Trang trong tổng số 4 trang (37 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Hà Như


LÝ TRÃI
Giới thiệu tác giả
Lý Trãi 李廌 (1059-1109); nhà thơ Bắc Tống, tên chữ là Phương Thúc, người Hoa Châu (nay là huyện Hoa Thiểm Tây). Ông mồ côi từ nhỏ, Tô Thức biết ông qua chữ nghĩa; thi tiến sĩ năm đầu Nguyên Hựu không đậu, dâng thư nói về tình hình biên ải. Lúc bấy giờ cho là phải, nhưng chưa được việc gì ông đã mất, là một trong “Tô môn lục tử”. Tác phẩm có “Tế nam tập”.

李廌
飲 襄 陽 沈 氏 家 醉 題 侍 兒 小 瑩 裙 帶
旋 剪 香 羅 列 地 垂
嬌 紅 嫩 綠 寫 珠 璣
花 前 欲 作 重 重 結
系 定 春 光 不 放 歸

Phiên âm:
Ẩm Tương Dương Thẩm thị gia túy đề thị nhi Tiểu Oánh quần đái
Toàn tiễn hương la liệt địa thùy,
Kiều hồng nộn lục tả châu ky.
Hoa tiền dục tác trùng trùng kiết,
Hệ định xuân quang bất phóng quy.

Dịch nghĩa:
Uống rượu trong nhà họ Thẩm ở Tương Dương, say đề vào đai quần gái  hầu Tiểu Oánh
Giải lụa thướt tha rủ trên mặt đất,
Đề châu ngọc vào giải lụa hồng, biếc mềm mại.
Trước hoa muốn đem giải lụa kết thành lớp lớp,
Buộc chặt lấy ánh xuân không thả cho đi.

Dịch thơ: Lê Xuân Khải
Giải lụa xoay tròn rủ thướt tha,
Biếc hồng duyên dáng ngọc châu đề.
Trước hoa lớp lớp toan cài thắt,
Giữ mãi ngày xuân chẳng thả ra.



Chú thích:
Hẳn là Tác giả có biệt nhãn đối với Tiểu Oánh, nên mới có việc đề thơ đai quần; sau khi yến tiệc say sưa, muốn giữ mãi mãi ngày đẹp đẽ của đời người con gái

Hà Như sưu tầm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hà Như


Giới thiệu tác giả
Lưu Tử Huy 劉子翬 (1101- 1147), tên chữ là Ngạn Xung 彦冲, người Sùng Yên ( nay thuộc tỉnh Phúc Kiến), từng làm thông phán quận Hưng Hoá, sau lui về ở Bình San quê nhà dạy học, mọi người gọi là Bình San tiên sinh: ônglà nhà lý học thời đầu Nam Tống. Thơ ông biểu hiện tư tưởng lo nước, thương thời.
Xin giới thiệu một số bài thơ của Ông chưa có trên Thi viện

汴 京 紀 事 其 一
劉子翬
內 苑 珍 林 蔚 絳 霄
圍 城 不 復 禁 芻 蕘  
舳 艫 歲 歲 銜 清 汴  
才 足 都 人 幾 炬 燒  

Phiên âm:
BIỆN KINH KỶ SỰ KỲ I
Nội uyển trân lâm uất Giáng Tiêu,
Vi thành bất phục cấm sô nhiêu.
Trục lô tuế tuế hàm Thanh Biện,
Tài túc đô nhân kỷ cự thiêu.

Dịch nghĩa:
GHI CHÉP Ở BIỆN KINH I
Cây quý trong vườn thượng uyển rợp lầu Giáng Tiêu
Thành bị vây không cấm chặt củi
Nhiều năm thuyền bè chở cây đến Biện Kinh
Cũng chỉ đủ cho dân đô thành làm mấy bó củi.

Dịch thơ:
Thượng uyển Giang Tiêu rợp bóng xanh
Củi không cấm chặt, giặc vây thành
Thuyền bè chuyên chở về kinh mãi
Chỉ đủ dân đô chia mấy cành.

Lê Xuân Khải dịch

Chú thích:
Giáng Tiêu: lầu trong Thưọng uyển

Hà Như sưu tầm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hà Như


汴 京 紀 事 其 二
劉子翬
空 嗟 覆 鼎 誤  前 朝
骨 朽 人 間 罵 未 銷   
夜 月 池 臺 王 傅 宅
春 風 楊 柳 太 師 橋

Phiên âm:
BIỆN KINH KỶ SỰ KỲ II
Không ta phúc đỉnh ngộ tiền triều,
Cốt hủ nhân gian mạ vị tiêu.
Dạ nguyệt trì đài Vương phó trạch,
Xuân phong dương liễu Thái sư kiều.

Dịch nghĩa:

GHI CHÉP Ở BIỆN KINH II
Chỉ còn biết phàn nàn làm đổ đỉnh, hỏng cơ nghiệp của triều trước
Xương dù nát đời vẫn chưa hết lời chửi rủa
Đêm trăng hồ, đài nhà Vương phó
Gió xuân mành liễu cầu Thái sư.

Dịch thơ:
Đổ đỉnh than triều nghiệp đã tan
Còn lời đời chửi dẫu xương tàn
Hồ, đài trăng chiếu nhà Vương phó
Cầu liễu Thái sư đón gió xuân

Lê Xuân Khải dịch

Chú thích:
Phúc đỉnh: làm đổ đỉnh, ví như làm bại hoại quốc gia đại sự.
Vương phó trạch: Vương Phủ, Tể tướng đời Tống Huy Tông, rất hung ác, bóc lột tiền dân, bị liệt vào một trong “Lục tặc”, nhà rộng hàng mấy trăm dặm vuông.
Thái sư kiều: cây cầu nhà Thái Kinh, Thái sư đời Tống Huy Tông, đứng đầu “Lục tặc”. Nhà hắn có chu vi đến mấy chục dặm, năm đầu Tĩnh Khang đã bị đốt trụi. Đây nhắc đến dấu vết cũ.

Hà Như sưu tầm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hà Như


汴 京 紀 事 其 三
劉子翬
梁園歌舞足風流
美酒如刀解斷愁
憶得少年多樂事
夜深燈火上樊樓

Phiên âm:
BIỆN KINH KỶ SỰ KỲ III
Lưu Tử Huy
Lương viên ca vũ túc phong lưu
Mỹ tửu như đao giải đoạn sầu
Ức đắc thiếu niên đa lạc sự
Dạ thâm đăng hỏa thưởng Phàn Lâu


Dịch nghĩa:
GHI CHÉP Ở BIỆN KINH III
Ca múa ở vườn Lương cũng đủ thú vui
Rượu ngon như dao, cắt được nỗi buồn
Nhớ lại thời trai trẻ, có nhiều vui thú
Đêm khuya đốt đèn đến lầu Phàn


Dịch thơ:
Vườn Lương ca múa đủ phong lưu
Rượu quý như dao cắt nỗi sầu
Vui thú thời trai nay nhớ lại
Đốt đèn khuya khoắt đến Phàn Lâu

Lê Xuân Khải dịch

Chú thích:
Bài này tuyển từ quyển 18 "Lưu Bình Sơn tiên sinh tập" bản Khắc Thanh Khang Hy.
Lương Viên: Nay ở phía đông nam thành phố Khai Phong do Lương Hiếu Vương nhà Hán làm, là thắng địa thăm thú lúc bấy giờ. Đến nhà Tống sớm đã hoang tàn ở đây dùng để chỉ chung mọi nơi vui chơi ở Biện Kinh.
Phàn lâu: Lầu rượu nổi tiếng ở Biện Kinh, lại có tên là Phong lạc lâu.

Hà Như sưu tầm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hà Như


汴 京 紀 事 其 四
劉子翬
輦轂繁華事可傷
師師垂老過湖湘
縷衣檀板無顏色
一曲當時動帝王

Phiên âm:
BIỆN KINH KỶ SỰ KỲ IV
Liễn cốc phồn hoa sự khả thương
Sư sư thuỳ lão quá Hồ Tương
Lũ y đàn bản vô nhan sắc
Nhất khúc đương thì động đế vương

Dịch nghĩa:
GHI CHÉP Ở BIỆN KINH IV
Xa giá nhà vua, mọi sự phồn hoa thực đáng thương
Khi già Sư Sư qua vùng Hồ Tương
Khúc kim lũ, bản gỗ đàn, nhan sắc không còn
Thuở đương thì, một khúc làm động lòng đế vương

Dịch thơ:
Xa giá phồn hoa thực đáng thương
Sư Sư có tuổi đến Hồ Tương
Bản đàn kim lũ tàn nhan sắc
Một khúc đương thì động đế vương

Lê Xuân Khải dịch

Chú thích:
Liễn cốc: xe ngựa của vua dùng, đây mượn để chỉ kinh thành.
Sư Sư: kỹ nữ nổi tiếng ở Biện Kinh, được Tống Huy Tôn cặp kè. Danh sĩ bấy giờ là: Chu Bang Ngạn, Triều Xung Chi; khi làm thơ, từ đều có đề cập đến nàng. Theo Vô Danh thị đời Tống "Lý Sư Sư ngoại truyện": Sau khi quân Kim vào Biện Lương, nàng không chịu khuất thân với người Kim nên nuốt trâm tự sát. Nhưng theo "Tam triều bắc minh hội biên" và "Mặc trang mạn lục" chép: cuối đời, nàng từng lưu lạc đến Hồ Nam và Chiết Giang. Lưu Tử Huy dùng thuyết sau. Thông qua so sánh trước và sau của Lý Sư Sư để phản ánh cảnh thịnh suy của Biện Kinh lúc bấy giờ.
Đàn bản: Phách hát làm bằng gỗ đàn.
Lũ y: tức kim lũ y, một khúc hát.

Hà Như sưu tầm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hà Như


Ghi chú:
Loạt Bài Biện kinh ký sự 汴 京 紀 事
của Lưu Tử Huy 劉子翬 trên đây nằm trong 20 bài có chung đề mục Biện kinh ký sự, nên sự đánh số Kỳ Nhất, Kỳ nhị .. chỉ mang tính nội bộ trong trang.
Nếu có nhu cầu tra cứu, xin mời bạn đọc xem thêm tại Link
http://www.sou-yun.com/QueryPoem.aspx
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hà Như


Giới thiệu tác giả
Dương Vạn Lý 楊萬里 (1127 - 1206), nhà thơ Nam Tống, tên chữ là Đình Tú hiệu là Thành Trai, người Cát Thủy (nay thuộc Giang Tây). Tiến sĩ năm Thiệu Hưng thứ 24, trải qua chức: Vĩnh Châu Linh Lăng các học sĩ. Ông làm quan ở triều không sợ quyền thế, ngay thẳng dám nói, chăm lo việc nước, chủ trương chống Kim, mọi người đều khen thơ ông, ban đầu học phái Giang Tây, sau học Vương An Thạch và thất tuyệt vãn Đường. Bấy giờ gọi là: “Thể Thành Trai”, nổi tiếng ngang với Vưu Mậu, Phạm Thành Đại, Lục Du, gọi là Nam Tống tứ gia. Tác phẩm có: “Thành Trai Tập”.
Dưới đây là một số bài của Dương Vạn Lý

楊萬里
閒居初夏午睡起
梅子留酸軟齒牙
芭蕉分綠與窗紗
日長睡起無情思
閒看兒童捉柳花

Phiên âm:
NHÀN CƯ SƠ HẠ NGỌ THỦY KHỞI
Dương Vạn Lý

Mai tử lưu toan nhuyễn xỉ nha
Ba tiêu phân lục dữ song sa
Nhật trường thuỵ khởi vô tình tứ
Nhàn khán nhi đồng tróc liễu hoa


Dịch nghĩa:
ĐẦU HÈ Ở RẢNH NGỦ TRƯA DẬY
Mơ đọng lại vị chua mềm cả răng
Lá chuối hắt màu xanh vào rèm sa cửa sổ
Ngày dài ngủ dậy chẳng nghĩ ngợi gì
Nhàn xem bọn trẻ đuổi bắt hoa liễu bay


Dịch thơ:
Mềm răng mơ để vị còn chua
Tầu chuối hắt xanh cửa rủ sa
Tỉnh giấc ngày dài không nghĩ ngợi
Nhàn xem trẻ đuổi liễu bay hoa

Lê Xuân Khải dịch

Chú thích:
(1) Bài này tuyển từ “Thành trai tập” bản tứ khó trị yếu.
(2) Nhuyễn xỉ nha: ăn của chua xong, có cảm giác như mềm răng ra. Bài này thể hiện tâm tình nhàn tản thảnh thơi của nhà thơ khi đã về hưu nhàn. Hai câu sau miêu tả lòng mình và nét sinh hoạt ngày ngây thơ của trẻ nhỏ, kính đáo nêu lên tâm hồn theo đuổi cuộc sống tiến lên với sức sống đầy đủ của lớp trẻ.


Hà Như sưu tầm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hà Như


楊萬里
過松源晨炊漆公店

莫言下嶺便無難
賺得行人錯喜歡
正入萬山圈子里
一山放出一山攔


Phiên âm:
QUÁ TÙNG NGUYÊN THẦN XUY TẤT CÔNG ĐIẾM
Dương Vạn Lý
Mạc ngôn hạ lĩnh cánh vô nan
Hiềm đắc hành nhân thác hỷ hoan
Chính nhập vạn sơn khuyên tử lý
Nhất sơn phóng xuất nhất sơn lan


Dịch nghĩa:
QUA TÙNG NGUYÊN NẤU CƠM SÁNG Ở TẤT CÔNG ĐIẾM
Đừng cho là đã xuống núi là không còn khó khăn
Làm cho người xuống núi mừng hụt
Đã vào giữa vòng của muôn núi
Một núi thả ra lại có núi khác chắn lại


Dịch thơ:
Xuống núi đừng cho hết khó khăn
Khách nhầm nên cứ thấy vui tràn
Đã vào vòng của muôn trùng núi
Một núi thải ra núi khác ngăn

Lê Xuân Khải dịch

Chú thích:
Bài này tuyên từ “Thành Trai tập” bản tứ bộ bị yếu. Từng Nguyên tên đất, nay ở cách 60 dặm về phía đông huyện Tiêu Lĩnh Quảng Đông. Tác giả làm bài này trên đường đến Kiến Khang Giang Đông là phó sứ chuyển vận, với thâm ý là người ta không được lạc quan tếu trước công việc.

Hà Như sưu tầm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hà Như


楊萬里
初入淮河 I

船 離 洪 澤 岸 頭 沙
人 到 淮 河 意 不 佳  
何 必 桑 乾 方 是 遠
中 流 以 北 即 天 涯

Phiên âm:
SƠ NHẬP HOÀI HÀ I
Dương Vạn Lý
Thuyền ly Hồng trạch ngạn đầu sa,
Nhân đáo Hoài Hà ý bất gia (giai).
Hà tất Tang Cân phương thị viễn,
Trung lưu dĩ bắc túc thiên nha (nhai).

Dịch nghĩa:
BẮT ĐẦU VÀO SÔNG HOÀI (Bài I)
Thuyền rời bờ hồ Hồng Trạch,
Vào sông Hoài thấy lòng dạ không vui.
Phải đến sông Tang Càn mới là xa đâu,
Từ trung lưu trở về bắc đã là chân trời.

Dịch thơ:
Thuyền rời Hồng Trạch đi chưa mấy
Buồn chốn sông Hoài, theo nước chảy
Phải đến Tang Càn có phải xa
Phía bắc, chân trời đã chợt thấy.

Trần Thế Hào dịch

Chú thích:

(1) Hồ Hồng Trạch: nay ở phía tây tỉnh Giang Tô. Con đường thủy từ sông Hoài đến Hồ Hồng Trạch do Bắc Tống đào là một đường vận tải sông chủ yếu.
(2) Tang Càn: tên sông, thượng du của sông Vĩnh Định. Bắt nguồn từ núi Quản Sầm tỉnh Sơn Tây, chảy qua phía bắc tỉnh Hà Bắc. Thời Nam Tống, khu vực Tang Càn rơi vào tay Kim.
(3) Trung lưu: chỉ đoạn giữa sông Hoài. Từ năm thứ 11 Thiệu Hưng (1141) Nam Tống ký với Kim một bản hoà ước, một giải thành ở đây (trung lưu sông Hoài) làm giới tuyến của hai bên. Câu này nói: biên giới Nam Tống đâu còn ở Tang Càn xa xôi mà ngay ở sông Hoài đây cũng đã trở thành biên giới phía bắc của Nam Tống

Hà Như sưu tầm


楊萬里
初入淮河 II

兩岸舟船各背馳
波痕交涉亦難為
只余鷗鷺無拘管
北去南來自在飛

Phiên âm:
SƠ NHẬP HOÀI HÀ II
Dương Vạn Lý
Lưỡng ngạn chu thuyền các bội trì
Ba ngân giao thiệp diệc nan vi
Chỉ dư âu lộ vô câu quản
Khứ Bắc Nam lại tự tại phi

Dịch nghĩa:
BẮT ĐẦU VÀO SÔNG HOÀI (Bài II)
Thuyên mỏng đôi bờ đi lại trái chiều nhau
Sóng gặp nhau không thành nếp vào vụn ra
Chỉ có cò mòng không bị gò bó
Mặc lòng bay lên Bắc về Nam

Dịch thơ:
Thuyền mảng đôi bờ lướt ngược nhau
Vụn không thành nếp sóng xô mau
Cò mòng không chịu trong gò bó
Lên Bắc về Nam chẳng khó đâu

Lê Xuân Khải dịch

Chú thích:


Hà Như sưu tầm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hà Như


楊萬里
夏夜追涼

夜熱依然午熱同
開門小立月明中
竹深樹密蟲鳴裏
時在微涼不是風

Phiên âm:
HẠ DẠ TRUY LƯƠNG
Dương Vạn Lý
Dạ nhiệt y nhiên ngọ nhiệt đồng
Khai môn tiểu lập nguyệt minh trung
Trúc thâm thụ mật trùng minh lý
Thời hữu vi lương bất thị phong


Dịch nghĩa:
HÓNG MÁT ĐÊM HÈ
Nóng ban đêm chẳng kém nóng giữa trưa
Mở cửa ra ngoài đứng dưới ánh trăng
Nơi bụi tre dày rậm có tiếng sâu kêu
Thỉnh thoảng có mát, nhưng không phải gió


Dịch thơ:
Đêm nóng mà so chẳng kém trưa
Ra ngoài hóng dưới ánh trăng lùa
Trúc tre dày rậm sâu ran tiếng
Thỉnh thoảng mát người tựa gió đưa

Trần Thế Hào dịch

Chú thích:


Hà Như sưu tầm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 4 trang (37 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] ›Trang sau »Trang cuối