. Tôi hỏi, Tòa soạn trả lời là có sự chỉ đạo buộc họ phải làm như vậy mặc dầu họ không muốn.

Ai mà chỉ đạo lạ vậy. Họ có còn là con cháu của Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung. Hồ Chí Minh nữa không? Sao lại ngăn chặn tinh thần yêu nước của nhân dân, của thanh niên, sinh viên? Liệu Mặt trận có tham gia vào sự chỉ đạo này không?
Trời mưa gió rét kìn kìn
Đắp đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thái Thanh Tâm

ĐAU!!!

Hoàng Sa- 74 Khựa chiếm
Bạn vàng nam Việt mần thinh
88- sáu đảo ngầm Trường Sa Tầu cướp
Bạn Nga Xô cũng kệ.Mặc mình

Mấy đảo Trường Sa nay mai mất nốt
Tài hèn sức mọn giữ làm sao
Đồng cảnh lân bang muốn kết liên cũng hốt
Còn chi để nói nữa nào ?

Mảnh đất cha ông dầy công tìm giữ
Nay ngoại bang sắp nuốt hết rồi
Đất phương Bắc nhiều nơi bị lấn
Chỗ cho thuê, chỉ để đủ ghế ngồi

Giặc người, nghìn đời vẫn gặm từng li đất
Giặc giời, lăm le ngoạm vựa lúa Cửu Long
Con cháu giỏi giang chẳng lo đất chật
Chúng chồng nhà, lên ở tít tầng không

Tầng không, nếu Tây- Tầu dã tâm chiếm nốt
Con cháu mình chắc xuống ở âm ty
Chúng lại tạo Thiên đường thật hot
Hơn ông cha từng làm địa đạo Củ Chi!!!


Ha Nôi 9/3/2011
Trên đời này, chuyện gì cũng có thể xẩy ra-Thái Thanh Tâm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thái Thanh Tâm

Hôm qua người của Quận đến nói về biển đảo. Hoàng Sa và Trường Sa được nhà Nguyễn quản lý từ năm 1816. Hoàng Sa và Trường Sa được thế giới từ lâu thừa nhận thuộc chủ quyền của Việt Nam. HS và TS nằm trên biển đông, có vị trí chiến lược rất quan trọng.Biển đông có nguồn hải sản lớn. Đặc biệt dưới đáy biển có những mỏ dầu và khí đốt với trữ lượng cực lớn. Trung quốc tự vẽ bản đồ hình lưỡi bò và mưu toan độc chiếm biển Đông.Năm 1956 Tầu chiếm một nửa Hoàng Sa. Năm 1974 Tầu chiếm nốt Hoàng Sa. Năm 1988 Tầu dùng súng lớn tiêu diệt sạch quân ta để chiếm 6 đảo đá ngầm ở Trường Sa. Hiện lực lượng Hải quân của Tầu rất mạnh so với ta. Xét riêng về quân sự, Tầu có thể chiếm nốt Trường Sa của ta bất cứ lúc nào. Vấn đề là Tầu phải tính đến các nước lớn khác có lợi ích ở đây nên phải chờ thời cơ. Thật buồn là một ngày nào đó, Trường Sa của chúng ta mất mà không làm gì được. Thật buồn là chỉ một khoảng thời gian ngắn 50-60 năm, chủ quyền, lãnh thổ của ta (cả đất liền và biển đảo) bị Tầu ăn cướp nhiều đến thế! Từ sau Bắc thuộc đến nay có đời nào như thế này không nhỉ ?
Trên đời này, chuyện gì cũng có thể xẩy ra-Thái Thanh Tâm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Rào-Nam

http://cB3.upanh.com/20.11.26897742.R3a0/vnnet.jpg



Xem người ta đang đuổi Trung Quốc ầm ầm kia kìa.

Vô tình thu vắng lung linh nắng vàng
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Dưới mái Âm Linh tự



TT - Những ngày điền dã tìm lại nguồn cội Lý Sơn, TS Nguyễn Đăng Vũ đã lặng người trước các lễ cúng bi tráng của người dân đảo. Nó vừa da diết tình cảm với phận người treo mình trên đầu sóng ngọn gió, vừa bừng lên hào khí can trường của tổ tiên trước biển cả bao la. Đặc biệt là lễ khao lề thế lính Hoàng Sa đã ám ảnh TS Vũ suốt nhiều năm...

http://phienbancu.tuoitre.vn/tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=490176
Thắp nén hương nơi bàn thờ tiền nhân đã hi sinh vì chủ quyền Tổ quốc ở Hoàng Sa - Ảnh tư liệu



Đền thờ liệt sĩ trên biển
Gần 20 năm kể từ lần đầu được tham dự lễ khao lề thế lính ở Lý Sơn, TS Vũ vẫn nhớ mãi cảm giác bần thần xúc động dưới mái Âm Linh tự, ngôi đền thờ liệt sĩ Hoàng Sa. Ông phải bặm môi để kìm những giọt nước mắt trước khói hương và lời tế chiêu hồn thống thiết tổ tiên đã hi sinh ngoài biển xa của Tổ quốc.

Những hình ảnh đó tác động TS Vũ đến mức ông đã dành rất nhiều tâm huyết và thời gian để tìm hiểu riêng lễ cúng đặc biệt này. Chính ông đã góp phần quan trọng để phát triển lễ khao lề thế lính Hoàng Sa thành quy mô lớn của tỉnh Quảng Ngãi và được nhân dân cả nước xúc động hướng về.

TS Vũ tâm sự chưa thể biết chính xác lễ này chính thức bắt đầu từ thời điểm nào trong lịch sử, nhưng nó phát xuất từ việc thành lập những hải đội Hoàng Sa của triều đình nước Việt để thu lượm sản vật, đo đạc thủy trình. Thuở đó, những thủy binh Hoàng Sa còn phải đi trên những chiếc thuyền buồm nhỏ và dùng sức chèo.

Mỗi thuyền chỉ chở được vài người để dễ luồn lách trong các bãi rạn của quần đảo Hoàng Sa. Sự mong manh sinh tử, sẵn sàng hiến dâng sinh mạng cho Tổ quốc đó còn được thể hiện bi tráng bằng chính hành trang mang theo của mỗi thủy quân đều có chiếc chiếu, nẹp tre và dây mây. Nếu họ chết, đồng đội sẽ dùng chính những thứ này để bó thi thể người xấu số thả xuống biển, hi vọng sẽ trôi dạt được về quê hương!

Các cụ cao niên ở Lý Sơn bùi ngùi tâm sự với TS Vũ: “Chính vì sứ mệnh đi Hoàng Sa rất nguy hiểm nên lễ khao lề thế lính được thực hiện để tạm yên lòng tráng binh ngày ra đi và bớt phần nào lo lắng cho người tiễn đưa!”. Tuy nhiên, nghiên cứu của TS Vũ còn phát hiện thêm ý nghĩa quan trọng của lễ tế này còn là để thờ cúng hương hồn liệt sĩ đã hi sinh trên biển.

Và Âm Linh tự với hàng chữ “Chiến sĩ trận vong” trước cổng chính là ngôi đền liệt sĩ thủy quân đặc biệt của Tổ quốc. TS Vũ kể không ai có thể kìm được xúc động khi chứng kiến cảnh hậu duệ những hùng binh Hoàng Sa năm xưa lặng lẽ nặn hình nhân thả trôi trên biển. Họ cầu nguyện và hi vọng những hình nhân này sẽ gánh rủi ro, thế mạng cho người tráng binh thật khi ra khơi.

Bao lớp thủy quân của Hải đội Hoàng Sa lịch sử đã ra khơi đầu không ngoảnh lại. Dấu tích của họ hiện chỉ còn những nấm mộ chiêu hồn không hài cốt ở Lý Sơn. Chính vì vậy, trong lễ khao lề thế lính Hoàng Sa luôn nặng phần cúng tế những hùng binh đã hi sinh.

Và văn điếu bi tráng đã làm thổn thức trái tim người ở lại: “...Cúi nghĩ cõi u minh khó lòng tưởng tượng, chất trong chất đục phong hóa từ đầu. Ngoảnh sang đông, hướng về tây, hướng đi mơ màng dễ dàng lạc bến. Ôi sắc nước hương trời xa đôi nẻo lòng dễ mến yêu. Thủy phủ khiến sức nước ngưng, buổi sáng trong veo như trang điểm, cho hồn các vị tựa hàng tiên. Tiếng sóng động đông dài, tưởng niệm dấu thần phương nao mờ mịt. Ngóng hồn thiêng xa vời vợi, mong được hàm ơn...”.

Ngày 20 tháng 2 âm lịch là lễ chính để chuẩn bị tiễn đoàn quân vượt biển. Các cụ cao niên kể rằng những người lính chuẩn bị đi Hoàng Sa đứng hai hàng hầu thần suốt buổi tế lễ. Trưởng tộc chủ bái, trưởng các chi phái bồi tế và thầy pháp sẽ là người điều hành chung lễ tế. Các buổi lễ nối tiếp nhau kéo dài suốt ba ngày. Nó chỉ kết thúc khi đoàn thuyền giả có các hình nhân thế lính được thả ra đại dương.

Thấm đẫm hồn Tổ quốc
Nhiều năm lang thang điền dã, nghiên cứu quê hương Hải đội Hoàng Sa, tự sâu thẳm trái tim TS Vũ hiểu mỗi nắm cát, viên đá, nấm mộ chiêu hồn nơi đây đều thấm đẫm lịch sử bi hùng của tổ tiên. Ông đã nhiều lần gặp gỡ các tộc họ Phạm, Võ, Nguyễn, Đặng... để trình bày ước nguyện được tổ chức lễ khao lề thế lính Hoàng Sa thật trang trọng.

Trước đây, lễ cúng này thường chỉ được thực hiện quy mô rải rác trong từng gia tộc và năm có năm không. Rất may không chỉ hậu duệ các hùng binh ở đảo tán thành ý tưởng của TS Vũ mà lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi cũng đồng cảm. Rồi các nhà nghiên cứu Hoàng Sa như TS Nguyễn Nhã cũng nhiệt tình hưởng ứng, giúp đỡ ông.

Đây là thời gian ông có mặt liên tục ở Lý Sơn, dù hồi đó còn phải vượt biển trên những chiếc tàu gỗ nhỏ xíu giữa mùa dông gió. Ông chở luôn xe máy ra để tiện đi lại. Thậm chí có lần ông đưa cả vợ con ra để đồng cảm công việc ý nghĩa này. Nhà khách lúc đó chưa có. Họ phải ăn nhờ ở đậu nhà dân. TS Vũ nhớ lễ khao lề thế lính đầu tiên lớn nhất được thực hiện ở Lý Sơn vào tháng 2, mùa xuân năm 2005.

Suốt nhiều ngày liền các tộc họ Phạm, Võ, Nguyễn, Dương, Đặng... háo hức chuẩn bị chu đáo cho đại lễ linh thiêng. Họ thành kính làm những chiếc thuyền giả, những hình nhân tượng trưng cho thủy quân Hoàng Sa. Trên các thuyền có đầy đủ vật dụng của thủy quân như nước uống, gạo, muối và cũng không quên những thanh tre, sợi mây, manh chiếu để bó thi hài người lính hi sinh.

Đặc biệt, trong buổi lễ còn có cả linh vị thờ những người đã đi Hoàng Sa không về. TS Vũ kể đã phải mời một thầy cúng cao tuổi là người gốc Lý Sơn đang sinh sống ở Đồng Nai về điều hành chung tế lễ. Không chỉ yếu tố tâm linh, thầy cúng này còn là truyền nhân duy nhất của gia tộc nhiều đời làm thầy cúng lễ khao lề thế lính Hoàng Sa.

Đại lễ mùa xuân 2005 tưởng nhớ những hùng binh đi Hoàng Sa hi sinh đã trở thành một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt. Đến năm 2008, lễ lại được tổ chức trên hòn đảo này trong không khí cả nước vọng hướng về quần đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Người Lý Sơn đi xa cũng về tham dự đại lễ trọng đại. TS Vũ rưng rưng tâm sự những ngày đó ông thức trắng trên đảo và lòng cuộn trào những cảm xúc thiêng liêng khó tả.

Ánh mắt những người tham dự đại lễ bùi ngùi hướng vọng ra biển khơi, nơi những người con nước Việt năm xưa từng giong thuyền ra đi, và đó cũng là nơi có quần đảo Hoàng Sa từng thấm đẫm máu xương dân tộc. Dù thời gian có trôi qua, dù biển Đông nhiều lần dậy sóng, song quần đảo thiêng liêng của Tổ quốc đã được khắc ghi bất tử trong mỗi trái tim người Việt.

QUỐC VIỆT
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Chứng cứ khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa - Trường Sa

Dư luận quốc tế vẫn chưa tỏ tường



SGTT.VN - Trong hội thảo quốc gia lần thứ hai về Biển Đông ngày 26.4 tại Hà Nội do học viện Ngoại giao tổ chức, nhiều học giả nêu vấn đề, mặc dù Việt Nam rất tự tin về các chứng cứ lịch sử, khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng hiện nay, dư luận quốc tế vẫn chưa biết đến những thông tin này.

http://sgtt.vn/ImageHandler.ashx?ImageID=138341
Một trong những quang cảnh trong lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa, tại đảo Lý Sơn. Ảnh: Minh Đức



Hầu hết tư liệu đều bằng tiếng Việt
Tiến sĩ Nguyễn Nhã, thuộc hội Lịch sử Việt Nam khẳng định, phần lớn các tư liệu của Việt Nam, đều thuộc Nhà nước, những văn bản trao đổi giữa vua và các đình thần hoặc tỉnh thần, đều trực tiếp minh chứng chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Theo đó, các tư liệu đề cập đến địa danh Hoàng Sa, tiếng Nôm gọi là Cát Vàng hay Cồn Vàng, nhất quán từ đầu thế kỷ thứ 17 cho đến thế kỷ 20. Hoàng Sa cũng được người phương Tây xác nhận chính là Paracel vào thế kỷ 19.

Có thể nói, các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam xuất hiện liên tục qua các đời từ đầu thời Chúa Nguyễn (đầu thế kỷ 17), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (vua Gia Long), các triều Minh Mạng, Thiệu Trị. Đại Nam nhất thống chí (soạn từ 1865 – 1882) tiếp tục khẳng định Hoàng Sa thuộc cương vực ngoài biển của Việt Nam.

Tiến sĩ Nhã cũng khẳng định, các nhà nghiên cứu Trung Quốc không thể có những bằng chứng, sử liệu cụ thể trong chính sử hoặc trong các văn bản của nhà nước trước năm 1909 về xác lập chủ quyền của Trung Quốc tại hai quần đảo này, theo đúng pháp lý quốc tế thời đó. Tức là, sách điển lệ, các văn bản nhà nước từ châu bản đến các tờ tư, lệnh, bằng cấp của các chính quyền địa phương như Việt Nam có.

Ông cũng chờ đợi các nhà nghiên cứu Trung Quốc đưa ra được những tư liệu lịch sử của phương Tây nói đến việc chiếm hữu chủ quyền của chính quyền Trung Quốc theo cách của phương Tây trước năm 1909, khi Trung Quốc cho rằng Paracels là vô chủ.

Tuy nhiên, hiện nay phần lớn chứng cứ lịch sử của Việt Nam vẫn chưa được phổ biến ra thế giới. Chính vì vậy, ông Nhã nêu lên đề xuất, Việt Nam cần tập hợp lại thành hệ thống các tư liệu gốc minh chứng chủ quyền ở Trường Sa và Hoàng Sa. Hơn thế nữa, tổ chức đội ngũ biên dịch ra các thứ tiếng như tiếng Anh và tiếng Trung để dư luận quốc tế hiểu rõ. Việt Nam cũng cần kiên quyết yêu cầu chỉnh sửa các thông tin thiếu khách quan như bản đồ của hội Địa lý Mỹ.

Dưới góc nhìn là giảng viên, thạc sĩ Hoàng Việt, đến từ đại học Luật TP.HCM nêu rõ, hiện nay chương trình giảng dạy trong các đại học liên quan đến luật Quốc tế ở Việt Nam rất ít chương trình nói về tranh chấp Biển Đông. Giảng viên không có nhiều nên sinh viên cũng không có cơ hội tiếp cận.

Trong khi đó, theo nguồn tin riêng của ông Việt, số lượng nghiên cứu thạc sĩ, tiến sĩ về tranh chấp ở Biển Đông của Trung Quốc có rất nhiều. Những công trình nghiên cứu của Trung Quốc được thực hiện bằng tiếng Anh và được sử dụng tại các đại học lớn trên thế giới. Số lượng của Việt Nam thì đếm trên đầu ngón tay.

Trước tình hình đó, một đại biểu tham gia hội thảo nhận định, dường như Việt Nam “đang tự nói cho mình nghe”, bởi các chứng cứ lịch sử đã có hay mới được phát hiện về chủ quyền hiện mới được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng tiếng Việt.

Thạc sĩ Hoàng Việt nêu đề xuất, Nhà nước cần có chính sách để phát triển nghiên cứu về Biển Đông, nhằm phổ biến rộng rãi những “thế mạnh” của Việt Nam trên con đường khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Việt Nam kiên trì đàm phán đa phương
Trả lời câu hỏi của phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị về việc mới đây Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc khẳng định sẽ xúc tiến việc ký Thoả thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển, PGS-TS Nguyễn Hồng Thao, đến từ đại học Quốc gia Hà Nội nhận định, đây chắc chắn không phải vấn đề đàm phán song phương về Biển Đông.

Theo ông Thao, Việt Nam và Trung Quốc có tranh chấp song phương ở Hoàng Sa, và có tranh chấp đa phương với các nước trong khu vực về Trường Sa. Do đó, thoả thuận nói trên sẽ bàn về các vấn đề Hoàng Sa, để Việt Nam khẳng định chủ quyền ở đây. Còn với Trường Sa, Việt Nam vẫn kiên trì lập trường phải đàm phán đa phương với Trung Quốc, cùng với các nước thành viên của ASEAN. Việt Nam luôn theo đuổi thúc đẩy thực hiện tuyên bố Ứng xử của các bên DOC và tiến tới thông qua bộ Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC).

Đáng chú ý, ThS Hoàng Việt cho rằng, một diễn biến nổi bật trong tình hình Biển Đông thời gian gần đây là cộng đồng quốc tế đều phản đối đường lưỡi bò do Trung Quốc vẽ ra.

Ông Việt dẫn chứng, năm ngoái ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nhắc tới một số yêu sách là trong Luật biển năm 1982, có nguyên tắc quan trọng là “đất thống trị biển”. Tức là chủ quyền phải từ đất liền tới vùng biển, chứ không phải vẽ một đường ranh giới trên biển rồi yêu sách đất liền và các đảo nằm trong đường đó. Việc này vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc đất thống trị biển.

Cùng với Việt Nam, các nước Đông Nam Á khác như Indonesia và Philippines cũng gửi công hàm lên Liên hiệp quốc nói rõ đường lưỡi bò không có cơ sở trong luật pháp quốc tế.

Nói về đường lưỡi bò trên biển của Trung Quốc, ông Thao cho rằng, “Rõ ràng việc tự vẽ một đường yêu sách không đáp ứng bất kỳ một tiêu chuẩn pháp lý hay kỹ thuật nào để yêu sách chủ quyền các đảo, rồi tiếp tục đòi hỏi các vùng biển liên quan là cố tình áp dụng sai nguyên tắc đất thống trị biển trong Công ước của Liên hiệp quốc về Luật biển 1982”.

Ông Thao nhấn mạnh, Việt Nam vẫn theo đuổi việc thực hiện COC, vì đó là quy chế pháp lý chặt chẽ hơn, là tiền đề giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Dựa trên cơ sở DOC có từ 2002, các bên phải kiềm chế, không được mở rộng chiếm đóng thì mới đàm phán giải quyết tất cả vấn đề một cách hoà bình. Đồng thời triển khai hợp tác ở các lĩnh vực khác để tạo niềm tin, vấn đề Biển Đông là nếu tất cả các bên không có niềm tin, không tin tưởng lẫn nhau thì không giải quyết được.

Việt Anh
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Trung Anh

Thổn thức Hoàng Sa !
*********************

Hoàng Sa ,Trường Sa đôi mắt sáng

Tỏa ánh nhìn đất mẹ dáng Rồng thiêng

Thổn thức đau thương trùm thế kỉ

Ngóng trọn niềm tin Đất Mẹ hiền.
***

Sắt son ngàn thủa bao hào khí

Ngần ấy đau thương đã mấy mươi

Âm ỉ quại quằn con khát sữa

Mong dáng Mẹ xưa, ngóng ngày về.?!
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thái Thanh Tâm

Trên đời này, chuyện gì cũng có thể xẩy ra-Thái Thanh Tâm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 55 trang (550 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] ... ›Trang sau »Trang cuối