Trang trong tổng số 1 trang (3 bài viết)
[1]

Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.

Người xưa - Xuân xưa - Thơ xưa (Phần 1)


I.

Mùa xuân trong tự nhiên hiện lên bằng lộc nõn, hoa thơm.
Mùa xuân trong lòng người được nói lên bằng văn chương, bằng thơ.
Xuân của đất trời bao giờ cũng đẹp, cũng vui, còn xuân trong tâm hồn thì mỗi thời, mỗi người một khác. Cái vui xuân lên tột đỉnh; cái buồn xuân cũng đến tột cùng. Cái vui, cái buồn tột đỉnh, tột cùng ấy đều bật thành cảm xúc thơ, nếu là ở một tài năng thi sĩ. Cái ý ấy hiện rõ khi tôi đọc lại thơ xưa.
Trong kho tàng văn học viết của ông cha ta, thơ xuân chiếm một mảng lớn, và hầu như thơ chỉ có cảm xúc buồn.
Nhưng trong thơ đời Lý còn lại, ngoài một số câu rải rác trong các bài thơ khác nhắc đến cảnh xuân, ý xuân, tôi chỉ được biết hai bài nói về mùa xuân. Tôi dùng chữ "nói về" vì những bài này chưa hẳn đã là thơ xuân. Tác giả đều là nhà tu hành, nhà sư. Các vị không vì vui xuân, buồn xuân mà làm thơ. Các vị chỉ mượn cảnh xuân - đúng ra chỉ mượn hoa xuân để nói triết lý đạo Thiền.
Bài sớm nhất là của Mãn Giác thiền sư Lý Trường (1052-1096). Ông thông hiểu cả Nho lẫn Phật, được vua Lý Nhân tôn (1072-1128) trọng đãi, phong làm Nhập nội đạo tràng, dựng ngôi chùa cạnh cung Cảnh hưng, mời ông về tu để tiện việc hỏi han đạo học và bàn bạc việc nước. Ông chỉ để lại một bài "kệ", về sau được Lê Quý Đôn (1726-1784) sưu lục và đặt đầu đề là  "Cáo tật thị chúng",(có bệnh, bảo mọi người). TKĐ dịch:

"Trăm hoa rụng lúc xuân đi,
Xuân sang lại rộ một kỳ trăm hoa.
Trước mắt mình việc đi qua,
Trên đầu sòng sọc cái già đến mau.
Xuân tàn hoa rụng, hết đâu,
Đêm qua mai nở cành đầu, trước sân." (1)



Bài thứ hai xuất hiện sau bài trên khoảng nửa thế kỷ, là tác phẩm của Giác Hải thiền sư (TK. XII). Sư Giác Hải, họ Nguyễn, chưa rõ tên, lúc trẻ làm nghề đánh cá, 25 tuổi mới đi tu, và trở thành nhà sư, nhà thơ nổi tiếng, được các vua Lý Nhân tôn, Lý Thần tôn (1128-1137) rất kính trọng. Thần tôn nhiều lần vời ông vào cung, nhưng ông lấy cớ tuổi già, từ chối. Một trong hai bài thơ còn lại của ông nói về xuân, về hoa, về bướm, TKĐ dịch:

"Bướm hoa quen với tiết xuân hoà,
Hoa bướm đều phô đúng hẹn mà.
Hoa bướm thảy cùng hư ảo cả,
Bướm hoa chớ để bận lòng ta." (2)


Ý hai câu đầu của bài thơ giống nhau: Xuân đi, hoa rụng, xuân đến, hoa nở (Giác Hải thêm bướm) phô đúng kỳ đúng hạn, là luật tự nhiên, cũng là luật "luân hồi". Nhưng nếu hai câu sau của sư Giác Hải chỉ nói lên cái triết lý "hư vô", cái "không" của đạo, thì bốn câu sau của sư Mãn Giác "đời" hơn; Xuân đi, hoa rụng, việc qua, cái già hiện lên mái tóc... Tác giả nghĩ đến cái già, cái tịch diệt. Song xuân tàn, hoa đâu có rụng hết? Đêm qua, một cành mai còn nở trước sân kia! Sự sống vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục. Ấy là thái độ tích cực trước cuộc đời, là niềm tin ở cuộc đời.
Giáo sư Đặng Thai Mai bình luận: "... từ trong thơ, luôn luôn toát ra một ấn tượng chân thật, bắt nguồn từ những cảm giác đã "sống", từ những cảm giác trực tiếp. Và trên cơ sở ấy, tứ thơ đã chắp cánh cho thơ bay bổng" (3).

*
*   *


Đầu đời Trần, đạo Phật vẫn thịnh. Nhiều hoàng đế là thiền sư, và nhiều thiền sư là thi sĩ. Nhưng thơ nói chung, và riêng thơ xuân, dù là của nhà thơ thiền, cũng không còn mấy là thơ đạo, mà là thơ trần tục, thơ đời.
Trước tiên, tôi muốn nói về thơ của mấy ông vua. Nhiều vua Trần là thi sĩ tài hoa: Thái tôn (1218-1277), Thánh tôn (1240-1290), Nhân tôn (1258-1308), Anh tôn (1275-1320), Minh tôn (1288-1386), Nghệ tôn (1322-1395) v.v...
Điều cần nhắc lại là các vua đầu triều Trần đều rất thông hiểu Thiền học. Thái tôn đã lập lên dòng Thiền Trúc lâm; Nhân tôn đã xuất gia tám năm... Nhưng các vị xuất gia mà không xuất thế, không thoát khỏi cuộc đời trần tục, vì lẽ đơn giản các vị là vua, cai trị dân. Chính ba vị vua đầu triều đại này đã lãnh đạo nhân dân ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông.
Thánh tôn là người chủ trì Hội nghị Diên Hồng nổi tiếng, lại là tác giả những câu thơ nhàn nhã, tươi tắn lạ thường. TKĐ dịch:

"...Mưa tạnh, cây vườn màn biếc rủ,
Trời chiều vài bốn tiếng ve ran." (4)
                                     (Cảnh hè)
"Sớm dạo đảo khơi xem ráng nổi,
Chiều ngồi bến vịnh ngắm trăng suông." (5)

                                     (Chơi phủ Yên Bang)

và bài thơ bình dị, chân tình "Ngày xuân dạo vườn trong cung nhớ người cũ", TKĐ dịch:

"Bụi dày, cửa vắng lối rêu phong,
Lặng lẽ ngày trôi, khách vắng không.
Chẳng biết vì ai hoa vẫn nở,
Xuân phô muôn tía với nghìn hồng." (6)


"Người cũ" ở đây hẳn là một giai nhân? Đọc bài thơ, ta không nghĩ rằng đây là tác phẩm của một ông vua tinh thông Thiền học, một anh hùng cứu quốc, mà là của một... văn nhân bình thường, một chàng trai đã yêu thiết tha và đang đau khổ.
Nhân tôn từng có những câu thơ đầy khí phách anh hào, TKĐ phỏng dịch:

"Cối Kê việc cũ anh nên nhớ:
Hoan Diễn đang còn mười vạn quân." (7)
"Xã tắc đòi phen mệt ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng." (8)


Và đã viết bài phú "Cư trần lạc đạo"  đầy chất thiền, lại cũng là người viết bài thơ "Sớm xuân" dịu dàng, tươi mát và đa tình nữa, TKĐ dịch:

"Ngủ dậy, mở cửa sổ,
Nào hay xuân đã về:
Kìa đôi bướm bướm trắng
Chấp chới sà bên huê" (9)


Dưới các hoàng đế - thi sĩ là những tướng quân - thi sĩ: Trần Quang Khải (1241-1294), Trần Quốc Tảng (1252-1313), Phạm Ngũ Lão (1255-1320)...
Trần Quang Khải là hoàng tử thứ ba của Thái tôn, văn võ kiêm toàn, làm Thượng tướng, có công lớn trong cuộc chống Nguyên Mông, được phong tước Chiêu minh vương. Ông có tập thơ "Lạc đạo" nay chỉ còn mấy bài. Chúng ta đã từng viết bài thơ  "Phò giá về kinh"  nổi tiếng của ông, TKĐ dịch:

"Cướp dáo bên Chương Dương,
Bắt giặc cửa Hàm Tử,
Gắng sức giữ thái bình,
Non sông bền muôn thuở" (10)


Đó là bài thơ ứng khẩu ngày mồng sáu tháng sáu năm ất dậu (1285) sau đại thắng quân Nguyên lần thứ hai. Năm đó ông 37 tuổi. Mười ba năm sau, lúc 50 tuổi, Trần Quang Khải làm hai bài thơ "Cảm xuân",  cụ Ngô Tất Tố dịch như sau:

I
"Lâm râm mưa bụi gội hoa mai,
Khép chặt phong thơ ngất ngưởng ngồi
Già nửa phần xuân cam bỏ uổng,
Tới năm chục tuổi biết suy rồi.
Mơ màng nước cũ chim bay mỏi,
Khơi thẳm nguồn ân cá khó bơi.
Đảm khí ngày nào rày vẫn đó
Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi."

II
"Đêm xuân hầu hết, bóng trăng mờ,
Lành lạnh hơi xuân mượn gió đưa.
Dính gác, chùm bông tan trận múa,
Đập hiên, cành trúc quấy hồn mơ.
Hơi mưa xa gửi ơn đằm thắm,
Vẻ mặt buồn phai nét trẻ thơ.
Tiêu khiển may nhờ ba chén rượu,
Vỗ thanh gươm cũ nhớ non xưa." (11)



Tuổi năm mươi chưa phải là cao, thế mà so với bài thơ làm nhân ngày chiến thắng hơn mười năm trước, tác giả đã già đi quá nhanh, quá sớm. Trong một bài thơ khác, ông lại nói đến mái đầu bạc; và, trong hai bài này dù đảm khí của vị danh tướng vẫn đó, nhưng sức chỉ đủ ngồi trong phòng nghiền sách, tự cho mình là "si thư" - mê sách - và lòng chỉ còn "muốn quật ngọn gió đông mà ngâm thơ", "tiêu khiển may nhờ ba chén rượu". Nỗi buồn về cái già dày vò ông, rồi bốn năm sau ông qua đời.
Hàng thi sĩ - văn thần có Chu Văn An (?-1370), Trần Nguyên Đán (1320-1390), Nguyễn Phi Khanh (1355-1428?) và rất nhiều người khác.
Chu Văn An là vị sư mộng lớn, khí tiết lớn. Ông đỗ Thái học sinh ở nhà dạy học, được vua Minh tôn vời vào giảng sách cho Thái tử. Đời Dụ tôn (1341-1369), ông dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần. Vua không nghe, ông liền bỏ về ẩn ở núi Phượng Hoàng huyện Chí Linh. Bài thơ "Sóng xuân"   dưới dây làm trong khi ở ẩn, TKĐ dịch:

"Thảnh thơi nhà vắng, mái non quê,
Chớm lạnh, nghiêng nghiêng lớp cửa che.
Biếc loá cỏ xanh, trời hãy choáng,
Hồng nhoà hoa thắm, cưởi chưa se.
Lòng cùng giếng cũ sóng nào gợn,
Thân với mây côi núi chẳng lìa.
Lửa bách lơ thơ, khói trà tắt,
Mộng xuân tàn với tiếng chim khe." (12)


Tiều ẩn tiên sinh vốn là người tích cực, muốn đem sở học giúp đời. Nhưng rủi là ông sống vào cái buổi mà "vua thì mãi mê chơi bời bỏ bê việc nước, bọn nịnh thần thì lộng hành, hà khắc, tham nhũng, lời nói phải không được nghe, có khi người trung còn mang vạ", cho nên ông buộc phải trở thành ẩn sĩ. Bài thơ xuân nói về cảnh nhàn: "lòng như giếng cũ", "khói trà tắt", "mộng xuân tàn", nhưng đàng sau chữ nghĩa ta vẫn nghe rõ tiếng lòng ông, gắn bó với đời, với người:

"Biếc loá cỏ xanh, trời hãy choáng,
Hồng nhoà hoa thắm, cưởi chưa se."


Trần Nguyên Đán là một hoàng thân, cháu bốn đời Trần Quang Khải, ngoại tổ Nguyễn Trãi, có "Băng Hồ ngọc hác tập". Ông rất trọng các bậc hiền tài như Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Đỗ Tử Vi, nhất là Chu Văn An. Đang làm Tư đồ phụ chính, thấy nhà Trần sắp mất, ông bèn xin về ẩn ở Côn Sơn.
Bài thơ làm "Tháng giêng năm mậu thân" (1368) lúc ông 43 tuổi, là lời tâm sự, nói lên nỗi chán ngán trước một tình thế oái oăm, TKĐ dịch:

"Ba phần đầu bạc một niềm son,
Bối rối vì muôn việc khó dần.
Cười tớ chẳng bằng Tiền Nhược Thuỷ,
Bốn mươi đã kịp trở về non." (13)


Mới 43 tuổi, lại giữ trọng trách phụ chính, nhưng thấy không thể vực nổi chiếc ngai mọt của triều nhà Trần, ông đã tự cười mình không dám "dũng thoái" như Tiền Nhược Thuỷ đời Tống đã bỏ chức Đồng trixu mật lúc vừa mới bốn mươi.
Nguyễn Phi Khanh tức Nguyễn ứng Long, thân phụ Nguyễn Trãi, đỗ Tiến sĩ năm 1374, nhưng vì ông là con nhà thường dân lấy con gái hoàng tộc, nên không được triều Trần dùng. Mãi năm 1401 ông mới được nhà Hồ vời ra làm quan. Nhưng năm 1407, quân Minh sang cướp nước ta, ông cùng bị bắt với vua quan nhà Hồ, bị đưa sang Kim Lăng và mất ở quê người.
Trong thời gian bị bỏ rơi, dưới triều Trần, ông buồn chán đến cực độ chỉ biết ký thác tâm sự trong thơ. Trong số thi phẩm làm trong thời gian này có khá nhiều thơ xuân, bài nào cũng biểu lộ tấm lòng ưu ái của tác giả. Bài  "Rét xuân" là một, TKĐ dịch:

"Lớp lớp mây đùn, mù bủa kín,
Mười ngày rét cuối, mịt mùng sao.
Mưa sa tơ liễu treo dây bạc,
Chim lặng buồn xuân nép nụ đào.
Phòng sách vắng tanh, chồng gối, ngán,
Việc đời dằng dặc, quấn chăn, nao.
Mong sao mình được làm thân bễ,
Thổi ngọn hoà phong ấm chín châu." (14)


___________
(1) Nguyên văn:        Cáo tật thị chúng

Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.


(2) Nguyên văn:        Hoa điệp (Hoa và bướm)

Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,
Hoa điệp ưng tu cọng ứng kỳ.
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.


(3) Lời bình luận chung về thơ Thiền.

(4) Nguyên văn:       
"Viên lâm vũ quá lục thành ác,
Tam lưỡng thiền thanh náo tịch dương"

                                                                     (Hạ cảnh)


(5) Nguyên văn:          
Triêu du phù vân kiệu,
Mộ túc minh nguyệt loan.


(Hạnh Yên Bang phủ)

(6) Nguyên văn:      Cung viên xuân nhật hoài cựu

Môn không trần yểm kính sinh đài,
Bạch trú trầm trầm thiểu vãng lai.
Vạn tử thiên hồng không lạn mạn,
Xuân hoa như hứa vị thuỳ khai.


(7) Nguyên văn:      Cối Kê cựu sự quân tu ký,
                              Hoan Diễn do tồn thập vạn quân.


(8) Nguyên văn:           Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
                                    Sơn hà thiên cổ điện kim âu.


(9) Nguyên văn:                Xuân hiểu

Thuỵ khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ qui.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.


(10) Nguyên văn:       Tụng giá hoàn kinh sư

Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.


(11) Nguyên văn:        Xuân nhật hữu cảm.
                   I
Vũ bạch phì mai tế nhược ti,
Bế môn ngột ngột toạ như si.
Nhị phần xuân sắc nhàn tha quá,
Ngũ thập si ông dĩ tự tri.
Cố quốc tâm hoàn phi diễn quyện,
Ân ba hải khoát túng lân trì.
Sinh bình đảm khí luân khuân tại,
Giải đảo đông phong phú nhất thi.
                      II
Nguyệt tắc vi vi dạ hướng lan,
Đông phong đặc địa khởi xuân hàn.
Phiên không liễu nhứ niên cao các,
Giảo mộng tương quân phốc hoạ lan.
Bị vật nhuận tòng thiên ngoại vũ,
Kinh tâm hồng thốn tích thì nhan.
Khu sầu lại hữu tam bội tửu,
Phủ kiếm du du ức cố san.


(12) Nguyên văn:                     Xuân đán

Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn,
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
Bích mê thảo sắc, thiên như tuý,
Hồng thấp hoa sao, lộ vị can.
Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
Bách luân bán lãnh, trà yên yết,
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.


(13) Nguyên văn:             Mậu thân chính nguyệt tác

Tam phần đầu bạch thốn tâm đan,
Thế thượng phân phân vạn sự nan.
Tự tiếu bất như Tiền Nhược Thuỷ,
Niên tài tứ thập tiện lưu quan.


(14) Nguyên văn:                        Xuân hàn

Ngưng vân mạc mạc, vụ trầm trầm,
Nhưỡng tác dư hàn thập nhật âm.
Đới vũ hữu ngân niệm thụ nhự,
Thương xuân vô ngữ cách hoa cầm.
Thư trai tịch mịch duy cao chẩm,
Thế sự du du chính bão khâm.
An đắc thử thân như thác thược,
Hoà phong hư biến cửu châu tâm.


(Còn tiếp)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.

Người xưa - Xuân xưa - Thơ xưa  (Phần 2)


II

Trong bảy năm cầm quyền, vừa lo chấn chỉnh nội trị, vừa lo chuẩn bị đối phó với cuộc xâm lược của nhà Minh, nhà Hồ chưa đủ thời gian để đạt được những thành tựu về văn hoá đáng kể, ngoài cuộc thi lấy 20 Thái học sinh năm Canh Thìn (1400), trong đó có những người đặc biệt xuất sắc như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn..., và cuộc thi lấy 170 cử nhân năm Ất Dậu (1405).
Một người đỗ Thái học sinh năm 1400 là Lê Cảnh Tuân (?-1416). Tháng mười năm Đinh Hợi (1407), ông gửi cho bạn cũ là Bùi Bá Kỳ đang làm quan với giặc Minh, bài "Vạn ngôn thư" khuyên Kỳ chống Minh. Thư lọt vào tay giặc, ông phải bỏ trốn. Sau đó, ông cải trang đến dạy học ở Thăng Long để có cơ hội mưu việc phục quốc. Nhưng đến năm Tân Mão (1411), ông bị bắt đưa về Yên kinh. Vua Minh hỏi sao dám xui Bá Kỳ làm phản, ông đáp rằng: "Người nước Nam mong nước Nam còn, hỏi mà làm gì?". Ông liền bị tống vào ngục Kim Lăng và mất ở đó. Cũng như Nguyễn Phi Khanh, Lê Cảnh Tuân không được coi là nhà thơ đời Hồ. Hiện nay, ông còn để lại 12 bài thơ, trong đó có một số bài làm ở Trung Quốc. Xin tạm dịch hai bài ngũ ngôn tuyệt cú làm vào dịp tết nguyên đán lúc xa quê.
Bài thứ nhất: "Nguyên đán",  TKĐ dịch:

"Vẫn nằm dài quán trọ,
Xuân năm ngoái lại về.
Ngày về, nào biết được,
Mai hẳn cỗi vườn quê." (1)


Bài thứ hai:  "Ngày nguyên đán ở trạm trên sông",  TKĐ dịch:

"Cảnh đẹp gặp ngày tết,
Luống thương thân không nhà.
Nỗi buồn vơi chút ít,
Xuân tươi dõi mắt già." (2)


Dựng lên lâu đài thi ca Việt Nam, đặc biệt thơ quốc âm đầu thế kỷ XV, dưới triều Lê, là Nguyễn Trãi (1380-1442). Tôi xin không nói gì thêm về đại thụ Ức Trai đã toả bóng tươi xanh từ sáu thế kỷ nay, mà xin chép lại đây hai bài thơ xuân cùng đề của Cụ.

Bài 1 -  Mộ xuân tức sự   (Cuối xuân tức cảnh)
          Bản dịch trong"Nguyễn Trãi toàn tập":

"Trọn ngày thong thả khép phòng văn,
Khách tục bên ngoài chẳng bén chân.
Khắc khoải quyên kêu xuân đã muộn,
Hoa xoan mưa nhẹ nở đầy sân." (3)


Bài 2 – Cuối xuân  (Thơ quốc âm).

"Tính từ gặp tiết lương thần,
Thiếu một hai mà no chín tuần.
Kiếp thiếu niên đi thương đến tuổi,
Ốc dương hoà lại ngõ dừng chân.
Vườn hoa khóc tiếc mặt Phi tử,
Trì cỏ tươi nhưng lòng tiểu nhân.
Cầm đuốc chơi đêm này khách nói,
Tiếng chuông chưa đóng ắt còn xuân."


Tường cũng nên chép thêm mấy chú thích về bài thơ quốc âm: Lương thần là thời tiết tốt, tiết xuân; No là đủ; Tuần có mười ngày; ốc (?) dương hoà, hiểu là khí dương hoà; ngõ, tức ngõ hầu, có thể; Phi tử, tức Dương quý phi, câu này lấy từ tích Đường Minh hoàng thấy hoa phù dung nhớ Dương quý phi mà khóc; Trì cỏ là cỏ bên ao, sách  "Luận ngữ"  viết: đức kẻ nhỏ nhen cũng như cỏ; Đóng là đánh, đanh chuông phải dùng chày lớn mà nện giống như đóng.
Sau Nguyễn Trãi, Lê Thánh tôn (1442-1497), Nguyên Suý và các văn thần hội viên Hội Tao đàn, đã có những đóng góp tích cực cho thơ Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ XV cả thơ chữ Hán và thơ quốc âm. Riêng thơ Nôm (quốc âm) người đời sau đã sưu tập thành  "Lê Thánh tôn thi tập"  và  "Hồng Đức quốc âm thi tập". Xin giới thiệu bài  "Vịnh cảnh mùa xuân"   trong tập thơ  "Hồng đức quốc âm":

"Lật lật bình phong mở mấy lần,
Khắp hoà chốn chốn một trời xuân.
Hiu hiu gió thổi hương lồng áo,
Phơi phới mưa sa ngọc đượm chăn.
Liễu vẽ mày xanh oanh chấp chới,
Mai tô má phấn bướm xun xoăn.
Đường chen xe ngựa tai vang nhạc,
Nào chốn nào là chẳng cõi nhân."


Ta thấy thơ quốc âm ở đây đã dễ hiểu hơn thơ Nguyễn Trãi. Nhưng thơ vịnh xuân (và thơ nói chung) của nhóm Lê Thánh tôn chủ yếu là ngợi ca đời thái bình thịnh trị, vua giỏi tôi hiền, có thể nói là một dòng thơ riêng. Trước, trong, và nhất là ở thế kỷ sau đó, thơ xuân của nhiều tác giả, đều là thơ nói về tâm trạng riêng tư của mỗi người.
Đàm Văn Lễ (1452-1505) thuở nhỏ nổi tiếng thần đồng, đỗ Giải nguyên rồi đỗ Tiến sĩ năm 18 tuổi, làm quan đến Thượng thư, Đông các đại học sĩ. Khi vua Hiến tôn ốm nặng, Kính phi đem vàng đến hối lộ để lập Uy mục là con nuôi của mình. Ông không nhận, và cùng với Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật theo di chiếu, lập Túc tôn làm vua. Túc tôn chết, Uy mục lên ngôi, liền biếm Đàm và Nguyễn vào Quảng nam. Nhưng khi hai ông đi đến sông Yên lạc (tức sông Lam, đoạn qua Da Lách) thì sai người đuổi theo bắt phải tự tử. Hai ông đọc một bài thơ quốc âm rồi nhảy xuống sông... Bài thơ Nôm tuyệt mệnh ấy không còn. Nhưng Đàm Văn Lễ còn để lại được 24 bài thơ chữ Hán, trong đó có bài "Ba mươi tết ngẫu nhiên làm thơ" tỏ nỗi "chán ghét tình đời", thực ra là chán ghét cái chế độ, cái xã hội nhà Lê đã bước vào thời kỳ suy tàn. Bài thơ được viết trước khi bị hại không lâu. TKĐ tạm dịch:

"Năm mới vừa kề, cũ đã ruồng,
Thói đời chi lạ, nghĩ mà thương.
Tháng, năm mà cũng yêu cũng ghét,
Phụ bạc, đời nay ấy chuyện thường." (4)


Nguyễn Thiên Tích đỗ khoa Hoành từ năm 1431, đi sứ sang Trung Quốc năm 1434, khi về làm Thị ngự sử. Gặp việc Lê Trung Xích sai quân nhân về làm việc nhà, ông tâu lên vua thì Tri tư tụng Trịnh Khắc Phục giải cứu cho Xích. Ông lại xin xét tội phục bao che kẻ phạm pháp. Vua Thái tôn không nghe, ông liền xin từ chức. Vua chưa y, ông cũng không chịu đến làm việc nữa. Sau vua xét ông là người trung thực bèn triệu ra làm chức cũ và cử đi sứ lần thứ hai. Vua thường khen ông ngay thẳng như Vương Khuê, Nguỵ Trưng đời Đường, thăng ông lên Thượng thư kiêm Tế tửu Quốc tử giám. Ông còn để lại "Tiêu sơn thi tập".  Bài  "Làm cuối mùa xuân ở Diễn châu"  dưới đây rút trong tập thơ ấy. TKĐ tạm dịch:

"Nơi từ bóng rợp tiếng đa đa,
Nhìn áng mây trôi chẳng thấy nhà.
Thân náu ba năm, đầu thúa bạc,
Đường dài muôn dặm bể khơi xa.
Lòng dù bùn dính hoen tơ liễu,
Mình cũng dơ lây bẩn cánh hoa.
Cái luỵ công danh lầm buổi trẻ,
Trồng dưa nghĩ chuyện thẹn cho ta." (5)


"Trồng dưa" ở đây mượn tích truyện Thiệu Bình đời Tần được phong Đông lăng hầu, sau mất chức, về trồng dưa, dưa ngon có tiếng, để nói tâm trạng chán ngán, giận mình không dám bỏ quan về.
Cùng sống gần đồng thời với Nguyễn Thiên Tích, Đàm Văn Lễ, có Nguyễn Bảo, đỗ Tiến sĩ năm 1472 giữ chức Tả tư giảng, dạy Thái tử, sau thăng đến Thượng thư. Ông có  "Châu khê thi tập" gồm 8 quyển, do học trò ông là Trần Củng Uyên sưu tập, biên soạn. Ba bài thơ xuân  "Cuối năm tỏ nỗi lòng", "Tức sự ngày xuân", "Chiều xuân ở thôn Tùng Mai"   tỏ ra tác giả gần gũi với cuộc sống thôn dã, và mang một tâm trạng u buồn. Dưới đây là bài   "Tức sự ngày xuân",   TKĐ tạm dịch:

"Giữa đồng, chùa vắng mãi lân la,
Xuân đến, buồn càng bám riết ta.
Tươi héo cỏ lan thềm phía trước,
Nhạt nồng khói toả rặng cây xa.
Đất không được tốt, khôn gieo giống,
Trời cứ ôn hoà, muốn trỗ hoa.
Ôm sách trên giường nghe tiếng cốc,
Nghề nông muốn đến học ông già." (6)


Một nhà thơ phụ nữ nổi tiếng thế kỷ XV-XVI là Ngô Chi Lan, vợ Phù Thúc Hoành (Theo  "Trích diễm thi tập"  "Hoàng Việt thi lục"  thì vợ Phù Thúc Hoành là Nguyễn Hạ Huệ, các sách khác chép là Ngô Chi Lan). Bà có văn tài, làm nhiều thơ ca, từ khúc, được vua Lê Thánh tôn vời vào cung dạy các cung nữ, và gọi là Phù gia nữ học sĩ. Bà có "Mai trang tập" và bốn bài thơ vịnh bốn mùa (Tứ thời khúc), Dưới đây là bài  "Mùa xuân"   do Trúc khê Ngô Văn Triệu dịch:

Hun người nắng mới như say,
Lâu đài ấm áp nhuộm đầy dương quang.
Cách rèm, liễu biếc, oanh vàng,
Quang hiên cái bướm mơ màng trong hoa.
Trước thềm ánh nắng dài ra,
Mồ hôi dâm dấp xiêm đà đượm xanh.
Sầu xuân nặng trĩu bên mình,
Ngây thơ đứa nhỏ lanh chanh cợt cười." (7)



Chế độ nhà Lê khủng hoảng trầm trọng đẫn tới mất ngôi về tay nhà Mạc. Nhưng rồi dựa vào họ Trịnh, nhà Lê vẫn tồn tại về danh nghĩa, và kéo dài tới hơn hai thế kỷ nữa.
Nhà Mạc đã mở 22 khoa thi, có 485 người đỗ, trong đó có 13 trạng nguyên. Nhiều người thi đỗ dưới triều Mạc như Bảng nhãn Bùi Vịnh, Tiến sĩ Hà Nhiệm Đại, các Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giáp Hải..., hoặc làm quan triều Mạc như Tiến sĩ Lê Quang Bí... đều là nhà thơ có tiếng tăm... Để kết thúc phần này, chỉ xin giới thiệu một bài thơ của cụ Trạng Trình.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là người có danh vọng và uy tín lớn, sống gần trọn thế kỷ XVI. Ông học rộng, tài cao, nhưng mãi đến 45 tuổi mới thi đỗ Trạng nguyên khoa ất mùi, năm Đại chính thứ 6 đời Mạc Đăng Doanh (1535). Ông làm quan tám năm rồi về ở ẩn ở am Bạch Vân tại quê nhà, mở trường dạy học bên sông Tuyết giang (do đó có hiệu Bạch Vân tiên sinh, Tuyết giang phu tử). Ông được vua Mạc tôn làm quốc sư, phong đến tước Trình quốc công, và chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều kính trọng. Ông để lại hai thi phẩm "Bạch vân thi tập"  (chữ Hán) và  [/i]"Bạch vân quốc ngữ thi tập".[/i]Dưới đây là bài thơ  "Thôi làm quan, về nhà", làm vào mùa xuân năm 1565 do cụ Ngô Lập Chi dịch:

"Tuổi trời đã ngoại bảy mươi tư,
Mừng được an nhàn chốn ẩn cư.
Năm mới, cảnh vui đầy vũ trụ,
Nhà nghèo nếp cũ sẵn thi thư.
Xuân về ấm áp hoa, tre tốt,
Nhà trống thênh thang cửa, ghế thưa.
Ai dở ai hay thời mặc kệ,
Già này ngông dại luống mần ngơ." (8)


_________
(1) Nguyên văn:            Nguyên nhật

Lữ quán khách nhưng tại,
Khứ niên xuân phục lai.
Qui kỳ hà nhật thị,
Lão tận cố viên mai.


(2) Nguyên văn:       Nguyên nhật giang dịch

Hảo cảnh phùng nguyên nhật,
Vô gia mẫn thử nhân.
Khách sầu hồn giảm khứ,
Lão nhãn khán thanh xuân.


(3) Nguyên văn:                Mộ xuân tức sự

Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai.
Đồ vũ thanh trung xuân hướng lão,
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.


(4) Nguyên văn:          Trừ tịch ngẫu thành

Tài cận tân niên yếm cựu niên,
Vô đoan thế thái tận kham liên.
Đẳng nhàn tuế nguyệt do tăng ái,
Mạc quái nhân sinh hữu khí quyên.


(5) Nguyên văn:        Mộ xuân Diễn châu tác

Giá cô đề xứ lục âm đa,
Vọng đoạn hành vân bất kiến gia.
Tùng cúc tam niên sương mấn cải,
Hải môn vạn lý khách trình xa.
Hoạn tình dĩ tự triêm nê nhứ,
Thân sự hồn như lạc phẩn hoa.
Tảo tuế ngộ vi danh sở luỵ,
Đông môn tu sát Thiệu Bình qua.


(6) Nguyên văn:            Xuân nhật tức sự

Dã tự tiêu điều ký sổ duyên,
Nhập xuân phong cảnh khước du nhiên.
Vinh khô tuỳ ý giai tiền thảo,
Nồng đạm đa tình thụ ngoại yên.
Bán tính bán phì nan chủng địa,
Bất hàn bất noãn dục hoa thiên.
Ủng thư sàng thượng văn đề quyết,
Dục phỏng thôn ông học dưỡng điền.


(7) Nguyên văn:                    Xuân từ

Vô tình huân nhân thiên tự tuý,
Diễm dương lâu đài phù noãn khí.
Cách liêm liễu nhứ độ oanh thoa,
NHiễu hạm hoa tu xuyên diệp xí.
Giai tiền hồng tuyến nhật thiêm trường,
Phấn hãn vi vi tẩm lục thường.
Tiểu tử bất trù xuân tứ khổ,
Khuynh thân hàm tiếu quá nha sàng.


(8) Nguyên văn:                     Trí sĩ

Hành niên thất thập tứ niên dư,
Hỷ đắc đầu nhàn phóng cựu cư.
Tuế thủ hân quan tân vũ trụ,
Gia bần duy phú cựu thi thư.
Tú hoa dã trúc tam xuân hảo,
Tĩnh kỷ, minh song nhất thất hư.
Thuỳ thị, thuỳ phi hưu thuyết trước,
Lão cuồng tự tiếu thái dung sơ.


(còn tiếp)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.

Người xưa - Xuân xưa - Thơ xưa  (Phần 3)



III

Một nhân vật có danh vọng sống suốt thời Nam Bắc triều, chứng kiến và tham gia vào cuộc nội chiến giữa hai tập đoàn phong kiến Lê-Mạc là Phùng Khắc Khoan (1528-1613).
Ông tên tự là Hoằng Phu, tục gọi Trạng Bùng, người làng Phùng xá, huyện Thạch Thất, trấn Sơn Tây. Ông là học trò xuất sắc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, học vấn uyên bác, nhưng khác với Trạng Trình, ông bỏ Thăng Long, vào Thanh Hóa theo nhà Lê, thi đỗ Tiến sĩ năm Quang hưng thứ ba đời Lê Thế tôn (1580) làm quan đến Thượng thư bộ Hộ. Ông từng đi sứ Trung quốc, và dưới thời Anh tôn, vì có lời can gián trái ý vua, bị lưu đày vào Thanh Nam (Tương dương, Nghệ an). Lúc ở đây, ông có bài   "Đào nguyên hành"   nói tâm sự riêng, nhưng chủ yếu mô tả cây cỏ địa phương. Những tác phẩm chính của ông là  "Ngôn chí thi tập", "Sứ hoa thi tập", "Huấn đồng thi tập", "Độc Thi đa thức", "Tặng thi tính cảnh vật vịnh"  và nhiều bài văn xuôi.
Lúc về già, sống trong cảnh nghèo, nên thơ cũng không còn mang cái hăm hở lúc trẻ, nhất là lúc mới thành danh. Bài thơ  "Đêm ba mươi tết gửi Nguyễn Thanh Trai"  dưới đây làm vào thời kỳ ấy. Trần Lê Sáng dịch:

"Áo dài rách mướp khách chơi thưa,
Ơn nghĩa phiền ông gửi áo cho.
Kẻ sĩ vụng về duy có lão,
Ông trời phù hộ lúc trai tơ.
Nói gì Quý tử nhiều châu báu,
Nhắc nhở Vương tôn lúc muối dưa.
Được mất xưa nay thường đắp đổi,
Đời người quý kẻ mặn tình xưa." (1)


Sách "Phủ biên tạp lục"  của Lê Quý Đôn giới thiệu một dật sĩ Thuận Hoá là Ngô Thế Lân, tự Hoàn phác như sau: "... Khi nhỏ có chí thú rộng học giỏi văn, ẩn ở xã Vu Lai, huyện Quảng Điền, tự đặt hiệu là Ái trúc trai, năm nay (1776) chừng hơn 50 tuổi, ngụ ở phố Hà Thanh. Tôi sai người đến mời mà không đến, gửi thư cảm tạ, và nói lấy sự xu thời cầu cạnh làm hổ thẹn. Những bài đề vịnh gọi là ơiư"Phong trúc tập"ơ/iư cũng nhã nhặn và có tình tứ...". Sau mấy lời trên, cụ Bảng nhãn Lê chép bài Đề từ, bài tựa, bài bạt và một số bài thơ trong "Phong trúc tập"  của Ngô, trong đó có bài  "Ngày xuân ngẫu hứng thành thơ", TKĐ phỏng dịch:

"Danh hão vất đi, thấy thật ta,
Măng tre, nước lả chẳng nghèo mà.
Đồng im gió sớm thẳng ngọn khói,
Núi đẫm sương mai tươi sắc hoa.
Chuyện phiếm bạn hiền say biết mấy,
Rượu ngon xuân mới quý bằng ba.
Ví không ai kẻ chung vui với,
Chẳng ngại hươu nai bạn núi xa." (2)


Hải thượng Lãn ông Lê Hữu Trác (1720-1791) - đại danh y Việt Nam, đồng thời là một thi bá thời bấy giờ. Ông quê gốc Hải Dương, về ở quê mẹ, huyện Hương Sơn. Trong bộ sách đồ sộ  "Y tôn tâm lĩnh"  66 quyển, ông có chép trên 70 bài thơ, trong đó có 29 bài được xếp thành một quyển, lấy tên là "Y lý thâu nhàn lý ngôn phụ chí"   (Phụ chép những bài vè viết trong khi làm thuốc rãnh rỗi). Tập "vè" này có ba bài  "Nhàn hứng ngày xuân". Dưới đây là bài thứ nhất, TKĐ tạm dịch:

"Lạnh từ ánh biếc rặng đào,
Đọc xong pho sách tựa vào lan can.
Chim không nỡ quấy người nhàn,
Hoa như thấy nhạt màu xuân gượng cười.
Đun trà xong , bé ngủ rồi,
Soạn mâm, bà lão lại ngồi luộc rau.
Hư danh mừng chẳng nơi cầu,
Mặt trời lên mấy con sào, cứ ngơi." (3)


Bùi Huy Bích (1744-1818), tên chữ là Huy Chương, người làng Định Công, huyện Thanh Trì, ngụ cư làng Thịnh Liệt (nay thuộc ngoại thành Hà Nội). Ông đỗ Hoàng giáp năm Cảnh hưng thứ 30 (1769), làm quan đến chức hành tham tụng.Khi Tây Sơn ra Bắc Hà, ông cáo bệnh xin về hưu.
           Thư Bùi Huy Bích được chép thành  "Tồn am thi tập". Ông còn có  "Nghệ An thư tập"  làm trong thời gian vào giữ chức Hiệp trấn (1777).Ngoài ra, ông còn có hai công trình sưu tầm, tuyển chọn thơ văn là   "Hoàng Việt thi tuyển"   và   "Hoàng Việt văn tuyển".
Bài thơ  "Ngày mồng một tết năm nhâm dần"   (1782) dưới đây làm lúc ông giữ chức Hành tham tụng ở Triều, bản dịch của nhóm Lê Quý Đôn:

Biên giới năm năm cảnh trải lần,
Kinh thành nay gặp lễ chầu xuân.
Nhịp hà khói nước lay cây tạnh,
Cấm uyển hương thơm động bụi trần.
Chín bệ áo xiêm đà chẳng cách,
Một vườn hoa trúc lại thường gần.
Thẹn không bổ ích cho dân nước,
Cũng dự vào trong bậc trọng thần." (4)


Hai thập kỷ cuối thế kỷ XVIII đã chứng kiến sự sụp đỗ hoàn toàn của Triều đại Lê Trịnh và sự ra đời của Triều đại mới Tây Sơn. Trong số những nho thần nhà Lê, nhiều người đã sớm theo giúp tân triều, trong đó, không ít người để lại những tác phẩm thơ văn mang dấu ấn thời đại.
Ninh Tốn, tự, Khiêm như sau đổi là Hi chi, hiệu Mẫn hiên và Chuyết sơn cư sĩ, song an cư sí, sinh năm 1743, quê xã Côi Trì, huyện Yên Mô (Ninh Bình, nay thuộc huyện Tam Điệp) nhưng quê gốc lại ở xã Ninh Xá, huyện Chí Linh (Hải Dương).Ông đỗ Hương cống, năm 19 tuổi, đề thơ ở núi Vân Lỗi (Thanh Hóa) được chúa Trịnh Sâm mến tài, triệu vào giữ chức phiên liêm tri Binh phiên. Năm 1778, ông đổ hội nguyên tiến sĩ được cử làm phụng tá quân hải lộ. Năm 1786 làm Hiệp trấn Động Hải (Quảng Bình)... Năm 1788 Bình Định vương Nguyễn Huệ ra Bắc, Ninh Tốn được phong hàm làm trực học sĩ, được giao giúp việc Ngô Văn Sở ở đất bảo cùng với Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lân. Về sau ông được thăng đến Binh bộ thượng thư, tước hầu.
Trong thời gian làm quan dưới Triều Lê - Trịnh, Ninh Tốn làm rất nhiều thơ, chép trong "Tây hồ mạn hứng". Nay thơ ông còn lại 275 bài được sưu tập, chép trong "Chuyết sơn thi tập", "Tiền Lê Tiến sí Ninh Tốn thi tập"... Dưới thời Tây sơn, chắc ông cũng có làm thơ, nhưng nay không còn lưu lại được. Bài  "Xuân Bính Thân (1776) được sai làm án sát ở Sơn nam"  chép trong  "Tiền Lê Tiến sĩ Ninh tốn thi tập"  dưới đây do cụ Khương Hữu Dụng dịch:

"Thanh tịch lòng đâu vướng rộn ràng,
Cười ta đạm bạc tính trời mang.
Một bầu từng quý ngang chung đỉnh,
Năm đấu nào cho lấn sách đàn.
Trên đoạ quân thần riêng nặng trĩu,
Trong trường danh giáo được vui tràn.
Chỉ mong dân chúng không oan uổng,
Chẳng lọt gian lều tiếng oán than." (5)


Phan Huy Ích (1750-1822) hiệu Dụ Am, người làng Thu Hoạch, huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An, sau ra ở làng Thuỵ Khê, huyện Thạch Thất, trấn Sơn Tây. ông là con trưởng Tiến sĩ Phan Huy Cẩn và là con rể Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ. Năm 1771 ông đỗ hương nguyên, năm 1775 đỗ hội nguyên, rồi chế khoa đồng Tiến sĩ. Buổi đầu làm quan triều Lê, được chúa Trịnh Sâm trọng dụng. Nhưng sau vụ án năm Canh Tý (1780) là con rể họ Ngô, ông cũng bị hiềm nghi. Do đó, ông cảm thấy chán việc làm quan, xin từ chức, nhưng lại được sai vào làm Đốc đồng Thanh Hóa. Ông ở dưới thuyền, hơn một năm, không chịu lên trấn sở, ai có việc gì thì đến gặp... Nhà Lê mất, ông lánh về vùng Sơn Tây.
Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm, mời một số sĩ phu Bắc Hà trong đó có Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Nguyễn Thế Lịch, Vũ Huy Tấn, Phan Huy Ích... Phan được giao cùng Ngô lo việc giao tiếp với nhà Thanh. Khi Lê Chiêu Thống rước quân Thanh vào Thăng Long, những người theo Tây Sơn bị đục tên trên bia tiến sĩ và bị truy nã. Phan phải tránh về Thuỵ Khê. Sau khi chiến thắng quân Thanh (1789) ông lại được triệu ra lo việc bang giao và năm 1790, ông được sung làm trọng thần hàng văn trong sứ bộ của vua Quang Trung (giả) sang Trung quốc...
Trở về, ông được phong chức Thị lang Ngự sử ở toà nội các thì năm 1792 vua Quang Trung mất... Nhà Tây Sơn mất (1802), ông cùng Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thế Lịch bị bắt. Sau khi bị Đặng Trần Thường đánh thị nhục ở Văn miếu, Phan Huy Ích lại trở về Thuỵ Khê, Sài Sơn và mất vào năm 1822, thọ 73 tuổi.
Thơ, văn Phan Huy Ích rất nhiều, nhưng một phần bị mất mát. Năm 1814-1815, ông sai con cháu thu thập lại, xếp thành bộ  "Dụ am ngâm lục" chia làm 6 sách gồm khoảng 600 bài thơ, và "Dụ am văn tập"  gồm 20 bài văn. Bài thơ "Mùa xuân ở công quán, ghi việc" viết ở kinh Thuận Hoá lúc ông làm quan dưới triều Tây Sơn, TKĐ phỏng dịch:

"Dinh toà trời mở chốn đồng quê,
Chùa cổ đầy sân những ngựa xe.
Nghỉ dưới nhà chay thường dậy muộn,
Họp trên toà sảnh phải bàn khuya.
Gợi tình trước núi hoa, chim sẵn,
Dưỡng tính trong nhà sách vỡ mê.
Rảnh việc, quán xa nhiều thú sẵn,
Bên song khay rượu với bình chè." (6)


Một nho sĩ Bắc Hà khác có đóng góp lớn cho triều đại Tây Sơn là Ngô Thì Nhậm, anh vợ Phan Huy Ích.
Ngô Thì Nhậm tự Hy Doãn, hiệu Đạt hiên (1746-1803) là con trai trưởng của Ngô Thì Sỹ (1726-1780) quê làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì , gần thành Thăng Long. Lúc nhỏ, ông học với ông nội rồi với cha đỗ đầu thi hương vào năm 1765. Năm 1769, ông đỗ khoa sĩ vọng được bổ Hiến sát phó sứ Hải dương. Đến năm 1775, ông đỗ tam giáp Tiến sĩ, cùng khoa với Phan Huy Ích, được bộ Hộ khoa cấp sự trung rồi thăng đến Đốc đồng Kinh bắc, Đốc đồng Thái nguyên.
Sau vụ án Canh Tý (Trịnh Tông mưu trừ phe Trịnh Cán, con Đặng Thị Huệ) Ngô Thì Nhậm được thăng Công bộ Hữu thị lang. Khi Trịnh Sâm chết, quận Huy bị kiêu binh giết. Trịnh Cán bị phế, ông phải trốn về quê vợ ở Sơn Nam.
Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc, Ngô Thì Nhậm là người đầu tiên hưởng ứng lời kêu gọi "cầu hiền", được Bắc bình vương phong chức Tả thị lang bộ Lại, tước tình phái hầu. Ông đã không phụ lòng tân chúa, có những đóng góp cho sự nghiệp nhà Tây Sơn, đặc biệt là về ngoại giao. Năm 1792, vua Quang Trung mất, ông được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong cho Quang Toản. Khi nội bộ nhà Tây Sơn rối ren, ông xin về trí sĩ ở Thăng Long lập Thiền Viện Trúc lâm, nghiên cứu triết học.
Nhà Tây Sơn mất, Ngô Thì Nhậm (cùng Phan Huy Ích) bị đánh thị nhục ở Văn miếu. Và ông đã bỏ mạng vì trận đòn trả thù này, ngày 16 tháng hai năm Quý Hợi (9-3-1803).
Ngô Thì Nhậm để lại một khối lượng thơ văn đồ sộ. Riêng thơ đã có đến 7 tập: "Bút hải tùng đàm", "Thuỷ vân nhàn vịnh", "Ngọc đường xuân khiếu", "Cúc hoa bách vịnh", "Thu Cận dương ngân", "Cẩm đường nhàm thoại", "Hoàng hoa đỗ phả".
Bài  "Xuân thuật"  dưới đây rút trong  "Thu cận dương ngôn", tập thơ viết khi làm quan thời Quang Trung, bản dịch của Ngô Linh Ngọc:

"Khắp thành mưa bụi, khắp thành xuân,
Quán khách đìu hiu mấy núi gần.
Già đến, có tiền khôn chuốc trẻ,
Ngôi cao ngiều lịch chẳng lo bần.
Tai đầy tiếng nhạc, thịt chẳng thiết,
Dạ nức mùi hương, xông khỏi cần.
Chén ngọc rót mừng năm mới đến,
Đường hoa bầu bạn có Đông quân." (7)

__________________________________________________

(1) Nguyên văn:  Trừ tịch Nguyễn Thanh trai kiến ký

Tệ bào ngỗ khách đáo thôn hy,
Trịnh trọng phiền quân nãi nhĩ ti (tư)
Tài sĩ bần cư duy ngã chuyết,
Hoá công bồi đốc phỉ vu trì.
Vị ngôn Quý tử dã kim nhật, (a)
Phả tự Vương tôn nhất phạn thì. (b)
Tự cổ cùng thông do tuế tiết,
Phong trần nhân phẩm quý tương tri.


     (a) Quý tử, người đời Chiến quốc, cho Tô Tần áo bào, (b) Vương tôn chỉ Hàn Tín đời Hán được bà Xiếu mẫu cho cơm.
(2) Nguyên văn:          Xuân nhật ngẫu thành

Phù danh phóng hạ kiến ngô chân,
Thuỷ trúc sinh nhai hạnh bất bần.
Dã hiểu vô phong yên tự trực,
Sơn hoa hữu lộ sắc thiên tân.
Cao đàm đối khách nhiêu tam thốn,
Giai nhưỡng phùng xuân hảo thập phân.
Liệu đắc vô nhân đồng thử lạc,
Bất phương mi lộc kết vi lân.


(3) Nguyên văn:         Xuân nhật nhàn hứng.

           Đào âm lộng ảnh thuý sinh hàn,
           Độc hãi Hoàng kinh cánh ỷ lan (a).
           Điểu thức nhân nhàn vô cảm náo,
           Hoa như xuân đạm cưỡng khoai nhan.
           Dược đồng chứ mỉnh miên song cước,
           Lão phụ chưng lê thịnh thảo bàn.
           Khà kỷ hư danh vô sở thụ,
           Bế môn thâm thuỵ nhật tam cơn.


(a) Hoàng kinh: Pho sách của Hoàng đế, tổ sư nghề thuốc, tức sách thuốc.

(4) Nguyên văn:                        Nhâm dần tuế đán.

           Ngũ tuế bão chiêm biên địa cảnh,
           Kim niên hỷ cận quốc thành xuân.
           Nhị hà yên thuỷ dao tình thụ,
           Cấm ngự hương phong động nhuyễn trần.
           Cửu bệ miện lưu nguyên bất viễn,
           Nhất viên hoa trúc hựu tương thân.
           Chỉ tàm nhiếp lý hào vô bổ,
           Diệc xỉ thiên gia pháp tụng thần.


           (5) Nguyên văn:  Bính thân xuân khiển doãn tác lỵ Nam niết.

Đồ biên an đắc bạn thanh hư,
Y cựu thiên chân tự đạm như.
Tằng ấp nhất biều đường đỉnh nại,
Khởi dung ngũ đẩu doãn cầm thư.
Quân thân đạo thượng hoài thiên trọng,
Danh giáo trường trung lạc hữu dư.
Đạn nguyện ngô dân vô uổng khuất,
Sầu minh biết đáo bán gian lư.


(6) Nguyên văn:                 Xuân để ký sự

Thiên khai sảnh viện thử giao quynh,
Luân bí tề xu cổ phạm đình.
Công toạ thâm tiêu đàm vị tán,
Lữ trai vãn trú thuỵ sơ tinh.
Tiền cương hoa điểu tư ngâm liệu,
Mãn giá đồ thư dưỡng tính linh.
Cơ hoạn thiết nhàn đa hứng trí,
Đông song tửu quả hựu trà bình.


(7) Nguyên văn:                       Xuân thuật

Mãn thành mai vũ mãn thành xuân,
Khách quán tiêu sơ đối thụ vân.
Lão chí, hữu tiền nan mãi thiếu,
Vị cao đa lịch bất vi bần. (a)
Thiều doanh nhĩ bạng nghi vong nhục,
Hương phức tâm đầu khởi dụng huân.
Thả chước thái hoàn nghinh vong nhục,
Hương phức tâm đầu khởi dụng huân.
Thả chước thái nghinh tuế đán,
Phù dao bản ngã hữu Đông quân. (b)


     (a) Đa lịch: Quan nhất phẩm đầu năm được ban dịch 100 bản, lại ban thêm một bản "Đại thanh thời hiên thư".
     (b) Phù dao: Gió xoáy đưa từ dưới lên.


(còn tiếp)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài viết)
[1]