Trang trong tổng số 9 trang (86 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

nguyetthao

Lúc bấy giờ, 1962, thành phố Qui Nhơn hãy còn tiêu điều xơ xác. Ngay con đường chính Gia Long, chạy dài từ Núi Một (Ga xe lửa) đến bến cảng hãy còn nhiều ngôi nhà vô chủ, đổ nát hoang tàn trong chiến tranh chưa có ai dọn dẹp. Đường Lê Lợi chạy từ trung tâm phố thẳng ra biển còn rất nhiều nhà tranh, vách lá.

Vẽ lại một vài hình ảnh cũ để cho thấy chính phủ lúc ấy có dụng ý khi cho xây cất hai ngôi trường đồ sộ tại đây. Mỗi năm hai trường qui tụ hơn một ngàn giáo sinh và học sinh kỹ thuật khắp nơi đổ về. Nền kinh tế tại đây đã nhanh chóng phục hồi.

Để quảng bá rộng rãi cho nhiều nơi biết về trường Sư Phạm, Ban Giám Đốc nhà trường cho thành lập một ban văn nghệ. Trịnh Công Sơn được bầu làm trưởng ban, chịu trách nhiệm tổng quát. Thanh Hải, phó ban thứ nhất, trách nhiệm về nhạc. Võ Văn Phòng, phó ban thứ hai, trách nhiệm về kịch. Một vỡ kịch thơ dài 45 phút nhan đề "Tiếng Cười Bao Tự" được dàn dựng. Tôi được chọn để thổi sáo đệm thơ. Nhân dịp này tôi mới biết và quen với Trịnh Công Sơn.

Một chương trình đại qui mô gồm đủ các tiết mục ca, múa, nhạc, kịch được Ban Văn nghệ hoạch định. Thêm vào đó là một tổ phụ trách ánh sáng. (Lúc đó rất hiện đại và tân kỳ. Dùng đèn chiếu slide làm hậu cảnh thay đổi mỗi màn trình diễn khác nhau. Dùng đèn quay, chớp chớp đổi màu rất đẹp mắt) Buổi trình diễn được ra mắt đúng ngày "Song Thất" năm đó, chứ không phải ngày mãn khóa như ông Đinh Cường nói.

Trong thời gian này, Trịnh Công Sơn sáng tác trường ca "Tiếng Hát Dã Tràng" hay gọi gọn hơn là "Dã Tràng Ca" để làm tiết mục mở màn. Đây là tiết mục công phu và đặc sắc nhất. Ban hợp xướng gồm năm mươi người gồm nam lẫn nữ do Sơn thử giọng tất cả các mầm non văn nghệ và chọn lọc. Anh đã khổ công tập ráo riết trong ba tháng trời, xen kẻ giữa những giờ học, và đã thành công vượt mức trước sự ngạc nhiên đầy thích thú và khen ngợi của quan khách và công chúng. Tiếng vỗ tay đã kéo dài rất lâu.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

nguyetthao

Rất tiếc, tôi không có chân trong ban hợp xướng, nên không thuộc trường ca này. Chỉ nhớ lõm bõm vài câu, xin ghi lại cho vui.


Tiếng Hát Dã Tràng hay Dã Tràng Ca.
(Tiếng vọng) Dã tràng... Dã tràng... Dã tràng...
Dã tràng xe cát biển Đông... Dã tràng xe cát hoài công...
(Tiếng trống Bass dồn dập, thúc dục):
Trùng dương ơi... Trùng dương ơi vỗ sóng vào bờ...
....(quên)...
Thôi... còn gì nữa đâu... Còn gì nữa đâu... Đời lên cơn đau! Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn mùa làm rét mướt... Tôi gọi tên tôi giữa nước non ngàn...

Tôi chỉ nhớ đại khái vậy. Hiện nay, tại thành phố Lawrence, Mass, có anh Nguyễn Văn Tấn, Cali có chị Hồ thị Nghị trước ở trong ban hợp xướng, chắc còn nhớ. Bốn mươi năm đã qua rồi, còn gì!

Cũng trong thời gian học Sư Phạm, Sơn còn sáng tác thêm những nhạc phẩm khác như "Biển Nhớ", "Nhìn Những Mùa Thu Đi", "Nắng Thủy Tinh". Hầu như tất cả giáo sinh đều biết và ngâm nga những bài này. Ngoài ra Sơn cũng sáng tác một vài bài vui, ngắn để chúng tôi khi đi thực tập tại các trường dạy cho các em hát.  (  còn  tiếp  )
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Biển nhớ

http://suutap.com/trinhcongson/tcs119.jpg
http://suutap.com/trinhcongson/tcs62.jpg

Biển Nhớ
--- Trịnh Công Sơn ---

Ngày mai em đi
Biển nhớ tên em gọi về
Gọi hồn liễu rũ lê thê
Gọi bờ cát trắng đêm khuya

Ngày mai em đi
Đồi núi nghiêng nghiêng đời chờ
Sỏi đá trông em từng giờ
Nghe buồn nhịp chân bơ vơ

Ngày mai em đi
Biển nhớ em quay về nguồn
Gọi trùng dương gió ngập hồn
Bàn tay chắn gió mưa sang

Ngày mai em đi
Thành phố mắt đêm đèn mờ
Hồn lẻ nghiêng vai gọi buồn
Nghe ngoài biển động buồn hơn

Hôm nào em về
Bàn tay buông lối ngỏ
Đàn lên cung phím chờ
Sầu lên đây hoang vu

Ngày mai em đi
Biển nhớ tên em gọi về
Trùng dương ướt đẫm cơn mê
Trời cao níu bước sơn khê

Ngày mai em đi
Cồn đá rêu phong rủ buồn
Đèn phố nghe mưa tủi hồn
Nghe ngoài trời giăng mây tuôn

Ngày mai em đi
Biển có bâng khuâng gọi thầm
Ngày mưa tháng nắng còn buồn
Bàn tay nghe ngóng tin sang

Ngày mai em đi
Thành phố mắt đêm đèn vàng
Nửa bóng xuân qua ngập ngừng
Nghe trời gió lộng mà thương.
1962
Tượng Thờ dù đổ vẫn thiêng
Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Biển nhớ

http://suutap.com/trinhcongson/tcs60.jpg
http://suutap.com/trinhcongson/tcs31.jpg

Cát Bụi
--- Trịnh Công Sơn ---

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ôi cát bụi tuyệt vời
Mặt trời soi một kiếp rong chơi

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi
Ôi cát bụi mệt nhoài
Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi

Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một ngày

Mặt trời nào soi sáng tim tôi
Để tình yêu xay mòn thành đá cuội
Xin úp mặt bùi ngùi
Từng ngày qua mỏi ngóng tin vui

Cụm rừng nào lá xác xơ cây
Từ vực sâu nghe lời mời đã dậy
Ôi cát bụi phận này
Vết mực nào xóa bỏ không hay.
1965
Tượng Thờ dù đổ vẫn thiêng
Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Cô Chu

Tôi rất tâm đắc với lời nhận xét của nhà văn Vũ Thư Hiên: Trịnh Công Sơn là một nhà thơ, nhạc chỉ là cái xe tải anh lắp để chở thơ anh đến với chúng ta. Những câu như "Chiều nay em ra phố về. Thấy đời mình là những chuyến xe" hay "Sen hồng một độ. Em hồng một thuở xuân xanh" quả thực là những câu thơ tuyệt diệu.
@nguyetthu: Khi bạn nằm ngoài vỉa hè phòng hồi sức tích cực bệnh viện Việt Đức trong đêm mưa mùa đông Hà Nội có lẽ sẽ thấm thía hơn khi nghe "đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng, nắng vàng phai như một nỗi đời riêng..." tôi cũng rất thích bài này.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Biển nhớ

Diễm Xưa

Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu

Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ
Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua
Trên bước chân em âm thầm lá đổ
Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa

Chiều nay còn mưa sao em không lại
Nhớ mãi trong cơn đau vùi
Làm sao có nhau, hằn lên nỗi đau
Bước chân em xin về mau

Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
Làm sao em nhớ những vết chim di
xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Để người phiêu lãng quên mình lãng du

Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
Làm sao em biết bia đá không đau
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.
____________________
Như Cánh Vạc Bay


Nắng có hồng bằng đôi môi em
Mưa có buồn bằng đôi mắt em
Tóc em từng sợi nhỏ
rớt xuống đời làm sóng lêng đênh
Gió sẽ mừng vì tóc em bay
cho mây hờn ngủ quên trên vai
Vai em gầy guộc nhỏ
như cánh vạc về chốn xa xôi
Nắng có còn hờn ghen môi em
Mưa có còn buồn trong mắt trong
Từ lúc đưa em về....
Là biết xa nghìn trùng...
Suối đón từng bàn chân em qua
lá hát từ bàn tay thơm tho
Lá khô vì đợi chờ
cũng như đời người mãi âm u
Nơi em về ngày vui không em
nơi em về trời xanh không em
Ta nghe nghìn giọt lệ
rớt xuống thành hồ nước long lanh.
________________

Tình Xót Xa Vừa

Xin vỗ tay cho đều,
khi đêm đổ xuống đời ta
Xin vỗ tay cho đều,
khi tình trôi đã trôi xa
Nụ cười đã cuốn ta đi
một ngày lại thấy ta về
Xin đứng yên trong chiều,
trên môi thở khói quạnh hiu
Xin đứng yên trong chiều,
phơi tình cho nắng khô mau
Về đây thân xác hư hao,
đêm đêm nằm nghe lá
than van chút niềm đau ngọt ngào.

Một ngày trên vai
bão tố nguôi ngoai
Nh́ìn đời quanh đây
hết những mê say
Lòng chùng đam mê
sớm tối qua đi ơ hờ
Từng ngày chôn chân
nhớ phố lang thang
Đời tình nuôi quên
những sáng mênh mông
Trả lại hôm nay
bốn phía thinh không ngỡ ngàng.

Xin vỗ tay cho đều
trong tim giọt máu vừa khô
Xin vỗ tay cho đều
môi người thôi những âm ba
Một lời tình cuối vu vơ
một ngày tình xót xa vừa
Xin đứng yên trong chiều
lao xao từng bóng hoàng hôn
Xin đứng yên trong chiều
treo tình trên chiếc đinh không
Gập ghềnh nhiều kiếp lưu vong
ta lăn đời đã quá đôi tay
vẫn còn ôm mịt mùng.
_______________

Một Cõi Đi Về

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi xuốt trăm năm một cõi đi về

Lời nào của cây lời nào cỏ lạ
Một chiều ngồi say một đời thật nhẹ ngày qua
Vừa tàn mùa xuân rồi tàn mùa hạ
Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về chốn xa

Mây che trên đầu và nắng trên vai
Đôi chân ta đi sông còn ở lại
Con tim yêu thương vô tình chợt gọi
Lại thấy trong ta hiện bóng con người

Nghe mưa nơi nầy lại nhớ mưa xa
Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ
Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ
Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà

Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụy
Một bờ cỏ non một bờ mộng mị ngày xưa
Từng lời tà dương là lời mộ địa
Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe

Trong khi ta về lại nhớ ta đi
Đi lên non cao đi về biển rộng
Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng
Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì

Trong khi ta về lại nhớ ta đi
Đi lên non cao đi về biển rộng
Hôm nay ta say ôm đời ngủ muộn
Để sớm mai đây lại tiếc xuân thì
Tượng Thờ dù đổ vẫn thiêng
Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

thanhbinh82_tp

RU TA NGẬM NGÙI

Môi nào hãy còn thơm
Cho ta phơi cuộc tình
Tóc nào hãy còn xanh
Cho ta chút hồn nhiên
Tim nào có bình yên
Ta rêu rao đời mình
Xin người hãy gọi tên

Khi tình đã vội quên
Tim lăn trên đường mòn
Trên giọt máu cuồng điên
Con chim đứng lặng câm
Khi về trong mùa đông
Tay rong rêu muộn màng
Thôi chờ những rạng đông

Xin chờ những rạng đông
Đời sao im vắng
Như đồng lúa gặt xong
Như rừng núi bỏ hoang
Người về soi bóng mình
Giữa tường trắng lặng câm

Có đường phố nào vui
Cho ta qua một ngày
Có sợi tóc nào bay
Trong trí nhớ nhỏ nhoi
Không còn không còn ai
Ta trôi trong cuộc đời
Không chờ không chờ ai

Em về hãy về đi
Ta phiêu du một đời
Hương trầm có còn đây
Ta thắp nốt chiều nay
Xin ngủ trong vòng nôi
Ta ru ta ngậm ngùi
Xin ngủ dưới vòm cây.
Dẫu em có nghi ngờ ! Ngôi sao là ánh lửa ! Mặt trời di chuyển chỗ ! Chân lý là dối lừa ! Nhưng em chớ nghi ngờ ! Tình yêu Anh em nhé
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

thanhbinh82_tp

QUỲNH HƯƠNG

Ta mang cho em một đoá quỳnh
Quỳnh thơm hay môi em thơm
Em mang cho ta một chút tinh
Miệng cười khúc khích trên lưng
Đêm ngày đêm buồn bã với những môi hôn
Trong vườn trăng vừa khép những đoá mong manh
Ta mang cho em một chút buồn
Đời ta như sông lênh đênh
Em mang cho ta một cánh hồng
Lụa là phút ấy chưa quên
Thôi chào em về giữa phố xá thênh thang
Không gì vui thì hãy gắng nhớ đôi lần.
Dẫu em có nghi ngờ ! Ngôi sao là ánh lửa ! Mặt trời di chuyển chỗ ! Chân lý là dối lừa ! Nhưng em chớ nghi ngờ ! Tình yêu Anh em nhé
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Xuyên Tuyết

Tình cờ mình đọc được bài này, có nhắc đến một ca khúc nổi tiếng ở châu Âu "Chủ nhật buồn"... Nhớ, Trịnh Công Sơn hình như cũng có nhắc đến "Chủ Nhật Buồn".. mình post tạm vào đây các bạn đọc cho vui. Nếu mà thấy không hợp topic thì mình sẽ chuyển nhé:

CHỦ NHẬT BUỒN”, CA KHÚC “CHẾT NGƯỜI” CỦA NGƯỜI HUNG

Có một bài ca, xuất phát từ một xứ sở nhỏ bé nằm giữa lòng Đông Âu, đã được dịch ra hơn 100 thứ tiếng trên thế giới (trong đó có cả tiếng Việt và Quốc tế ngữ) và được hơn 50 ca sĩ thể hiện trong vòng 70 năm qua, kể cả những tên tuổi lớn như Billie Holiday, Sarah Vaughan, Ray Charles, Elvis Costello, Marianne Faithfull, Diamanda Galás, Sinéad O'Connor, Sarah McLachlan, Björk, Sarah Brightman...

Ca khúc ấy, có thời từng là khúc hát cửa miệng của nhiều kẻ si tình trước giờ tự vẫn. Cho dù chung cuộc, vào năm 1999, nước Pháp đã chọn nó là bản nhạc tình buồn nhất của thế kỷ XX, nhưng khi vừa chào đời và lan truyền, bài ca đã bị cấm ở nhiều nước vì không ít kẻ đã tự kết liễu cuộc đời dưới ảnh hưởng của nó.

Gần đây nhất, giai điệu bài hát đã vang lên trong bộ phim "Danh sách Schindler" (Schindler’s list), từng được 10 giải Tượng vàng Oscar của đạo diễn lừng danh Steven Spielberg, khiến không ít khán giả đứng tuổi bồi hồi nhớ lại thời thanh xuân.

Đó là ca khúc "Chủ nhật buồn" (Szomorú Vasárnap), nhạc của Seress Rezső, lời thơ của Jávor László và Seress Rezső, ra đời cách đây 73 năm, được coi là thương hiệu tầm cỡ thế giới bậc nhất của Hungary trong âm nhạc, kể từ ngày đó tới giờ.

Cho dù, lạ thay, ngày nay, ở chính quê hương của "Chủ nhật buồn" (Hungary), cũng không mấy ai còn nhớ đến ca khúc. Thanh niên không nhớ, đã đành. Nhưng lớp trung niên cũng chỉ còn biết đến nó qua lời kể của các bậc phụ huynh. Có chăng, chỉ một số rất ít thuộc lớp người đứng tuổi, thỉnh thoảng lẩm nhẩm lại giai điệu bài ca về một thời để yêu và một thời để nhớ...

*

Mùa thu năm 1933. Jávor László, một chàng trai Budapest 26 tuổi, thợ đẽo đá kiêm phóng viên hình sự tờ "Báo 8 giờ", khi ấy hoàn toàn vô vọng với tình yêu đặt ở nơi một thiếu nữ đã là vợ kẻ khác. Trong buổi hẹn hò bí mật cuối cùng, chàng trai tuyên bố chấm dứt hoàn toàn mối quan hệ này, đối với chàng, cô gái không còn tồn tại nữa. Jávor László xin cô gái cho phép chàng giữ một kỷ niệm về mối tình với cô: lưu khuôn mặt cô trong chiếc mặt nạ thạch cao để có thể âu yếm, cưng nựng ngay cả khi đã xa cô!

Bài thơ "Chủ nhật buồn" đã ra đời như thế, nếu chúng ta có thể tin được huyền thoại về nó. Và tại sao lại không tin? Cho dù, một lời lý giải khác cũng đã được đưa ra, ít thi vị hơn nhiều: "Chủ nhật buồn" được lấy cảm hứng sau một đêm thứ Bảy lu bù và nhà thơ chợt tỉnh giấc vì nhận ra anh không còn một xu dính túi!

Dầu sao đi nữa thì tác phẩm cũng được "ra lò", được phổ nhạc và ngay tháng Mười một năm ấy, cả nước Hung đã chìm trong cơn sốt "Chủ nhật buồn".

Các bà các cô quý phái ngồi phủ phục bên chiếc máy hát cũ, nước mắt tuôn trào vì nỗi buồn "thiên thu" của bài hát. Cùng lúc đó, các cô sen cũng cố nghe lỏm và sụt sùi, trong khi đang dọn nhà, lau chùi hoặc nấu nướng.

Kể từ khi văn hào Đức Goethe viết tác phẩm Werther, chưa ai có thể khiến cả châu Âu hướng về mốt... đau buồn tập thể, dẫn đến... tự sát, như thế! Không có gì đáng ngạc nhiên khi Jávor, chàng trai thất tình, bỗng nổi tiếng với bài thơ "Chủ nhật buồn", đã nói với ký giả tờ "Nhật ký Pest" khi nghe phong thanh về thành công "chết người" của mình: "Giờ, người ta nghĩ đến tôi như kẻ đào mồ với chiếc xẻng trong tay". Và nhận xét ấy là chính xác! Bởi lẽ "Chủ nhật buồn" luôn đi kèm với những khái niệm buồn đau tan nát.

Báo chí Hung đương thời đã đăng tải một số mẩu chuyện thú vị, nhưng rùng rợn, liên quan đến ca khúc. Tại một tiệm ăn ở Budapest, một thực khách lăm lăm khẩu súng ngắn và dọa... tự tử, nếu dàn nhạc Tzigane không chơi ngay lập tức "Chủ nhật buồn". Và sau khi được nghe bài ca có sức mạnh thần bí, ông ta gục xuống bàn, nức nở kể lại nỗi buồn của mình dù chẳng ai đề nghị.

Thậm chí, một làn sóng tự sát điên rồ đã diễn ra. Cô gái Kis Eszter, trước khi uống độc dược còn cẩn thận và trau chuốt để bản nhạc "Chủ nhật buồn" lên gối. Một chàng trai nghèo tỉnh lẻ, trái tim nhạy cảm không chịu nổi nỗi u sầu trong bài ca, cũng qua đời vì nhồi máu cơ tim. Ledig László, một nhân viên ngân hàng 23 tuổi, thì dùng súng bắn thẳng vào tim khi đi trên một chiếc taxi, vào đúng một ngày Chủ nhật, vì đêm trước anh đã thức đến sáng và nghẹn ngào trước giai điệu "Chủ nhật buồn".

Người ta nói nhiều đến "Chủ nhật buồn" như một bài ca có ma lực vô cùng đặc biệt, khiến người nghe ảo não, sầu muộn đến độ phải tự tìm đến cái chết. Không thể biết được đâu là sự thật, đâu là chứng cuồng tầm cỡ thế giới, và đâu là món nghề quảng cáo của sự kinh doanh nghề sân khấu. Quả thực, cạnh thi thể nhiều người tự vẫn, có bản nhạc của ca khúc, nhất là ở Hung. Nhưng xứ sở này, dù có “Chủ nhật buồn” hay không, cũng đã được liệt vào hàng những quốc gia hàng đầu thế giới trong các thống kê về số người tự sát. Bởi vậy, cái tít in chữ đậm trên trang nhất tờ "Thời báo New York" (The New York Times) - "Dân Hung tự tử hàng loạt dưới tác động của một bài ca" - có lẽ là quá cường điệu.

Thời kỳ 1935-36, khi bài hát ra đời, nhân loại đang đứng trước cuộc Thế chiến sắp bùng nổ và cuộc khủng hoảng kinh tế đang ở độ trầm trọng. Khi tìm hiểu nguyên do và bản chất của hiện tượng "Chủ nhật buồn", những luận văn "nặng ký" đã không quên điều đó. Tuy nhiên, như mọi người đều nhận thấy, giai điệu đơn điệu, lặp đi lặp lại theo cung đô thứ của bài ca, đã thể hiện một cái gì đó đáng kể. Và quả thực, mỗi thời đại đều có một "bài ca chết người" của mình.

Khi đã rời quê hương, “giáo chủ” Phân tâm học Sigmund Freud, đã nhận thấy sự chứng thực cho thuyết "Sonntagsneurose" (Chứng loạn thần kinh chức năng ngày Chủ nhật) của ông trong bài ca này.

Ở Mỹ, những câu lạc bộ "Chủ nhật buồn" mọc lên như nấm, và đúng lúc nghị sĩ Steven Carl đòi cấm bài hát ở Washington vì sự ủy mị trong ca khúc có thể gây tác động xấu đến giới trẻ, thì ở Paris, người ta dựng tượng tác giả bằng sáp. Coco Chanell thành công trên toàn thế giới với mốt "áo tử thần" màu đen tuyền, và giới mỹ thuật châu Âu chế ra loại đàn dương cầm "Chủ nhật buồn" hình sọ người.

Chỉ vài năm sau khi bài thơ của Jávor László ra đời, "Chủ nhật buồn" - kèm giai điệu của Seress Rezső - đã được dịch ra gần 30 thứ tiếng; bản nhạc và những chiếc đĩa hát "Chủ nhật buồn" tràn ngập thị trường thế giới, reo rắc không khí buồn đau, chết chóc khắp châu Âu, Mỹ, Phi và cả Trung Quốc...

(H.Linh - Nhịp cầu thế giới)
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Xuyên Tuyết

*

CHỦ NHẬT BUỒN”, CA KHÚC “CHẾT NGƯỜI” CỦA NGƯỜI HUNG (tiếp theo)

Thành công của thi phẩm "Chủ nhật buồn" vượt xa mọi mong đợi. Cố nhiên, ngoài sụ đau khổ của Jávor László, cần một ai khác phổ nhạc cho những vần thơ tang tóc đó. Ấy là Seress Rezső, một nhạc sĩ tự học, vụng về nhưng thiên tài:  từ Quận VII bùn lầy nước đọng của thủ đô Budapest, ông đã có một bài ca được các cây đại thụ trong làng nhạc quốc tế xưng tụng. Chỉ cần nhắc một vài cái tên - Louis Armstrong, Bing Crosby, Frank Sinatra, hay Ray Charles -, và sau đó, hễ một ngôi sao quốc tế nào đưa "Chủ nhật buồn" (Gloomy Sunday) vào chương trình của mình, thì họ đã cầm chắc trong tay sự thành công.

Chào đời năm 1899 trong một gia đình gốc Do Thái, tên thật là Spitzer Rudi, tác giả phần nhạc "Chủ nhật buồn" thường được gọi với cái tên "Seress bé nhỏ" vì ông chỉ cao hơn 1m55 chút đỉnh. Cả đời chỉ chơi nhạc  buổi tối ở Kulacs và Kispipa, hai tiệm ăn nhỏ và đầy khói thuốc lá ở Budapest, nơi đầu thập niên 30 từng là nơi gặp gỡ của tầng lớp tiểu thị dân nghèo khó gồm những cặp tình nhân rách mướt, những anh tài-xế say xỉn và những chị gái điếm rẻ tiền.

Như hồi tưởng của người đương thời, chỉ ở giữa tiệm ăn họa chăng còn chút hơi ấm của chiếc lò sưởi gạch màu nâu, chứ khách khứa ngồi gần cửa ra vào vẫn phải mặc nguyên áo khoác vì lạnh lẽo. Hầu như thực khách không mấy khi thấy rõ Seress ngồi khuất sau chiếc dương cầm. Miệng phì phép thuốc lá, giọng khản đặc, chỉ chơi dương cầm kiểu "mổ cò" với hai ngón của bàn tay phải, lần mò tìm nốt nhạc, vậy mà theo lời kể của người đương thời, hàng ngày, từ 6 giờ tối đến rạng sáng, Seress đã tạo nên một bầu không khí "bốc lửa" tại nơi ông chơi nhạc. Sức hấp dẫn của ông là ở đó: cuốn sổ lưu niệm của ông, với thủ bút và ý kiến của những nhân vật lừng danh đương thời cũng xác nhận điều này. (Seress có một cuốn "Sổ vàng" bọc lụa đỏ mà sau khi ông mất, những kẻ thừa kế - trong cơn thất vọng tràn trề - đã quẳng đại vào sọt rác. Hầu như đó là một cẩm nang "Who is who?" của thế kỷ XX với những tên tuổi như Arthur Rubinstein, Jascha Heifetz, Arturo Toscanini, Luchino Visconti, Spencer Tracy, Wallace Beery, Sonja Hennie, John Steinbeck, Louis Armstrong, Ray Charles, Paul Robeson, Cyrus Eaton, U Thant, Benjamino Gigli, Conrad Veldt, George Cukor...)

Ngắn gọn, mà có lẽ chính xác hơn cả, là nhận xét của Otto Klemperer, nhạc trưởng lừng danh người Đức: "Không phải nhạc sĩ - chỉ là thiên tài" (Er ist kein Musiker - er ist ein Genie). Hẳn phải là như thế, vì trong 40 năm ròng rã của đời nghệ sĩ, Seress không hề biết viết, biết đọc bản nhạc, ông cũng không biết hát theo nghĩa thực của từ này. Điều khiến ông thường xuyên có mặc cảm và lo lắng, nhất là khi biết có một nhạc sĩ nổi tiếng nào đó đặt chân đến cái tiệm ăn tồi tàn để nghe ông, là Seress cũng chẳng biết chơi dương cầm một cách “tử tế”. Ấy vậy mà ông vẫn liên tục cho "ra lò" những ca khúc mà đa phần đều rất được ưa chuộng! Cách sáng tác của Seress cũng đặc biệt: vừa huýt sáo, ông vừa ngẫm nghĩ và khi được giai điệu nào "hợp lý", ông nhờ người ghi lại thành bản nhạc. Thô sơ vậy mà trong đa số các trường hợp, chỉ trong ít ngày, từ cậu bé đánh giày, chị người ở đến các bà, các cô thị dân đều hát theo điệu nhạc của Seress, một thành công chắc chắn của sự thành công! Cố nhiên, trong số đó thì "Chủ nhật buồn" là đỉnh cao! Cho dù, không ít người đương thời cho rằng Seress còn ít nhất 40 ca khúc khác, không tồi hơn, thậm chí, có thể còn hay hơn "Chủ nhật buồn"!

Cuộc đời Seress đầy những chi tiết nổi trôi, và thực ra chúng ta cũng không biết được nhiều về ông. Thời thanh niên, qua tấm hình trên tờ quảng cáo, do mê một nữ tài tử xiếc uốn dẻo trên không mà Seress bỏ nhà theo một gánh xiếc và chỉ nhờ một may mắn kỳ lạ mà chàng trai ấy đã không bỏ mạng trong một buổi tập. Về sau, Seress học kịch nghệ và biểu diễn tại một đoàn kịch ở Budapest trong vòng 9 năm. Tại đây, ông tìm thấy một chiếc dương cầm cũ nát và thử những giai điệu đầu tiên trên đó. Lũ trẻ rong chơi ngoài phố, giới quân nhân nghỉ phép và các cô cậu giúp việc là những thính giả đầu tiên của Seress: những tràng pháo tay tán thưởng các ca khúc ngẫu hứng do Seress sáng tác đã khích lệ ông chuyển hẳn sang con đường âm nhạc.

Năm 1925, nhạc phẩm "Một đêm nữa" (Még egy éjszakát) khiến tên tuổi Seress được biết đến trên toàn nước Hung; 16 ngàn bản nhạc được bán ra và đây là kỷ lục thời đó ở Hungary. Năm 1935, báo chí viết về Seress như sau: "Ở nước ngoài, nếu một nhạc sĩ chỉ sáng tác được một phần tư số ca khúc được ưa thích so với Seress, thì người ấy hẳn phải sống vương giả, có nhà lầu 6 phòng, xe hơi, và có thể lựa chọn các hợp đồng phim. Còn Seress thì chơi dương cầm ở một quán nhỏ, thù lao “vương giả” mỗi tối là vài đồng và một bữa tối thanh đạm". Cần biết là thời ấy, muốn sống thoải mái, người Hung cần độ 200 Ft hàng tháng. Ấy vậy mà Serres không buồn ra nước ngoài để nhận thù lao từ các bản nhạc và đĩa hát được bán ra của ông, cho dù, chỉ riêng tại Ngân hàng Irving Trust, người ta đã giữ cho ông khoản tiền 370 ngàn USD (gần 1 triệu rưởi Ft)! Các hợp đồng béo bở của ngoại quốc không khiến ông động lòng, Seress cũng không buồn đến dự buổi hòa nhạc ngày lễ tại Carnegie Hall, cho dù người Mỹ rất muốn tận mắt được thấy tác giả "Chủ nhật buồn" trong dịp đó! Lẽ ra, Seress đã có thể sống giàu có, tiếng tăm như ông hằng mơ ước - vậy mà ông đã lựa chọn những tiểu thị dân, những cô sen, những cậu bé đánh giày... hàng ngày cứ đúng 6 giờ lại  vào quán nghe ông chơi đàn và hát.

Cuối Đệ nhị Thế chiến, vì nguồn gốc Do Thái của mình, Seress Rezső bị bắt vào trại tập trung và phải xa Pest trong vòng 4 năm; đây có lẽ là lần duy nhất ông xa nhà. Trong khoảnh khắc kinh hoàng, khi phải tự đào hồ chôn mình, một sĩ quan Đức từng nghe ông hát “Chủ nhật buồn” tại Budapest đã cứu ông khỏi cái chết chắc chắn.

Sau năm 1945, nước Hung đứng về phe bại trận và gia sản không nhỏ của Seress tại các ngân hàng Mỹ đã bị “đóng băng” với lý do... nước Hung phải bồi thường thiệt hại chiến tranh cho Đồng minh! Chưa hết, nhiều năm dưới thời XHCN, cạnh những nhạc sĩ lừng lẫy của nước Hung như Liszt Ferenc, Bartók Béla, Kodály Zoltán..., cái tên Seress Rezső cũng bị đưa vào danh mục cấm vì chính quyền cộng sản cho rằng các sáng tác của ông mang yếu tố độc hại, hơn nữa, theo cách nói thời bấy giờ, chúng "phục vụ cho chủ nghĩa đế quốc".
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 9 trang (86 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối