Trang trong tổng số 2 trang (17 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]

Ảnh đại diện

Phong Dũng

Xuân Quỳnh thì khỏi phải nói rồi. Bà là 1 trong 4 nữ đại thi sĩ của Việt Nam mà là thời cận đại nhất dù trình độ VH chỉ lớp 6(Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương và Xuân Quỳnh). Tai nạn đã làm cho nền văn học Việt Nam mất đi hai cây đại thụ và một mầm non, đáng tiếc.

  TỰ HÁT (Xuân Quỳnh)

Chả dại gì em ước nó bằng vàng,
Trái tim em anh đã từng biết đấy.
Anh là người coi thường của cải,
Nên nếu cần anh bán nó đi ngay.

Em cũng không mong nó giống mặt trời,
Vì sẽ tắt khi bóng chiều đổ xuống,
Lại mình anh với đêm dài câm lặng,
Mà lòng anh xa cách với lòng em.

Em trở về đúng nghĩa trái tim,
Biết làm sống những hồng cầu đã chết,
Biết lấy lại những gì đã mất,
Biết rút gần khoảng cách của yêu tin.

Em trở về đúng nghĩa trái tim em,
Biết khao khát những điều anh mơ ước,
Biết xúc động qua nhiều nhận thức,
Biết yêu anh và biết được anh yêu.

Mùa thu nay sao bão giông nhiều ?
Những cửa sổ con tàu chẳng đóng ?
Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm ?
Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh.

Em lo âu trước xa tắp đường mình,
Trái tim đập những điều không thể nói,
Trái tim đập cồn cào cơn đói,
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn.

Em trở về đúng nghĩa trái tim em,
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có,
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa,
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.


Tôi rất thích bài này, nhất là khổ 5 và 6
Rượu hay em...chất men trong nước mắt
Người đang yêu...khi...mối tình vừa tắt
          Khóc cho nỗi niềm trinh bạch
Rượu hay em...
          Anh cứ uống xem! (H Việt)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

thiên_di

Tôi không chỉ yêu thơ mà còn rất ngưỡng mộ tình yêu của XQ và LQV. Thơ Xuân Quỳnh rất tự nhiên và tràn đầy cảm xúc cho dù viết về tình yêu, tình mẫu tử, những suy tư về cuộc sống hay bất cứ thứ gì khác.Đọc thơ XQ sẽ bắt gặp rất nhiều những chi tiết đời thường, không hề tô vẽ nhưng vẫn đầy lãng mạn, cái lãng mạn của những người lạc quan yêu thương cuộc sống và yêu thương con người. Đọc thơ XQ sẽ thấy hiện lên rõ ràng ở đấy một người phụ nữ dạt dào tình cảm, hết mình vì chồng con, chị em, bạn bè, hết mình vì cuộc đời cho dù vất vả nhưng vẫn vô cùng tươi đẹp này. Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tôi thích nhất!
Thơ LQV thì đọc không nhiều, có 2 bài rất thích là Nhà chật và Và anh tồn tại, có lẽ đều là tặng XQ, giọng thơ cũng phảng phất của XQ. Cả 2 bài đều rất hay nhưng tôi thích bài Nhà chật hơn.
Bài thơ rất đời thường nhưng LQV đã có những so sánh ví von rất lãng mạn

"Nhà chật như khoang thuyền hẹp nhỏ giữa sông"

"Bạn thuyền ơi, ngoài kia chiều lộng gió
Bên cửa sổ của gian phòng nhỏ
Mắt em xanh thăm thẳm những chân trời."

Nhưng trên hết bài thơ cho thấy tình yêu của họ dành cho nhau lớn lao và tươi đẹp đến thế nào, cho dù cuộc sống còn bao lo toan vất vả.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

Xuân Quỳnh - cánh chuồn trong giông bão


(Mấy suy nghĩ về thế giới nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh)

1. Khắc nghiệt và yên lành

Đúng là Xuân Quỳnh viết rất nhiều về cỏ, về hoa dại, về cát... Nói về những thứ nhỏ nhoi, trơ trọi và quên lãng ấy, với Xuân Quỳnh, âu cũng là tự hát về cái thân phận mình, cái kiếp mình. Vậy mà tôi cứ thấy hình ảnh chuồn chuồn báo bão ám vào thơ Xuân Quỳnh mới da diết làm sao!
Cánh chuồn bé bỏng mỏng manh ấy bay ra từ ẩn ức của một đứa trẻ côi cút, chơ vơ giữa cõi trần ai đầy bất trắc, trôi nổi vô định này. Nó quá nhạy cảm với bão tố, mang tin bão về, để rồi chẳng tìm đâu ra một chốn nương náu chở che:

Chặn bốn phía những cỏ cây tội nghiệp
Trái đất này sẽ nhận chìm trong mưa
Không tìm đâu một chốn nương nhờ
Mỏng manh thế làm sao chịu nổi
Chuồn chuồn ơi báo làm chi bão tới
Trời bão lên rồi mày ở đâu?


Có lẽ thế, thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn bay tìm chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời.

Mọi nhãn quan thơ ca thường có xu hướng phân lập cái thế giới sống động này thành các đối cực. Tùy thuộc từng tạng người, tạng thơ mà cặp đối cực nào sẽ nổi trội lên, giành lấy quyền quán xuyến. Và thế giới nghệ thuật được sáng tạo trong thơ, xét đến cùng, là sự tương sinh, tương khắc của các đối cực ấy. Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hoá khôn cùng của chúng. Ở đó, trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình, thác lũ và êm trôi, tình yêu và cách trở, ra đi và trở lại, chảy trôi phiêu dạt và trụ vững kiên gan, tổ ấm và dòng đời, sóng và bờ, thuyền và biển, nhà ga và con tàu, trời xanh và bom đạn, gió lào và cát trắng, cỏ dại và nắng lửa, thuỷ chung và trắc trở, xuân sắc và tàn phai, ngọn lửa cô đơn và đại ngàn tối sẫm...

Cõi đời vốn đã đầy cay cực, xáo động, Xuân Quỳnh lại sinh đúng vào những năm tháng không yên, bản thân, ngay từ trứng nước đã đa mang một cõi lòng không yên định, đầy những lo sợ không đâu như một thứ nghiệp dĩ. Thế mà, người đàn bà ấy lại coi hạnh phúc là yên lành và suốt đời cứ cố kiếm tìm, vun trồng, gìn giữ cái yên trong một thế giới đầy nắng nôi dông bão, trong một thời buổi cơ hồ chẳng có chút nào yên. Có phải đó vừa là nguyên uỷ làm nảy sinh quan niệm và ước nguyện của hồn thơ này, lại vừa là thực tại mãi mãi lưu đày đời thơ này?

2. Anh chờ em cho em vịn bàn tay

Sinh ra đã chịu đựng nỗi chơ vơ, côi cút, rồi trên mỗi bước đường đời, mặc cảm côi cút cứ truy đuổi sát gót như một thứ bóng đè lên cuộc đời người phụ nữ này. Vì thế, có thể thấy rằng: cuộc đời và thơ Xuân Quỳnh là một nỗ lực vượt thoát nỗi chơ vơ định mệnh đó. Cũng vì thế, luôn thường trực ở hồn thơ này, một khao khát đến khắc khoải: khao khát được gắn bó và chở che. Dĩ nhiên, ở một người bản tính đôn hậu, chuyện ấy là song phương: vừa được gắn bó với đời, vừa được đời gắn bó; vừa che chở người, vừa được người che chở. Đó là nội dung hệ trọng của hạnh phúc theo quan niệm của Xuân Quỳnh. Và đời chị là hành trình kiếm tìm một hạnh phúc như thế. Chị phải trở thành thi sĩ của tình yêu, phải đặt kỳ vọng vào tình yêu, điều ấy dường như là tất yếu. Bởi vì tình yêu là cứu tinh và cũng là cứu cánh của thi sĩ. Lại cũng tất yếu: tình yêu với Xuân Quỳnh, trước nhất, cao nhất và sâu xa nhất, không thể là gì khác hơn một "sự gắn bó giữa hai người xa lạ"- "Rằng tình yêu không thể tách rời - khi đó em là máu thịt anh rồi - nếu cắt đi anh sẽ ngàn lần đau đớn". Chị nghiệm ra bản chất gắn bó máu thịt ấy ở mọi chốn, mọi thứ trong thế giới này, ở cả sóng và bờ, đồi đá ong và cây bạch đàn, con đường và bàn chân, đường ray và con tàu, tình yêu và thơ ca... mà đậm nhất là ở thuyền và biển: "Nếu từ giã thuyền rồi - Biển chỉ còn sóng gió - Nếu phải cách xa anh - Em chỉ còn bão tố"... Thế nghĩa là, còn thiêng liêng hơn cả những thủy chung, những duy nhất, tình yêu với Xuân Quỳnh là niềm khát khao được gắn bó với con người và cõi sống này. Dĩ nhiên, trước tất cả là gắn bó với người thương, người thân.
"Chất keo" của mối gắn bó đó không có gì khác hơn trái tim và bàn tay. Đây là những hình ảnh trở đi trở lại đầy ám ảnh trong thơ chị. Nó là hiện thân sống động của quan niệm về tình yêu Xuân Quỳnh. Chị đặt niềm tin vào một trái tim thiết thực, biết khước từ mọi biến hoá cao sang hoa mỹ, dẫu có thành vàng, thành mặt trời... Điều ước duy nhất của trái tim kia là: được làm chính nó! Để "làm sống lại những hồng cầu đã chết - biết rút gần khoảng cách của yêu tin", và thiêng liêng hơn là, để gắn bó trở thành vĩnh viễn - "biết yêu anh cả khi chết đi rồi". Còn bàn tay sinh ra là để tuân theo ý nguyện của trái tim đó (Bàn tay em). Trong tình yêu, những nụ hôn ngây ngất, những vòng ôm ghì riết, những ánh nhìn đắm đuối... những cuồng nhiệt hưởng thụ ái tình và tuổi trẻ cứ việc mê hoặc những cây bút thơ tình nào khác. Còn chị, Xuân Quỳnh chỉ chọn cho mình một cử chỉ tay trong tay. Vì sao ư? Đó không hẳn là tình tự, đó là biểu tượng của gắn bó, nương tựa lẫn nhau của cái tôi Xuân Quỳnh với một cái tôi khác để mà vượt qua, để mà trụ vững trong cõi đời đầy bất trắc, đầy những chảy trôi, phiêu dạt sắc sắc không không này:
- Đường tít tắp không gian như bể
Anh chờ em cho em vịn bàn tay

- Bàn tay em trong tay anh xiết chặt

- Thấy anh về cuống quýt nắm tay nhau
Cỏ dưới chân gió thổi trên đầu
Trái tim đập sau lần áo mỏng

- Tay ấm trong tay - chồi non lại biếc

- Tay ta nắm lấy tay người  
Dẫu qua trăm suối ngàn đồi cũng qua


3. Chất thơ từ tổ ấm

Tôi nhớ, trước câu thơ "Căn phòng con riêng của chúng mình - Nước trong phích hoa trong bình gốm cũ", ai đó đã "cười nụ" xem nó như một thứ thơ "chưa sạch nước cản". Cũng có phần nào ngộ thật! Nước lại chả trong phích, hoa lại chả trong bình! Ấy thế mà chỗ khác người, hơn người của Xuân Quỳnh, xem ra, lại chính là ở đấy! Những câu thơ rất không đâu kia, một người khác khó lòng viết nổi. Nó thuộc về một cảm nhận riêng đối với một chất thơ mà Xuân Quỳnh tỏ ra mẫn cảm và giàu có hơn ai hết: chất thơ từ tổ ấm! Gọn hơn, nó là cảm giác thơ về đời sống thường nhật của Xuân Quỳnh. Nếu định tìm ở các câu thơ như vậy những trau chuốt, hoa mỹ, sẽ vô tình đánh mất đi nhịp rưng rưng không chút mơ hồ của một trái tim đang bao bọc, quấn quýt với mọi đồ vật, thân thuộc đơn sơ thôi, nhưng mà thuộc về cái tổ ấm, thuộc về cái cõi bình yên có thật của mình, của riêng mình! Nhịp đập ấy là âm hưởng, là hơi thở đảm bảo sự sống cho cả những câu thơ rất đỗi... không đâu của thi sĩ này! Nó thuộc về cái tính linh của Xuân Quỳnh. Bởi vì, ai chẳng có tổ ấm, nhưng đã mấy ai phát hiện ra nguồn thơ từ tổ ấm như thế!
Ai đã đọc thơ Xuân Quỳnh không thể không thấy cứ thấp thoáng ẩn hiện suốt đời thơ của người đàn bà này hình ảnh một mái che với những biến thể khác nhau của nó. Khi là vòm cây, là mái phố, mái nhà, căn phòng, khi là căn hầm, nhà ga, bầu trời xanh... Thậm chí, hình ảnh người yêu qua thi cảm của chị, nếu có gì khác người, thì chính là nó đã được đồng nhất với bầu trời - "Bầu trời xanh hơn cả lúc nằm mơ - Và hạnh phúc trong bàn tay có thật - Chiếc áo mắc trên tường - Màu hoa sau cửa kính - Nồi cơm reo trên ngọn lửa bếp đèn - Anh trở về - Trời xanh của riêng em" (Bầu trời đã trở về)... Đó là những hiện thân khác nhau của cùng một hình hài chung nhất, thiêng liêng nhất: tổ ấm.
Hiện diện thường trực và phong phú trong cảm thức thơ ca Xuân Quỳnh, tổ ấm là biểu tượng sống động của gắn bó - chở che. Với người khác, yêu có khi chỉ cần được giao cảm với đời, chỉ cần ghì riết lấy sự sống trong vòng tay vồ vập ham hố cuống quýt của mình, dù chỉ trong khoảnh khắc. Còn với Xuân Quỳnh, hạnh phúc yêu đương nhất thiết phải thành hạnh phúc gia đình, phải kết thành tổ ấm. Tổ ấm mới là mối hàn bền chắc gắn kết từng cá nhân nhỏ nhoi riêng lẻ vào nhau và vào với cuộc đời mênh mông vô tận. Tổ ấm là con thuyền thả trên sự trôi chảy để mà chống chọi, vượt qua cái bấp bênh vô định của dòng đời, là chốn yên lành có thật giữa cõi đời đầy khắc nghiệt này.
Có phải tổ ấm nào cũng là con thuyền chắc chắn trên dòng chảy kia không? Cho dù không, Xuân Quỳnh vẫn khát khao, vẫn đặt vào đó kì vọng của mình. Đó không chỉ là sự lựa chọn của một ý thức. Đó còn là tiếng gọi da diết thường trực từ huyết quản của một thân phận từng chịu bất hạnh vì nỗi mẹ mất sớm, cha đi bước nữa, gia đình bị phá vỡ và cái tổ ấm đầu đời do mình gây dựng cũng bị chia lìa. Đó là ẩn ức, là cơn khát vô hình khôn nguôi của một con chim không tổ. Vì thế, nhìn cuộc đời qua tiêu điểm tổ ấm, đã là cái nhìn rất Xuân Quỳnh. Cứ xem hình ảnh nhà trên mỗi chặng đường thơ Xuân Quỳnh, đủ thấy chị đang viết về chiến tranh hay hoà bình, hiện tại hay tương lại, nhọc nhằn hay sung sướng, khắc nghiệt hay yên lành... Cũng chỉ có Xuân Quỳnh mới lập nên sơ đồ và lịch sử một cõi sống mà nhà mình là trung tâm của thế giới, là kết quả cuối cùng của cuộc tiến hoá trên mặt đất trường cửu này: "Hàng trăm năm đã nên bãi sa bồi - Hàng ngàn năm đã nên làng nên xóm - Hàng vạn năm đã nên thành phố lớn - Qua bao đời thành phố có nhà tôi". Và cũng chỉ có hồn thơ thiết tha với sự sống yên lành bình dị nơi tổ ấm, mới có cảm nhận về hoà bình kì thú thế này :"Cái nôi thôi mắc cửa hầm - trắng tinh cái tã xanh trong bầu trời". Đúng thế, lẽ nào đó không phải là lá cờ đuôi nheo, lá cờ hiệu chân chính và tin cậy nhất của sự sống chúng ta?

Nếu ngôi nhà là trụ sở của sự sống, thì con cái là trái tim của tổ ấm. Trở thành thi sĩ của tình yêu là một tất yếu, Xuân Quỳnh cũng tất yếu thành nhà thơ viết cho con trẻ. Chị sẽ viết bằng sự bao bọc chở che: "Con thức ban ngày mẹ chở che con - Đêm con mơ mẹ làm sao che chở - Trong giấc mơ chỉ mình con bé nhỏ - Chỉ mình con chống chọi với quân thù". Chị sẽ viết Cổ tích về loài người và giải thích lại về nguồn gốc thế giới mà trong đó, ra đời đầu tiên trên thế gian là lũ trẻ, kế đó mới là cha mẹ, ông bà... tất tật đều sinh sau, và vì lũ trẻ mà sinh ra, chị sẽ viết bằng cái lôgic riêng của tình mẫu tử "Con yêu mẹ bằng con dế" sâu sắc mà ngộ nghĩnh...

Ấy thế mà cứ y như tự mâu thuẫn, chính con người ấy còn đa mang một khát vọng khác cũng không kém phần ám ảnh: "Nỗi khát vọng những phương trời chưa tới". Tuy không phải máu xê dịch giang hồ, nhưng Xuân Quỳnh cũng đã sáng tạo ra một loạt hình tượng để kí thác vào đó cái khát vọng đi xa của mình. Có thể thấy biết bao thiết tha của thi sĩ đã gửi vào những con đường, biển, sóng, gió, mây... mà đặc biệt là con tàu: "Em khác chi con tàu - chạy về xa tít tắp"... Đến miền đất nào cũng chân thành gắn bó cũng cứ "vơ vào": "Bốn phương đâu cũng quê nhà - Như con tàu với những ga dọc đường". Đến đâu cũng miệt mài gia đình hóa con người, quê hương hoá cảnh vật để mong biến tất cả thành Dải đất thuộc về tôi... Tuy nhiên, mỗi khi cất bước ra đi, cũng lập tức bị lo âu dày vò. Bởi rời tổ ấm cũng là rời "nơi che chở những người thương mến nhất", là dấn thân vào cái bấp bênh, diệu vợi, khắc nghiệt, là phải kiếm tìm gắn bó, chở che. Vì thế, con tàu nhằm phía trước lao đi, còn nỗi nhớ cứ ngược chiều quay lại... Cứ thế, nếu đời người có thể qui vào cái dòng kế tiếp tuần hoàn giữa ra đi và trở lại, thì một phần lớn thơ Xuân Quỳnh đã được viết bằng cái tâm thế bất định "Khát khao đi hồi hộp mỗi khi về" của cánh chuồn mỏng manh và mệt nhoài này. Và tất nhiên, người đàn bà ấy chỉ tìm thấy yên ổn thật sự khi bước chân vào tổ ấm của mình. Nói thơ Xuân Quỳnh nhất quán một nữ tính là vì lẽ đó. Nữ tính ấy luôn dẫn dắt chị đến với chất thơ của tổ ấm như là sự mách bảo bên trong, như sự sắp đặt tự nhiên thành một số phận thơ, một cá tính thơ vậy.

(còn tiếp phần 4)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

Xuân Quỳnh - cánh chuồn trong giông bão


4. Phấp phỏng và lo âu

Càng ngày tôi càng tin rằng: nỗi day dứt vào bậc nhất trong suy cảm trữ tình của con người bao đời nay là day dứt về chuyện còn - mất của những gì với mình là quí giá thiêng liêng. Người càng giàu tiên cảm, giàu dự cảm lo âu về mất mát rủi ro, thì day dứt càng ám ảnh hơn, dày vò hơn. Càng hy vọng nắn nót gìn giữ bao nhiêu, càng nơm nớp lo âu bấy nhiêu. Vì thế, trong nhiều hình dung về một thi sĩ, tôi vẫn muốn đinh ninh rằng: một nhà thơ trữ tình từ trong máu là người gắng gỏi đến hao mòn, kiệt sức để cố níu giữ cái mình hằng tôn thờ mà đang có nguy cơ bị tuột mất, bị huỷ diệt. Đó là nhà thơ của cái đẹp lâm nguy.
Và, lắm khi nhìn một mẹ gà xòe cánh ấp ủ bầy con bé bỏng trong ổ rơm, cái đầu chẳng chịu yên, cứ nghiêng ngó mọi phía, đôi tai và đôi mắt mải lắng những tiếng dữ vọng từ xa đến như bóng diều quạ đang rình rập đâu đây, tôi cứ nghĩ đến Xuân Quỳnh. Bởi cứ thấy đây là hình ảnh của lo âu. Phải, lo âu phải là bản năng, phải là phẩm chất hàng đầu của một người mẹ, lo âu là  mẫu tính. Mà Xuân Quỳnh cả lo quá, nó như một thứ "giời đày". Suốt một đời rặt những lo toan: lo bom đạn, lo bão giông, mưa nắng, lo tổ ấm chẳng được yên lành, lo cách trở diệu vợi, lo không được gắn bó, không được chở che, lo mất tình yêu, lo mất tuổi trẻ và nhan sắc... Chả nhẽ, phải khi chẳng còn gì để mất, người đàn bà này mới chấm dứt lo âu?
Nhưng còn gì kinh khủng hơn, khi một người đàn bà tuyên bố: chẳng còn gì để mất! Không chỉ vì thế tức là đã mất tất, mà còn vì tất cả đã trở nên vô nghĩa, trở nên đê tiện, đểu giả... Thật may, thơ Xuân Quỳnh chưa bao giờ là tiếng lòng của người đàn bà không còn gì để mất. Mọi phá phách, cay nghiệt, mọi bất mãn, bất cần... đều xa lạ với thơ chị. Xuân Quỳnh thực sự là một người đàn bà suốt đời kiếm tìm vun trồng và gìn giữ. Gìn giữ cẩn trọng đến mức nơm nớp, khắc khoải. Từ thời  Chồi biếc (1963), khi tiếng thơ vừa mới dậy thì, đầy sôi nổi cũng đầy nông nổi, ngỡ chỉ đắm say và tin tưởng, nào ngờ đã gợn lên rồi cái bóng lo âu. Cứ tưởng lời cả quyết "Nếu phải cách xa anh - Em chỉ còn bão tố" là quá tự tin, ai dè đó chỉ là giọng cả tin của một người cả lo, của một cõi lòng chỉ chợt nghĩ đến bão tố thôi là đã run lên, hoang mang, nơm nớp rồi! Càng về sau lại càng quá! Đến nỗi mọi biến động nhỡn tiền, dù vô tình thôi, hư thoảng thôi cũng khiến chị động lòng: "Vừa thoáng tiếng còi tàu - Lòng đã Nam đã Bắc", "Em lo âu trước xa tắp đường mình - Trái tim đập những điều không thể nói". Ngay như trước một cảnh rất thường: "Cuối trời mây trắng bay - Lá vàng thưa thớt quá", mà câu thơ cứ như một tiếng kêu bất giác rên lên, như một niềm thảng thốt. Là chiếc bóng không thể nắm giữ, cũng không thể lìa bỏ, lo âu cứ phơ phất một điệu hồn ở ngay trong những câu thơ không đâu nhất, hay ấn tượng nhất của thi sĩ này:

Cát vắng sông đầy cây ngẩn ngơ
Không gian xao xuyến chuyển sang mùa
Tên mình ai gọi sau vòm lá
Lối cũ em về nay đã thu


Có thể nói, nếu mỗi thi sĩ đích thực bao giờ cũng có một điệu hồn riêng, thì  lo âu, đó mới thực là điệu hồn Xuân Quỳnh. Điệu hồn ấy, Xuân Quỳnh đã phổ trọn vẹn vào những tiếng thơ da diết nhất của mình. Nó là phần tinh chất nhất của giọng điệu thơ Xuân Quỳnh. Nó đã ngân lên đây đó ngay từ những tiếng thơ đầu đời, càng về sau càng rõ nét, nổi trội.

Hóa ra, hạnh phúc của một người đàn bà phụ thuộc rất nhiều vào hai yếu tố: nhan sắc và tình yêu. Kẻ thù truyền đời của họ, vì thế, là sự lạnh nhạt của "đối phương" và của thời gian. Trong mọi điều khắc nghiệt, đây là điều khiến người đàn bà Xuân Quỳnh bận lòng nhất. Tình yêu là sức mạnh chở che, gắn bó, nhưng cũng mỏng manh như cách chuồn báo bão, mỏng mảnh như màu khói, dễ vỡ như một thứ bình pha lê. Và nhan sắc cũng mong manh, cũng bạc vô cùng. Làm sao một người đa mang cái cõi lòng không yên đó chẳng phấp phỏng lo âu cho đặng! Sợ nhất là vì một lý do nào đấy, đôi tay trong tay kia bỗng buông lỏng, bỗng rời nhau ra, mọi dấu hiệu "trở chứng" đều khiến chị hoang mang nghi ngại: "Mùa thu nay sao bão mưa nhiều - Những cửa sổ con tàu chẳng đóng - Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm - Em lạc loài trước sâu thẳm rừng anh". Đã day dứt về còn - mất, dứt khoát không tránh khỏi sự dày vò của thời gian. Nhưng khi người đàn bà nghe "Những năm tháng đi về trên mái tóc", và kêu lên "Như không hề biết đến tàn phai" thì đó không còn là cảm giác thời gian nữa. Se xót hơn, đó chính là ám ảnh tàn phai. Lo âu về sự lạt phai của ái tình và tàn phai của nhan sắc, có lẽ là nỗi niềm trăn trở nhất, day dứt nhất, khiến thi sĩ phấp phỏng lo âu nhất trong hai tập thơ cuối đời -  Tự hát  (1984) và Hoa cỏ may (1989). Với nỗi niềm ấy, Xuân Quỳnh là người đàn bà của muôn thuở!

Điều đáng quý ở con người ấy là càng cả lo, cả nghĩ bao nhiêu, càng gắn bó với con người và cuộc đời bấy nhiêu. Chừng như chị đã thấy trước được rằng đời sống thật khắc nghiệt, bất ổn, số phận con người thật ngắn ngủi, tất cả chỉ là thoáng chốc, tấc gang. Cho nên chị đã lẳng lặng hi sinh để mong đem lại cho người thân, người thương của mình một chút bình yên, một chút ngọt ngào mà mình chắt chiu dành dụm được trong cuộc sống nhọc nhằn này. Với bản tính ấy, làm sao Xuân Quỳnh có thể quẳng gánh lo đi mà vui sống được. Những ngày nằm chữa bệnh tim sau tai nạn đổ xe, cả thầy thuốc và người thân đều khuyên chị đừng xúc động lo âu làm gì. Không phải Xuân Quỳnh không biết như thế là có lợi. Và có lẽ chị đã thử đôi lần. Nhưng khốn nỗi, lo âu trở thành cái tôi Xuân Quỳnh mất rồi, làm sao có thể lìa bỏ được cái tính linh trời định đó của mình. Và, phải khi tai hoạ phũ phàng ập xuống quá bất ngờ, người đời mới thấy rằng những dự cảm lo âu suốt một đời người, một đời thơ ấy sao mà linh nghiệm, trớ trêu. Xuân Quỳnh nào có lo xa, lo hão gì đâu!

Quy Nhơn, 1985
Hà Nội, 1993

Chu Văn Sơn
Nguồn:  Tạp chí Văn học, số 11, năm 1993
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

Xuân Quỳnh - người tìm câu trả lời trong yêu thương


(Đọc “Bầu trời trong quả trứng” của Xuân Quỳnh)

Ký ức và tình yêu, quá khứ và những câu hỏi hồn nhiên, trong trẻo, khát vọng sống và sự sẻ chia của tấm lòng người mẹ đã đẩy Xuân Quỳnh vào cuộc hành trình đi tìm những câu trả lời để từ đó mở ra cho con trẻ những chân trời mới lạ.
Xuân Quỳnh đã viết về quê hương:

Mỗi người có một quê
Ngày dại thơ để ở
Tuổi niên thiếu để yêu
Và lớn lên để nhớ...


(Thành phố quê anh)

Xuân Quỳnh đã viết về những đứa con thân yêu của mình:
“Cháu Mi vẫn khoẻ, em gửi cháu ở nhà trẻ Nguyễn Công Trứ... Cháu ngoan và thương em, thương mẹ... Có hôm, em đưa cháu ra hiệu mua một cái bánh kem bơ cho mình cháu ăn, còn em không ăn. Cháu hỏi: 'Sao mẹ không ăn?'. Em bảo: 'Vì mẹ ăn tốn quá'. Thế là nó không bằng lòng, nhất định cứ xắn ra, chỉ ăn một nửa, sau bảo mãi mới chịu ăn hết. Có lần em cho cháu cái kim đan để cháu làm súng. Cháu hỏi: 'Mẹ mua mấy hào đôi kim đan?'. Em bảo: 'Ba hào'. Nó bảo: 'Lúc nào con có ba hào, con đưa mẹ để mẹ tiêu nhé' (Thư gửi chị gái Đông Mai - ngày 19/03/1976).
Ký ức và tình yêu, quá khứ và những câu hỏi hồn nhiên, trong trẻo, khát vọng sống và sự sẻ chia của tấm lòng người mẹ đã đẩy Xuân Quỳnh vào cuộc hành trình đi tìm những câu trả lời để từ đó mở ra cho con trẻ những chân trời mới lạ. Xuân Quỳnh dành một quãng thơ của mình để ngân nga khúc nhạc yêu thương, và trong đó, người đọc bắt gặp những cuộc trò chuyện tâm tình giữa con và mẹ, giữa người hỏi - người đang “sở hữu” một tuổi thơ thánh thiện và người trả lời - người đang nhìn ngày hôm qua bằng đôi mắt rất đỗi nhớ thương và đang dang rộng vòng tay ấp ủ những bé thơ.

http://i682.photobucket.com/albums/vv185/btmit2006/XQunhvcontrai.jpg

Xuân Quỳnh và con trai.Ảnh tư liệu.



Xuân Quỳnh đã chạm vào cõi thơ bằng bàn tay “đánh chắt chơi chuyền thuở nhỏ - Hái rau dền rau dệt nấu canh - Tập vá may tết tóc cho mình - Rồi áp mặt trên bàn tay khóc mẹ”. Bàn tay ấy, trái tim ấy luôn thổn thức vì tình yêu. Và, cái con người “đam mê sống, đam mê yêu, đam mê trong thiên chức làm vợ làm mẹ” ấy mê mải rong ruổi suốt cuộc hành trình của mình đi tìm những câu trả lời, những đáp án thú vị cho những vì sao sáng long lanh trong đôi mắt trẻ: Tại sao con gà sinh ra?, Sao trăng khuyết, trăng đầy?...
Có những bài thơ, ngay tựa đề, đã là câu hỏi. Người mẹ trẻ gom góp từng câu hỏi hồn nhiên của con trẻ, gom góp từng sợi yêu thương lấp lánh:

Mùa hè nắng ở nhà ta
Mùa đông nắng đi đâu mất?


Để rồi, chị ấp ủ những hạt giống, ươm mầm cho những lí giải rất đỗi dễ thương:

Nắng ở xung quanh bình tích
Ủ nước chè tươi cho bà...
... Nắng vào quả cam, nắng ngọt
... Nắng lặn vào trong mùi thơmƯ
... Nắng thương chúng em giá rét
Nên nắng vào áo em đây...


Giọt nắng hiền lành trú ngụ đâu đây trong cuộc sống này. Vì nắng đỏ hồng. Vì nắng ấm áp. Nắng ở trong thơ và trong lòng mẹ.
Với “Tại sao gà con sinh ra?”, người mẹ làm thơ Xuân Quỳnh thao thiết, đau đáu về một niềm mong chờ hạnh phúc. Gà con sinh ra, vì sao nhỉ? Vì “Thấy gà mẹ khổ quá - Cứ nằm liền ổ rơm - Thân xác xơ gày mòn - Không ăn mà mãi thức”, nên “Thương mẹ đạp vỏ trứng - Thế là gà sinh ra”. Dòng chảy của yêu thương vẫn rào rạt trong từng câu trả lời, nguyên khôi, thánh thiện.
Đi tìm câu trả lời trong yêu thương và thấy cuộc đời ngân lên thành khúc hát, Xuân Quỳnh trả mình về trong tiếng gọi Mẹ của con yêu:

Mẹ ơi mẹ có biết
Sao trăng khuyết, trăng gầy?


(Muốn trăng luôn luôn tròn)

Và:

Má ơi, ai sinh cá
Ai làm ra cái kem
Đêm sao lại màu đen
Ban ngày sao màu trắng?


(Cắt nghĩa)

Hay:

Mẹ ơi, bông hoa kia
Là của ai hở mẹ
Cái màu xanh trên cửa
Kia nữa là của ai?


(Mẹ và con)

Những câu hỏi ấy như một niềm ám ảnh đối với Xuân Quỳnh - ám ảnh tình yêu, ám ảnh khát vọng, ám ảnh nhớ thương... Cho nên chị cất giữ chúng trong ngăn kéo yêu thương của mình, và không quên những hồi đáp đầy âu yếm:

Trăng khuyết là trăng gầy
Lúc buồn trăng khuyết thế
Trăng giống như là mẹ
Lúc con hư mẹ gầy.


(Muốn trăng luôn luôn tròn)

Câu trả lời gợi dẫn đến một phép so sánh bất ngờ: trăng được ví như mẹ, người mẹ luôn hao gầy vì lo lắng cho con, luôn dõi theo từng bước trưởng thành của con. Hình ảnh mẹ đổ bóng vào thơ, tự nhiên, dịu dàng như mặt trăng cứ chảy hết từng giọt ánh sáng mát lành cho vầng kí ức tuổi thơ thêm trọn vẹn.
Xuân Quỳnh luôn tìm tòi, khám phá, sáng tạo để thi vị hoá những biến động trong cuộc sống, để mỗi câu trả lời là một nốt nhạc của tình yêu, nốt nhạc ngân lên từ trái tim:

Ban ngày làm bằng nắng
Màu xanh làm bằng cây
Quả ớt làm bằng cay
Tiếng ồn sinh tàu điện
Gió trong con ốc biển
Ghé tai nghe mà xem...
A lại còn cái kem
Thì làm bằng mùa rét
Bông hoa làm bằng Tết
Tết làm cho hương thơm...


Phép hoán vị hay nghịch đảo tạo nên nét tinh tế, ngộ nghĩnh cho câu trả lời. Mọi vật xung quanh con đều có hồn, đều tạo nên nhau như một lẽ tự nhiên. Còn con, con lại làm bằng yêu thương - Của cha và của mẹ - Của bà và của ông - Của má nữa, biết không... Con là kết tinh, là tình yêu hội tụ lại mà thành. Tình yêu ấy, yêu thương ấy là của cha mẹ, ông bà, và hơn thế: Con làm bằng tất cả!
Xuân Quỳnh làm thơ, và kể chuyện cho con bằng thơ. Và, những lời ru trên mặt đất dành cho con, cho khoảng trời tuổi thơ êm dịu cũng bằng thơ. Bầu trời trong quả trứng là câu trả lời về những khát vọng bé bỏng, về những tâm tình yêu thương; “Trời xanh của mỗi người” lại vẽ nên những hoài niệm, những mong ngóng, những vết thương loang lổ sau chiến tranh, là những khát khao khám phá, là hướng vọng tương lai; “Tuổi ngựa” đưa người đọc tí hon về với cuộc phiêu lưu của tuổi, với đôi cánh muốn được bay xa, với đôi chân mang theo nắng và gió của trăm miền nhưng đọng lại cuối cùng là con đường phía sau lưng, nơi có Mẹ... Có những bài thơ là câu hỏi, có những bài thơ là sự “cắt nghĩa”, là lời nhắn nhủ “Con chẳng biết được đâu”. Có những điệu nhạc chỉ dành riêng cho một người (với những lời đề tặng: viết cho Tuấn Anh, tặng Minh Vũ, tặng Quỳnh Thơ...), có những cung bậc lại là niềm ấp ủ cho biết bao tuổi thơ ngày hôm qua và hôm nay nữa. Nhưng dù viết cho riêng ai chăng nữa, trong Xuân Quỳnh là tất cả yêu thương:

Của con đấy con ơi
Đều của con tất cả
Cái màu xanh trên cửa
Cái bông hoa cuối vườn...
... Là của con cả đó
Cả mẹ cũng của con.


Để rồi, khi câu hỏi gợi chị về với sự nũng nịu được vỗ về: “Của con sao nhiều thế?”, Xuân Quỳnh ngập tràn trong hạnh phúc yêu và được yêu:

Ừ của con nhiều quá
Nhưng mẹ lại nhiều hơn
Vì tất cả của con
Mà con là của mẹ.


Bắt đầu với những câu hỏi, trọn vẹn yêu thương trong từng câu trả lời, một cách giản dị, Xuân Quỳnh đem đến thế giới tuổi thơ một định nghĩa về tình yêu. Tình yêu ấy được thắp bởi những dòng ánh sáng của ban mai, thanh khiết như giọt sương trong trẻo, tình yêu ấy có trong từng sợi nắng ngọt, có ở cả cái cựa mình lặng lẽ khi gà mẹ ấp iu ổ trứng... Một đời người quá ngắn ngủi để hiến dâng mật ngọt cho thơ, nhưng với rất nhỏ bé những câu trả lời, Xuân Quỳnh đã để lại trong cõi thi ca một hình ảnh Mẹ lấp lánh, thiết tha, một niềm thương mà mỗi tuổi ấu thơ không bao giờ quên được.

N.Q
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

chipbong

Bài của Chu Văn Sơn hay quá, cảm ơn bạn Đồ Nghệ nhé.
Chỉ hơi tiếc là bây giờ mình mới được đọc...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

quankts

Biển Và Em
Tác giả: Xuân Quỳnh

Rì rào tiếng sóng vỗ nghe em
Gió hiu hiu thổi thật êm đềm
Xa xa chim bay từng đàn nhỏ
Ai ngồi ai nhớ dáng hình em...

Hoàng hôn vừa xuống trên biển vắng
Cá luôn đuổi nhau nhẹ tung tăng.
Sao lòng tôi thoảng nghe nặng trĩu
Nhớ đôi mắt "Người", đẹp tựa trăng

Nhớ một buổi chiều trên biển này
Gió đưa hạt cát nhẹ nhẹ bay
Vờn trên má em, hay hay đó...
Em đùa với sóng thật vui say...
[URL=http://anhso.net/quankts/photo/6621200/560x207-zps348c1ef8/]http://direct2.anhso.net/original/15/152870/1242013104653618.jpg[/URL]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 2 trang (17 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]