Trang trong tổng số 2 trang (16 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]

Ảnh đại diện

Thien An

Trời chiều chuyển giông, 11-06 hạ lịch

Giông đâu kéo đến thét kinh trời,
Chớp giật, sấm rền, gió ỉ ôi.
Hoa cỏ nhuỵ tàn vương khắp lối,
Ớt con cây mới gãy ngang chồi.
Xác xơ mái lá còn bao mảnh,
Hiu hắt đường đê được mấy người ?
Sớm nắng, mưa chiều khôn xiết nỗi,
Nhà ta thôi nát đám mùng tơi.

Thiện Ân
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thien An

Tiết Trung Nguyên

Tiết trời tháng bảy lại mưa ngâu,
Khắp chốn buồn giăng, cỏ ủ sầu.
Lỡ nhịp cầu kia, Ô Thước;
Tàn cung tình nọ, Chức-Ngưu.
Trải đà duyên hẩm bao người xót,
Qua bấy gian truân mấy kẻ đau ?
Mới biết đa tình rồi sẽ hận, (*)
Ngọn đèn chong toả đêm thâu.


(*) Quân tử đa tình chi hữu hận.

Trần Thiện Ân
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thien An

Đêm thu

(Viết nhân ngày giỗ của ngoại tổ mẫu)

Vằng vặc sắc vàng đọng mái hiên,
Canh trường tiếng dế gọi sầu miên.
Ải Nam mây xám du hồn mộng,
Trời Bắc khói man nhập giấc hiền.
Lìa hiệp tưởng rồi sa nước mắt,
Biệt ly ngẫm lại chuốc ưu phiền.
Ba thu mà ngỡ nghìn năm tợ,
Phảng phất vầng quang chốn cửu tuyền.

Trần Thiện Ân
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thien An

Tự tình

Thâu đêm thao thức đếm canh trường,
Sầu phủ quanh màng mắt vẫn giương.
Thế sự ngẫm hay, màu tóc bạc,
Kiền khôn lung mãi, cuộc cơ thường.
Tính suy hơn thiệt già ra trẻ,
Luận xếp thắng thua bạc lẫn vàng.
Thôi mặc con cờ xa, pháo, mã,
Kẻng quân vừa điểm một hồi vang.

Trần Thiện Ân
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thien An

Lụt

Đất trời nam, bắc với tây, đông,
Lụt mãi thì âu chuyện cũng sòng.
Xứ Nghệ nghe đâu bờ ngập trắng,
Dân tình kêu thán phận long đong.
Bát cơm còn kém, cơ còn kém,
Nhà cửa vậy xong, ruộng vậy xong.
Vận nước sao mà lênh đênh thế,
Năm sau chẳng biết được bao rồng?

Thiện Ân
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thien An

Gửi bác Trang Trường Nguyên

Âu chi thế nghị, sự chăng màng,(1)
Sông vát thi thư nặng nợ mang.(2)
Rỗi xách cần, doành Vĩnh Tế,(3)
Buồn leo núi, ngọn Sam san.(4)
Túi trà dư vị sen đồng nội,
Chén rượu đầy hương lúa nếp làng.
Phong nguyệt lạc đòi, ai kẻ mặc,(5)
Khương công, nhẩm đốt trãi bao đàng.(6)

Thiện Ân

----------------------------------------------------------------

(1) Âu ~lo, chăng ~chẳng, không. Lo chi đến chuyện thế nghị, sự đời không còn màng nữa.
(2)Sông vát (còn đọc là song viết). Sông vát thi thư ~ nghiệp thi thư. (Nhưng) Cái nghiệp thi thư vẫn còn nặng nợ mang.
(3) doành ~ dòng. Rỗi mang cần câu ra câu cá ở kinh Vĩnh Tế.
(4) Buồn leo lên ngọn núi Sam chơi.
(5) lạc ~ vui, đòi ~ theo. Vui với gió trăng, không bận tâm đến người khác nữa.
(6) Khương công tức Khương Tử Nha, hiệu Lã Vọng. Tương truyền là môn sinh của Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, lên núi học đạo đến hơn 80 tuổi mới hạ sơn, giúp Vũ Vương (Cơ Phát) diệt nhà Trụ. Ý nói là nhẩm đốt tay thấy chuyện thời vận của mình phải trãi như Khương công vậy.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 2 trang (16 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]