Tên bài thơ: Thơ dạy làm dâu
Tác giả: Trương Vĩnh Ký (Việt Nam)
Gửi bởi Viên Vy
Ngày gửi: 21/07/2020 09:24
Xoá bởi: Vanachi
Lý do xoá: đề nghị gửi lại khi có nguồn tham khảo



Mai-hiên đang thuở thanh-nhàn,
bút huê nghiên ngọc sẵn-sàng án-thơ;
Đêm thu lằng-lặng như tờ,
huê mời rượu cúc, gió đưa đờn thuyền;
Lặng nghe tiếng quản tiếng huyền,
tiếng thiều tiếng địch bên bên nhịp-nhàng;
Nghề hay phải nhớ tưởng nhiều,
uất tình lầm lúc đòi điều tả chơi.
Ở đời cho biết sự đời,
tề gia ấy trước, trị người ấy sau;
Chánh tâm đôi chữ làm đầu,
khăng-khăng tạc dạ mưa hầu chút sai;
Lo trong huân-nũ đôi lời,
cùng lời Huình-yên một vài lúc hay;
Xưa so cổ-truyện còn nay,
gia-tình ai dễ khác gì hơn ai?
Gâm câu cầm sắt hoà hai,
trăm năm loan phụng, lâu dài ái-ân.
Tề gia mọi nỗi phân-trần,
khuyên nàng tạc dạ ân-cần một hai;
Gáng lời tua khả ghi lời,
nên ba đề một trò cười về sau;
Bé-thơ ở với mẹ cha,
chu-chua chúng-chúng những là ăn-chơi;

Song còn chưa biết sự đời,
đã làm đạo cả dâu người dễ đâu?
Việc làm cẩn-thận trước sau,
trăm điều vẹn-vẽ mới hầu khỏi chê;
Khi gió sấm lúc đèn khuya,
phải giò theo ý, phải nghe theo lời;
Mình đà gà bán cho người,
cờ ai nấy phất chẳng chơi đâu-là;
Tính điên-đảo, nết sai-ngoa,
những người thề ấy thôi đà hơn chi?
Kinh-thi có chữ: vu qui,
đạo làm dâu phải nghi kì thất gia;
Thìn-lòng thờ kính mẹ cha,
triêu khạng mộ tính mới là gái khôn;
Làm-sao cho đặng tiếng đồn,
làm-sao là chữ đức tùng mới hay;
Mười hai bến nước rủi may,
hiền-vinh chớ phụ, khó nghèo chớ suy.
Còn là những việc xướng tuỳ,
kêu thì biết dạ, gọi thì biết thưa;
Trăm điều thuận dõi tính xưa,
bầu tròn ống thẳng phải lừa mới xong;
Quen nhà mạ, lạ nhà chồng,
việc ngoài chưa biết, việc trong chưa tường;
Ví-dầu không-khéo trăm đường,
mặc người dạy-bảo mỗi đường mỗi theo;

Thi rằng: Chước chước đào yêu,
suy ra trăm nết, nết nào đặng nên?
Hễ là gọi dâng dâu hiền,
tề gia nội trợ cho tuyền thì chung;
Thế-gian người nói chàng không:
chìu người kiêm củi, chìu chồng kiêm con;
Ái-ân trước đã vuông-tròn,
cang-thường trọn đạo tiếng đồn về sau;
Hễ là mỗi việc mỗi chìu
bảo dâu chớ thấy chồng yêu mà lờn;
Việc chi chồng có giận-hờn,
sau rồi ta sẽ nguồn-cơn thưa-trình;
Ví dầu đã đến lỗi mình,
ta tua cải tánh, ai đành hờn lâu?
Nếu mà thật-lật cơ-cầu,
làm người nóng-nảy lẽ đâu khó ngờ;
Có khi tỉnh, có khi say,
phải lừa theo ý cho tày người-ta;
Chữ rằng: lễ quí vi hoà,
kinh quyền cho biết, thất-gia mới thành;
Khá tua theo thiếp lựa vành,
khuyên chồng gắng-gổ học-hành hôm mai;

Khuyên đừng tham sắc tham tài,
tham bề rượu bạc chúng cười người chê;
Gia-công tỉnh-sát đề-huề,
năm canh đèn sách mựa hề chút khuây;
Có câu bái tổ vinh qui,
tầm sư rần học, cập kì thành danh;
Khuyên chồng chữ dạ đinh-ninh,
khắc-cần gia-nghiệp mặc mình sửa-sang;
Đã sanh ra phận yếm mang,
phải rèn tiết-chánh mà ngăn lòng tà;
Mẹ chồng ấy cũng mẹ ta,
duyên trời đã định đạo nhà phải chăm;
Tua dò biển ái nguồn ân,
chữ tình chữ hiếu phải cân cho đồng;
Việc trăm năm dễ một ngày,
nên hư ở sổ, dở hay tại mình;
E khi sóng gió bất bình,
lá nồng ngăn lấp, tăm kình nổi hơil
E khi quen nết buông lời,
trăm ngàn để một tiếng cười về sau;
Lỗi-lầm mình phải ở đâu?
tiếng đồn gia dữ, song dâu chẳng vừa;
Dầu không gắng-vó trọng thờ,
tùng phu lỗi đạo tiếng thừa mụ gia;
Ở cho trên kính dưới hoà,
đừng lòng khinh-dể ai mà chẳng thương?

Người dầu có cảm tuyết sương,
đạo làm dâu phải cẩn-quyền chớ sai;
Vấn an tỉnh thiện hôm mai,
quạt nồng đắp lạnh chớ nài khó-khăn;
Quản bao trăm việc nhọc-nhằn,
thức khuya dậy sớm ân-cần cho quen;
Khi tối lửa khi tắt đèn,
khi hầu khi hạ, ấy bèn có ta;
Làm dâu phải trọng mụ gia,
phải kiêng ông chú mới là dâu khôn;
Không nhớ trước cũng nhớ sau,
xem trong gia-sự đề hầu toan lo;
Lạ chi ông chú mụ o?
nhiều điều ganh vặt đôi-co lẽ thường;
Trên cung-kính dưới thuận-nhường,
nỡ nào bền dạ chẳng thương đến mình?
Ta tua giữa một lòng lành,
mặc ai đồi trắng làm xanh thế nào;
Mặc ai ăn-nói xôn-xao,
những người thế ấy nghĩ vào làm chi?
Chạy voi chẳng xấu mặt gì,
người phải cho biết, người hay cho tường;
Thế-gian sự ấy đã thường,
làm dâu phải chịu mọi đường xót-xa;
Phép đâu chồng có binh ta?
phỏng quên xương thịt ruột-ra chồng sao?
Cậu cô chú bác thấp cao,
ta hay kính sợ lẽ nào ghét ta?
Đầu mà cưới thiếp về nhà,
nó là vai dưới, ta là vai trên;
Để mà sai-khiến cũng nên,
ta hay thương nó, nó bèn sợ ta;

Chắt-chiu con vịt con gà,
rộng dung thê-sự đạo nhà mới nên;
Mựa đừng cừu lây tính ghem,
động mà vỗ thúng ai khen lẽ gì?
Làm người biết nghĩ biết suy,
biết yêu biết dấu biết vì biết khôn;
Chánh nhà trước chánh quê-môn,
đờn-bà phải giữ phép-khuôn đờn-bà;
Bao-nhiêu nô-bộc trong nhà,
hễ khi ngồi đứng vào ra giữ-gìn;
Đã phân có phận sang hèn,
bày sai ăn nói nó quen ất lờn;
Chữ rằng: thọ thọ bất thân,
phép xưa đã có chưa phân trong ngoài;
Tối-tăm ai dễ biết ai?
có đi đèn-lửa sáng ngời sẽ đi.
Hễ khi có việc-vàn chi,
canh nào cũng phải có khi ra đường;
Đi cho dạn-dĩ như người,
điếm-đàng không dám buông lời chọc ta;
Hoặc khi có khách đến nhà,
khuyên đừng cười-cợt vậy-mà chằng nên;
Cho tường đặng kẻ sang hèn,
kính người quyền-quí, ý bèn mới song;
Người phụng chạ kẻ loan chung,
vào ra những khách quần-hồng chứa-chan
Khá tua lánh chốn tiền-đàng,
chẳng nên qua lại ngổn-ngang trước người;
Rượu trà an-trí có nơi,
tiệc vầy tàn-khách, có người đãi-đưa;
Phận mình lo-lắng việc nhà,
có khách đàn-bà vậy mới tiếp-nghinh;

Có câu: tứu mãn trà khuynh,
ở đời ta phải cho minh việc đời,
Cần lời ngôn-ngữ chẳng chơi,
ngọc tì dễ chuốt, lỡ lời khó trau;
Ở cho biết việc trước sau,
bạn rể cũng kính, bạn dâu cũng vì:
Có cung-kính, có lễ-nghi,
làm người tua phải châu-tri cho cùng;
Lịch mình tức thị lịch chồng,
ở cho có thứ cớ dung bỉ-bàng;
Hoặc khi giỗ-kị tông-đàng,
sắm-sanh lễ-vật nghiêm trang chỉnh-tề;
Gắng công thức-thổi đêm khuya,
xem trong gia-sự mựa hề sót-sai;
Cỗ bàn có kẻ chơn tay,
mình tua sai biểu dọn bày trước sau;
Việc mình ai dễ biết đâu,
phải lường thăng đấu mới hầu khỏi hao.
Việc làm cẩn-thận vi-hào,
sự thành tất hậu lẽ nào lại không?
Ở cho kính thuận trong lòng,
sự tử như sanh, sự vong như tồn;
Trước là chói-lói tông môn,
sau ra lại đặng tiếng đồn hiển-vinh;
Hiếu trung hai chữ giữ mình,
nhứt tín vạn thành, gia-đạo liền nên;
Nơi dinh-liễu, chốn phố-phường,
bán-buôn ta phải theo đường bán-buôn;

Khá tua tư lượng huình hồn,
suy đàng bồn-lợi trăm bề thiệt hơn;
mựa hề tin kẻ người-dưng,
biết là có thật cùng chăng nghe lời;
Ăn cơm trời, uống nước trời,
thế-gian ai dễ hơn ai đâu là?
Người đời bất quá như ta,
đầu rằng cũng lạ, sau là cung quen;
Hễ là bắt-chước thì nên,
con khỉ có tiền hay múa lựa ta;
Miễn cho chữ dạ thiệt-thà,
há rằng ngoan-ngược mới là gái khôn?
Mua cân già bán cân non,
người xưa thế ấy có còn rày đâu?
Chi bằng ăn ít no lâu,
lường thăng tráo đấu àm giàu hơn ai?
Giàu sang cũng bởi vì trời,
chớ tham tiền bạc bỏ rơi ngãi nhàn;
Ở cho biết việc phong-trần,
lụa-là số-nhiễu lập-loà cửi canh;
Người thanh bất luận đồ thanh,
rách mà khéo vá hơn lành vụng may;
Phòng-vo luyện-tập đêm ngày,
chẳng biết tua học cho tày người-ta;
Phòng khi tư-dụng việc nhà,
mất công lại phải chạy ra mướn người;
Cho vay đặt nợ mấy nơi,
một vừa hai phải miễn lời thì thôi;
Mựa đừng chưởi-mắng réo-kêu,
bắt nợ đến ngồi lại dọn cơm ta;
Có nhơn trời cũng thương mà,
ở lành gặp phước lựa là tụng kinh;
Mấy người ác-nghiệp a-bành,
lợi tua trước mặt, hại đằng sau lưng;

Sự đời miễn đặng dửng-dưng,
muốn cho khỏi tội xin đừng lòng tham;
Hay ăn mà chẳng hay làm,
của trời đâu đặng riêng cam một mình?
Ta hay giữ đặng lòng lành,
phước sau ắt đặng để dành cho con;
Có con mới nối quê-môn,
mấy lời huấn-giáo em còn nhớ không?
Mây mưa đừng để vào lòng,
riêng mình tua phải ngăn-phòng cữ-kiêng;
khuyên đừng đứng lệch ngồi nghiêng,
cây cao chớ đến, miếu thiêng chớ vào;
Tay chơn chớ vịn trên cao,
gập-ghềnh chớ bước, giếng ao chớ gần;
Mặt hung tiếng dữ dị-kỳ,
mắt thì chớ ngó, tai thì chớ nghe;
Đừng tham những vật chanh chua,
đã kiêng vật béo, lại chừa vật cay;
Năng làm lắc-xắc càng hay,
khuyên đừng lây lất ngủ ngày mà quen;
Đừng làm việc nặng chẳng nên.
đừng lo việc khó mà phiền lòng ta;
Khuyên đừng cười-cợt ngâm-nga
khuyên đừng nóng-nảy mà ra giận-hờn;
Ta hãy giữ chánh như sơn,
sanh con ắt đặng tài hơn người thường;
Đủ kỳ chín tháng cưu mang,
ăn-chơi thong-thả giữ đàng khai hoa;
Trời sanh trời phải dưỡng ta,
chẳng biết thì có mụ-bà bảo-răn;

Sanh rồi tuy có lẽ thường,
song mà còn hãy nhiều dường khó khăn;
Hễ là vật lạ đừng ăn,
cùng mùi chua ngọt ý đừng có tham;
Thuốc-thang trị huyết thê đàm,
phòng đặng chín tháng sửa-đang tuông-hình;
Đờn-bà mình phải giữ mình,
non ngày non tháng chữ tình phải răn;
Kiêng mây lánh gió ba trăng,
chớ nên vất-vả lăng-xăng ngoài đường;
Nuôi con khôn-khó mọi đường,
biển hồ lai-láng dễ lường công-phu?
Kể từ biết bú biết bò,
biết đi biết chạy những lo trong lòng;
Chớ cho dòn giếng tắm sông,
chơi cày chơi cối ắt tông vào mình;
Nhỏ thì ta dỗ ta dành,
lớn thì ta dạy cho thành phép khuôn;
Kẻo mà tánh-khí luông-tuồng,
phỏng khi tròn dẹp sửa vuông đặng nào?
Khiêm nhường kẻ thấp người cao,
chớ cho theo thói ra vào xung-xăng;
Trải tua cho học nghề văn,
gái tua cho học theo nghì nữ công;
Thế-gian đã đặng tiếng đồn,
từ mẫu hiếu tử vàng son kém gì?
Khuyên nàng suy-nghĩ trước sau,
nhớ lấy để hầu để dạy con ta;
Hễ loài anh-én nguyệt hoa,
cấm nghiêm đặng trước, đạo nhà mới nên;
Kén thì phải kén dâu hiền,
gái tìm rể thảo vầy duyên Châu-Trần;

Người đồn ta một dòng văn,
rằng trong phép-tắc dạy răn hơn người;
Kiếm nơi khôn-khéo tót đời,
kiếm nơi trong nước, kiếm nơi hượt nhà;
Tham vì chữ-nghĩa riêng ta,
khó mà khó sạch, rách mà rách thơm;
Vốn đà nghĩa thiết tình thâm,
chàng ưa thật-đích hữu tâm cùng nàng;
Dùng làm một truyện kĩ-càng,
để khi thong-thả thanh-nhàn ca chơi;
Trước là cho biết sự đời,
sau là cho biết đặng người thỉ-chung;
Khuyên nàng thuộc lấy làm lòng,
kẽ răng chơn tóc đề phòng làm dâu;
Việc nhà ai dễ biết đâu,
thơ làm một truyện để hầu coi chơi;


Chú thích:
Nguồn: Thơ dạy làm dâu

(Bài viết được gửi tự động)
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.