Ba dao nguyệt cước tán hà hồng, Vô hạn ngư gia lạc chiếu trung. Nhất thuỷ bạch tòng thiên thượng lạc, Quần sơn thanh đáo hải môn không. Long quy động khấu tình sinh vụ, Kình phún triều đầu mộ khởi chung. Độc phiếm lan chu quan hạo đãng, Hốt nghi thân tại lạn ngân cung.
Dịch nghĩa Sóng lay chân mặt trăng, những ráng hồng toả ra, Vô số nhà chài ẩn trong bóng chiều. Một dòng nước bạc từ trên trời đổ xuống, Mấy chòm núi xanh đến cửa bể thì nhạt mầu. Rồng về cửa động, trời tạnh hoá mù, Cá kình phun đầu sóng, chiều hôm nổi tiếng chuông. Một mình với chiếc thuyền lan ngắm cảnh bát ngát, Ngỡ như mình ở chốn cung tiên.
SÁNG SỚM ĐẬU THUYỀN Ở CỬA BỂ THẦN PHÙ
Dịch thơ : MinhtaDo
Trăng lặn chân mây rực ráng hồng Vạn chài chìm nhuộm ánh mờ sông Xanh xanh sắc núi nhoà lưng bể Bạc bạc màu mưa ngớt cuối dòng Rồng hiện cửa hang vờn khói phủ Cá đùa mặt sóng vẳng chuông rung Thuyền trôi nhè nhẹ miền non nước Những tưởng nằm mơ chốn Nhược Bồng
. HOẠ HẠN VẬN ( Ví dụ vài bài về thể loại khó hoạ )
Ngày xưa ông Đão Sĩ Nhã thách ông Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật với các điều kiện sau: - Đầu đề: Xuân Khuê – - Hạn 5 vần : chờ - hờ - thưa - tơ - thơ - Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc. - - XUÂN KHUÊ
Ngàn trượng xa xăm một dạ chờ Thước nào đo được tấc tình thơ Bốn phương tám cõi trăm miền lạ Chín nhớ mười thương vạn nẻo hờ Nhật nguyệt đôi vầng hai sắc diện Dâu tằm mấy cặp nửa màu tơ Ba chìm bảy nổi ... phòng khuê lạnh Sáu khắc năm canh mõ điểm thưa - MinhtamDo
- = = = = = - - XUÂN KHUÊ - - Một mong hai đợi bốn ba chờ Mười hẹn đêm trăng tám hững hờ - Nửa gối năm canh gà gáy giục Tấc mây sáu cánh nhạn tin thưa - Trăm lần cặp mắt đôi hàng lệ Chín khúc bên lòng vạn mối tơ Ngàn trượng thành sầu đo thước khó - Biếng đem bảy vẻ dệt nên thơ - - Phan Mạnh Danh