Trang trong tổng số 5 trang (42 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

cỏ rác cát bụi gỗ đá

Chủ đề 14: "Vượt khổ" và "vượt sướng" việc nào dễ hơn?
Lại cũng là người Trung Quốc có câu: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” ý nói là người đàn ông mà không có con nối dõi (con trai) là mang tội nặng nhất trong 3 tội bất hiếu. Hoặc cũng là một câu trọng nam khinh nữ khác "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" (Một con trai thì viết là có, đến 10 con gái vẫn viết là không). Cái quan điểm trọng nam khinh nữ đó cũng lây sang bên Việt Nam và có vẻ còn ảnh hưởng khá nặng nề đối với người Việt cho đến tận hôm nay.
Tuy nhiên, thời buổi này dân chúng ở các thành phố không còn quá quan trọng việc "phải sanh bằng được con trai" nữa. Mỗi gia đình chỉ có từ một đến hai con. Dù là ngày xưa, hay bây giờ, dù là nhiều con, hay ít con, dù là con gái hay con trai, thì con cái bao giờ cũng là một cái gì đó vô cùng quí giá đối với các bậc cha mẹ. Các cụ ngày xưa có câu "hổ dữ cũng không ăn thịt con". Đúng là như vậy, người đàn ông, hay người đàn bà nào dù có ích kỷ đến mấy, không bao giờ thương xót hay ban phát cho ai cái gì, thì cũng không ai muốn con do chính mình đẻ ra phải chịu khổ ải. Một tu sĩ Phật giáo giảng rằng "người nào không yêu thương chính con mình sanh ra thì còn chẳng bằng loài cầm thú, nên sau khi chết bị quả báo sẽ đi vào ác đạo bị đọa vào kiếp thú vật thậm chí nặng hơn là bị đọa địa ngục". Trong một cái tâm lý chung như vậy, "ai cũng muốn con của mình phải được sướng, phải thành công hơn mình, phải có đời sống khá hơn mình", nên các bậc cha mẹ thường sẽ dành tất cả những gì được cho là tốt nhất cho con của mình. Tuy nhiên, đúng hay sai ở từng việc cụ thể thì còn phải xem xét kỹ.
Một đứa trẻ lớn lên, trở thành một "người tử tế ở mức độ tối thiểu" thì cha mẹ của đứa trẻ đó đã được coi là những người thành công. Như thế nào là "tử tế ở mức độ tối thiểu"? Thử liệt kê ra một số gạch đầu dòng:
- Không ngiện ngập vào bất cứ thứ gì như ma túy, cờ bạc, rượu trà, trai gái và "game" điện tử.
- Không tiêu xài phung phí, biết thương xót từng đồng xu, cắc bạc mà cha mẹ phải "đổ mồ hôi, xôi nước mắt, thức khuya dậy sớm, tần tảo ngược xuôi, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời", nơi đồng cạn, nơi đầm sâu, hoặc bạc tóc, mặt dày nơi thương trường nghiệt ngã...
- Không cướp giật, trộm cắp, không lừa gạt người khác để trục lợi, không lợi dụng sự cả tin của phái nữ để lừa gạt trinh tiết làm thú vui tiêu khiển rồi "quất ngựa truy phong"
- Không a dua đua đòi, chạy theo "mode", hưởng thụ những thú vui nhất thời mà "bầy đàn" cho là phải như thế mới là "sành điệu".
- Có một việc làm ổn định và chí thú trong công việc của mình.
Năm gạch đầu dòng trên là quan điểm cá nhân của người viết về cái khái niệm "tử tế ở mức độ tối thiểu". Có thể đối với người khác, năm gạch đầu dòng đó là quá nhiều, người khác nữa lại cho là chưa đủ. Với mỗi một gia đình, các bậc cha mẹ lại có thể có những đòi hỏi khác nhau. Cho dù là thế nào đi chăng nữa, thì việc sanh ra một đứa trẻ, bảo vệ nó trước cuộc đời nghiệt ngã, dạy cho nó nên người, tưởng là đơn giản nhưng thực sự với mỗi một kẻ làm cha mẹ chắc hẳn phải là một "kỳ tích".
Viết đến chỗ này, vẫn chưa thấy nói gì đến "vượt khổ" và "vượt sướng". Vâng thì bây giờ sẽ là điều mà bài viết này muốn thảo luận. Xã hội ngày nay đang đặt đám trẻ trước một trong hai thách thức: "1. Vượt khổ để thành người" và "2. Vượt sướng cũng để thành người". Nghe thấy hơi lạ tai nhưng quả thật là như vậy! Trong xã hội trước đây, không xa lắm, chỉ khoảng 25 năm trở về trước, ở Việt Nam hiếm có trẻ nào sống trong "hoàn cảnh sướng". Toàn xã hội ở trong tình trạnh thiếu thốn mọi mặt, thiếu thức ăn chứ đừng nói đến là chọn ăn món gì, thiếu đồ dùng, thiếu quần áo chứ đừng nói đến thời trang, thiếu trò chơi giải trí chứ đừng nói đến là tiêu khiển như thế nào. Đám trẻ như chúng tôi thời đó gần như không có sự phân biệt theo cái kiểu như bây giờ nào là "công tử", nào là "thiếu gia", nào là "kiều nữ", nào là "ái nữ" hay "thiên kim tiểu thư"... Chính bởi vậy, lúc đó tất cả đám trẻ chỉ cố gắng "vượt khổ" và hoàn toàn xa lạ với cái gọi là "vượt sướng". Thế nhưng ngày nay thì khác, xã hội đã có sự phân biệt quá sâu sắc giữa "lắm tiền" và "thiếu tiền". Càng ngày càng có những "kẻ ăn không hết", những "kẻ ăn không hết" càng nhiều thêm thì đương nhiên sẽ tạo ra nhiều thêm những "người lần không ra". Xã hội Việt Nam chưa đạt được mức "công bằng tối thiểu" để có thể tạo ra mức sống "tạm ổn tối thiểu" cho những người "kém may mắm" nhất xã hội. Sự phân hóa giữa "thừa thãi" và "đói kém" quá sâu sắc đó đặt bọn trẻ vào một thách thức rất lớn đó là phải "vượt khổ" và mặt đối lập đằng kia là "vượt sướng" để rồi cùng tiến đến con đường tạm gọi là "tử tế ở mức độ tối thiểu".
Nói đến những trở ngại của đám trẻ "vượt khổ" thì dễ hiểu. Nào là hoàn cảnh gia đình khó khăn, thiếu tiền đóng học phí, cơm còn chẳng đủ ăn, nói gì đến học. Nào là thiếu thốn sách vở bút mực, dụng cụ đồ dùng học tập. Nào là cha mẹ mải lo kiếm sống không có thời gian quan tâm đến việc học của con cái. Rồi phải phụ giúp cha mẹ kiếm sống nên ảnh hưởng đến việc học. Hoặc là có trẻ thì mồ côi cha, đứa lại mồ côi mẹ, đứa lại mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nào là bạn bè xấu rủ rê vào con đường trộm cắp, cướp giật, phạm tội. Đấy là chưa kể đến những trẻ phải bơi qua suối đến trường, hoặc đu dây qua sông để đến lớp... Cái khổ của đám trẻ "xấu số" thì trùng trùng điệp điệp, vượt qua được cái khổ này, cái khổ khác lại ập đến, bởi vậy đứa trẻ nào "vượt khổ" để "thành người" thường là những đứa có nghị lực "phi thường". Tuy nhiên, bởi vì cuộc đời của chúng vốn từ lúc nhỏ đã nhiều nước mắt, nên khi trưởng thành ít khi thấy họ cười. Có một câu chuyện thật trong vô vàn câu chuyện thật, như thế này: Một gia đình có sáu chị em sống quây quần bên cha mẹ, cuộc sống tuy nghèo đói nhưng họ rất yêu thương nhau. Bỗng năm đó "trời giáng tai họa", cha mẹ của đám trẻ đột ngột qua đời, sáu đứa trẻ đột ngột rơi vào tình cảnh bơ vơ không nơi nương tựa. Một nhà sáu miệng ăn, làm sao để sống? Người chị cả trong gia đình đang tuổi đôi tám, "mười sáu trăng tròn" bỗng nhiên phải trở thành "mẹ" của năm đứa em ruột. Bỏ trường, bỏ lớp, bỏ bạn bè, bỏ lại tương lai, người chị lao vào đời kiếm sống, kiếm từng hạt gạo để bỏ vào nồi nuôi chính mình và năm đứa em nhỏ dại. Cuộc đời quá nghiệt ngã trên đôi vai gầy mảnh khảnh của cô gái mười sáu. Một ngày, cô không kiếm được bất cứ cái gì để cứu đói cho đàn em, một suy nghĩ đen tối đã xuất hiện trong đầu. Cô trở về nhà với gói thuốc sâu trong tay với ý định cả sáu chị em cùng chết. Thế nhưng khi về đến nhà, đàn em nhỏ ríu rít vây quanh với những ánh mắt hồn nhiên sáng bừng trên những khuôn mặt thơ ngây giữa mịt mùng đêm tối. Lòng cô quặn đau và ý chí muốn sống, muốn "vượt khổ" mạnh hơn bao giờ hết, cô đem trôn gói thuốc sâu ra sau vườn và tự thề với lòng mình "sẽ vượt qua tất cả khổ đau để quyết tâm nuôi dạy các em thành người". Thế rồi, sau bao nhiêu năm "vượt khổ", năm người em nhỏ lần lượt trưởng thành, đứa là kỹ sư, đứa bác sĩ, đứa là cô giáo, đứa làm luật sư, đứa sĩ quan quân đội. Cả năm người em đều có những thành công nhất định và đều đã lập gia đình riêng, sanh con đẻ cái. Nhưng cô gái mười sáu năm xưa nay đã là một người phụ nữ già cô đơn lẻ bóng. Hằng đêm, trong bóng tối nơi một ngôi nhà ngoại ô, có hình một người phụ nữ cô đơn vẫn mỉm cười.
Những tấm gương "vượt khổ" thường để lại nhiều xúc động và khiến cho người đời cảm phục. Thế còn "vượt sướng" thì sao? Đa số mọi người đều cho rằng "những đứa trẻ sanh ra đã sướng thì cứ thế mà tiến thẳng trên "con đường trải thảm đỏ", làm gì mà có trở ngại cơ chứ?" Vậy thực tế trẻ sống trong hoàn cảnh sướng thì có trở ngại gì phải vượt qua để "thành người".
Người viết bài này có một gia đình nhỏ nhỏ, cô bồ của người viết cũng sanh ra hai đứa con rất đáng yêu một gái và một trai. Người em gái của người viết cũng có một gia đình nhỏ nhỏ và cũng có hai đứa con một gái và một trai. Đám trẻ bốn đứa đó tuy chưa phải là con nhà đại gia thừa tiền, nhưng cũng có thể tạm gọi là "sống trong hoàn cảnh sướng". Một lần đi chơi ở vườn hoa hay công viên gì đó, cu Đức đòi mua cái chong chóng, và được đáp ứng ngay (không rõ lúc đó là bà nội hay chú út chưa vợ hay là mẹ mua cho, nhưng lại quên không mua cho cu Mig). Cu Mig thấy anh cầm chong chóng chơi, quay tít, thế là cu cậu cũng muốn có một cái để chơi. Cu cậu liền nói "Ơ... của Mig đâu rồi". Câu nói này khiến cả nhà ngỡ ngàng, bởi mọi người đều cho là Mig cũng được mua cho một cái rồi nhưng đã làm rơi đâu đó. Nhưng thực tế là chưa. Lúc đó cả nhà cùng bật cười sảng khoái vì cái cách đặt câu rất ngô ngê ấy. Thêm một câu chuyện khác về cu Đức. Đức khác hẳn chị, Đức thích chơi hơn học, nhất là mấy trò chơi "game" điện tử. Thời nay mọi người đều xài điện thoại "smart", điển hình là "iphone". Cu Đức chắc là đã mượn được điện thoại "quả táo" của nhiều người để chơi, thành ra là nghiện. Trong khi đó ba mẹ của Đức lại lạc hậu, chỉ xài mấy cái điện thoại gọi được và nghe được. Rất nhiều lần Đức gạ mẹ "mẹ mua điện thoại quả táo đi". Ba gọi điện về nhà nói chuyện, Đức chẳng đòi hỏi gì, chỉ nói "con muốn điện thoại quả táo". Có thể nhiều người cho rằng, chuyện cái chong chóng của Mig và chuyện cái điện thoại "quả táo" của Đức chỉ là ba cái chuyện tẹp nhẹp, có gì mà phải nghĩ cho mệt, đáng bao nhiêu đâu, sắm vô tư cho con cái nó "bằng bạn bằng bè".
Vâng, có thể là vấn đề kinh tế không đáng phải suy nghĩ nhiều lắm. Với cu Mig, cái chong chóng có nhiều cũng chỉ là vài chục ngàn, với gia đình như gia đình Mig thì dễ như "thò tay vào túi lấy đồ". Với cái điện thoại "quả táo", đối với gia đình Đức không dễ như vậy, nhưng không phải là không mua nổi. Có điều cái đáng phải suy nghĩ là cái cách đặt câu dùng từ của hai đứa trẻ. Câu nói "Ơ... của Mig đâu" và câu "con muốn điện thoại quả táo" đều là hai câu yêu cầu thuộc vào thể dạng MỆNH LỆNH. Và đây là "mệnh lệnh" cho các bậc phụ huynh của chúng. Có thể nhiều người cho rằng, chúng quá nhỏ, biết gì đâu, nên câu chữ chưa thể đúng, đừng bắt bẻ làm gì. Người viết bài này không cho rằng là như thế. Rõ ràng hoàn cảnh sống đã đưa chúng đến với cách nghĩ và cách nói theo hình thức mệnh lệnh khi mà chúng muốn được chơi cái gì đó. Cho dù là không nói theo cách mệnh lệnh, khi mà chúng đã có đủ khôn hơn, chúng cũng đòi hỏi nhiều hơn so với các trẻ khác. Rõ ràng nhu cầu hưởng thụ và ý thích muốn được thỏa mãn những ham muốn tầm thường trước mắt của đám trẻ "sống trong hoàn cảnh sướng" là cao hơn những trẻ khác rất nhiều. Chính vì vậy cái "chướng ngại" đối với đám trẻ "vượt sướng" ở đây chính là những "cám dỗ của cuộc sống đủ đầy trong xã hội hiện đại".
Từ đó người ta sẽ đặt câu hỏi "vượt khổ" dễ hơn hay "vượt sướng" dễ hơn? Có lẽ không nên so sánh, bởi mọi so sánh đều là khập khiễng.
Ta chợt nhận ra ta chưa kịp trưởng thành thì tuổi già đã ập đến
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

cỏ rác cát bụi gỗ đá

Có nhiều bậc cha mẹ lo cho con đủ đường, con cái muốn gì là có đó, yêu thương con hết mực. Tuy nhiên, khi thấy con mình học kém, thậm chí là hư thì lại kêu ca: "Nhìn cái con Lượm đó, cha nó thì chạy xe lai, mẹ nó thì làm phu hồ, nó phải phụ giúp cha mẹ việc nhà, lo cơm nước cho các em, vậy mà thi đại học nó đậu cái một. Con mày, sướng không biết đường sướng, ở nhà không phải làm gì, cơm mẹ bưng đến tận mồm, chỉ có học thôi mà không lo học, thi trung cấp còn trượt thì có xấu hổ không?". Ồ vậy là đứa khổ thì vượt được khổ, còn đứa sướng thì lại sa lầy trong sung sướng. Chẳng cha mẹ nào sống đời với con được, ai rồi cũng phải ra đi. Nếu không thể tự đứng trên đôi chân mình, khi cha mẹ đi rồi thì biết phải làm sao? Đối với các bậc cha mẹ nào sanh con ra mà khi con lớn lại không trở thành người thì buồn sầu mãi, "chết cũng không nhắm mắt". Xem ra vấn đề "vượt sướng" bây giờ lại trở thành một vấn đề nan giải và nhức nhối trong xã hội, mọi ngõ ngách cuộc đời và mọi gia đình. Một đứa trẻ từ lúc bắt đầu thai nghén, tới khi được sanh ra, rồi lớn dần. Người đầu tiên là nguồn sống của nó, yêu thương đùm bọc nó, che chở nó, bạn của nó chính là mẹ nó. Rồi dần dần trong tiến trình đó cha nó là người thứ hai tri kỷ với nó. Nhưng từ khi nó bắt đầu đi học, từ khi nó lớn hơn mười tuổi, rồi dần dần nó lớn thêm chút nữa, thì dường như nó dần dần xa rời khỏi vòng tay của những người vốn yêu thương nó bằng bản năng. Khi còn nhỏ, chuyện gì nó cũng hỏi cha, hỏi mẹ. Nhưng lớn dần, nó bắt đầu ít trò chuyện với cha mẹ hơn, giữa nó và cha mẹ bắt đầu hình thành một hố sâu thế hệ. Bất kể chuyện gì lớn nhỏ, những thứ tò mò, chúng chỉ tâm sự với bạn bè, và rồi nghe theo những lời khuyên "không đúng đắn" của bạn bè. Cha mẹ lúc đầu thấy việc đó cũng bình thường nhưng rồi dần dần họ nhận ra rằng dường như họ đang mất dần đứa con mà họ dứt ruột đẻ ra. Thế rồi nhiều lần họ thực sự thấy bàng hoàng vì hành động của con trẻ.
Hàng xóm của người viết bài này có một cô con gái và một cậu con trai. Người bố của gia đình đó là một trí thức quân đội. Ông rất quan tâm đến việc học của con, thường xuyên kiểm tra bài vở của chúng. Đứa con gái lớn học giỏi, chăm chỉ, yêu thương cha mẹ, bây giờ đang có học bổng du học bên Pháp. Nhưng thằng thứ hai thì đột nhiên đi lạc đường. Khi thằng bé học lớp 6, nó cũng là học sinh giỏi, còn được lựa vào đội tuyển toán. Nhưng bắt đầu từ năm học lớp 7 nó mê "game online" và rồi bắt đầu sa ngã. Người bố phản ứng bằng cách cấm đoán, thậm chí là đánh đòn khi bắt được quả tang. Nhưng dường như mọi biện pháp đều không có hiệu quả. Thằng bé vẫn mê muội với "game online" rồi tham gia vào băng đảng đường phố, nó đã không còn nói chuyện tử tế với cha nó nữa, nó thích nghe bạn bè rủ rê dụ dỗ nhiều hơn. Những gì bạn nó nói, nó cho là chí lý. Những gì bố nó nói nó cho là lạc hậu và cố tình chẳng thèm nhập tâm. Thế rồi đến một ngày nó bỏ nhà đi hoang. Tương lại của nó có thể trở thành người tử tế được không? Đây là một câu hỏi lớn chưa có câu trả lời.
Vì sao nhiều người thất bại trong việc giúp con "vượt sướng"? Chắc hẳn phải có rất nhiều nguyên nhân.
1. Một trong các nguyên nhân đó có lẽ cũng là nguyên nhân đầu tiên đó là đáp ứng một cách vô nguyên tắc mọi đòi hỏi của con cái. Sanh con ra, yêu thương con, đương nhiên cũng muốn con mình có cái nọ có cái kia. Tuy nhiên cần phải có quy định và giới hạn. Chứ không phải vì gia đình không thiếu thốn thì tiếc gì con cái chúng nó đòi. Vấn đề không phải là tiếc hay không tiếc.
2. Nguyên nhân thứ hai phải chăng là cha mẹ không dành thời gian tìm kiếm và tạo ra những hoạt động bổ ích để lôi kéo con mình vào. Để chúng tự do tìm nguồn vui. Khi chúng đã đi lạc đường rồi thì thật khó mà lôi chúng lại.
Trẻ "vượt khổ" thì không có đủ thời gian cho riêng mình, muốn học bài thì phải thức khuya hơn người khác, dậy sớm hơn người khác. Nhưng ở phía đối lập, trẻ "sống trong hoàn cảnh sướng" lại quá dư dả thời gian. Trong lúc đang ngơ ngác chưa biết phải dùng thời gian vào việc gì có ích, thì gặp phải sự cám dỗ của thú vui hiện đại. Thế là lâm vào cảnh chơi để "giết thời gian". "Thời gian" là một thứ vô cùng quí giá. Vàng bạc, của cải vật chất mất đi còn có thể lấy lại được. Nhưng thời gian khi đã trôi qua thì mãi mãi không quay trở lại. Vì vậy thời gian là để sử dụng sao cho không bao giờ phải hối tiếc vì mình một khắc nào đó mình đã lãng phí thời gian. Theo giáo lý của đạo Phật, sống lãng phí cũng là một nguyên nhân gây tạo nghiệp rất nhiều. Cho dù mình lãng phí những cái của mình chưa nói là lãng phí những cái của người khác. Khi tạo nghiệp càng nhiều thì phước càng mỏng, và khi đó theo luật nhân quả công bằng thì những người phước càng mỏng thì cuộc sống càng kém "may mắn". "May mắn" không phải là Thượng Đế nào ban cho ta, "may mắn" cũng không phải là một thứ bất định được quy định bởi "số mệnh". May hay rủi, sướng hay khổ đều là nhân quả của chính những hành động, lời nói, suy nghĩ của mỗi người trong cuộc đời gây tạo phước hay là nghiệp.
Tình yêu giữa cha mẹ và con cái có lẽ đẹp nhất là lúc đứa trẻ còn đang bé. Mà kỳ lạ thay, các bậc cha mẹ lại mong con mình mau lớn. Trong khi đám trẻ lại lớn rất là nhanh. Để đến một ngày chợt giật mình nhận ra con của mình đã lớn từ lúc nào không biết. Lúc các con còn bé chính là cơ hội tốt nhất để các bậc cha mẹ tạo ra một sân chơi chung lôi kéo con mình vào những hoạt động bổ ích. Nếu lúc ấy các bậc cha mẹ vì một lý do nào đó mà bỏ bê việc chơi cùng con giúp con tham gia vào những hoạt động bổ ích, thì từ khi con cái được mười tuổi trở lên các bậc cha mẹ sẽ rất khó khăn trong việc hướng dẫn cho con cái đi sao cho đúng trên con đường gập ghềnh của cuộc sống phía trước. Bởi vậy dù là phương Đông hay phương Tây, dù là đạo Phật hay ngoại đạo, thì mọi người đều được khuyên là hãy bắt đầu dạy con từ khi đứa bé vừa không tuổi thai nghén trong bụng mẹ. Thậm chí một tu sĩ Phật giáo còn khuyên là hãy bắt đầu dạy con từ lúc hai vợ chồng vừa mới cưới nhau (xem "dạy con nên người").
3. Nguyên nhân thứ ba có vẻ là rõ nét dễ thấy nhất đó là giữa cha mẹ và con cái không có một tình bạn thực sự. Khi đứa trẻ lớn hơn mười tuổi, chúng bắt đầu xa dần khỏi vòng tay yêu thương của cha mẹ. Chúng bắt đầu có nhu cầu bạn bè, dần dần chúng thích tâm sự nói chuyện với bạn bè nhiều hơn là nói chuyện với các bậc sinh thành ra chúng. Lúc còn nhỏ bất cứ chuyện gì chúng đều nói với cha mẹ. Làm việc gì cũng xin phép cha mẹ. Làm xong việc gì dù hoàn thành hay không hoàn thành cũng đều báo cáo với cha mẹ. Nhưng giờ đây, mọi thứ đã thay đổi, đám trẻ không thích nói chuyện với cha mẹ nữa. Chúng cho rằng cha mẹ không thể hiểu nổi chúng, chúng cho rằng cha mẹ nhiều khi quá khắt khe với chúng, cha mẹ thực sự đã lạc hậu rồi. Chúng sẽ bắt đầu có những so sánh rằng: tại sao bạn nó có cái nọ cái kia mà nó lại không có, mà mấy cái đó thì có đáng là bao. Dần dần đám trẻ chỉ còn tâm sự với bạn, thậm chí lén lút dối cha, lừa mẹ để làm những việc khờ dại mà bạn bè xúi bẩy. Bất cứ một gia đình nào lâm vào tình trạng thiếu sự đối thoại giữa cha mẹ và con cái thì đều tồn tại một nguy cơ rất lớn cho việc con của họ sẽ đi lạc vào con đường tối tăm không lối thoát.
Bởi vậy, khi đứa trẻ còn nhỏ, các bậc cha mẹ là cái lá chắn che trở cho con cái, đùm bọc yêu thương săn sóc cho con cái, dìu dắt từng bước chân, lo lắng từng giấc ngủ từng bữa ăn. Nhưng khi đứa trẻ lớn dần, thì các bậc cha mẹ cần phải hạ thấp mình xuống để làm bạn với con. Bởi chỉ có cách đó cha mẹ mới có thể lắng nghe được hết những tâm sự của con cái, để rồi từ đó giúp con cái hiểu được đúng sai mà biết lựa chọn lối đi cho phù hợp. Và để có thể làm bạn được với con một cách sâu sắc nhất thì các bậc cha mẹ phải luôn luôn duy trì việc tự học. Con càng lớn cha mẹ càng phải học nhiều, con càng lớn, cha mẹ càng phải đọc sách nhiều để từ đó tránh đi vào con đường dạy con theo cách áp đặt vô lý khiến con cái bất phục không tuân. Cha mẹ mà ham đọc sách, con cái cũng sẽ ham đọc sách, đó cũng chính là một hoạt động bổ ích chung mỗi gia đình đều có thể gầy dựng. Khi trẻ ham đọc sách, chúng sẽ không bị lâm vào tình trạng "giết thời gian" bằng những thứ vô nghĩa như "game online" hay "chat chít trên mạng". Tất nhiên đọc sách gì thì các bậc cha mẹ phải biết chọn lọc. Nhưng không phải cha mẹ nào cũng đọc được nhiều sách hay, câu lạc bộ "Đọc sách cùng con" là một ý tưởng rất tốt của Hoa Xuyên Tuyết giúp các bậc cha mẹ lựa sách cho các con sao cho không bị sai lầm. Về phần các bậc cha mẹ nhiệm vụ cao cả là gắng làm bạn của con. Tuy nhiên, ở phía ngược lại những đứa con cũng cần có sự hợp tác. Mỗi một người cần hiểu rõ một điều rằng: trên cõi đời này không ai yêu thương mình bằng cha mẹ mình. Cha mẹ chính là những người sanh ra mình, là những người luôn mong muốn những thứ tốt nhất cho mình. Bởi vậy làm con cái đừng nên xa cách cha mẹ, hãy gần gụi và hãy nói với cha mẹ bất cứ điều gì mà mình suy nghĩ. Hãy hỏi ý kiến cha mẹ trước khi mình định làm bất cứ chuyện gì. Sự hợp tác đối thoại thông tin đầy đủ trong mỗi ra đình là điều cực kỳ quan trọng để mọi người cùng thấu hiểu lẫn nhau. Đó là điều kiện tiên quyết giúp cho mỗi đứa trẻ tránh xa được những cám dỗ quá hấp dẫn của cuộc sống hiện đại. Những cám dỗ càng hấp dẫn thì càng nhanh giết chết tương lai của mỗi đứa trẻ.
Bởi vậy, dù là "vượt khổ" hay "vượt sướng" thì đều cần sự chung sức của cả gia đình, nhà trường và xã hội. Tuy nhiên đặc biệt quan trọng là sự hợp tác thấu hiểu lẫn nhau giữa cha mẹ và con cái. Nếu cha mẹ theo đạo Phật, tin theo luật nhân quả công bằng thì cũng nên giúp con học theo đạo Phật sống làm sao cố gắng gây tạo phước lành. "Vượt sướng" cũng là cách để tạo phước. Bởi vì hưởng sướng chỉ làm tăng thêm sự ích kỷ. "Vượt sướng" sẽ giúp trẻ sống vị tha, bao dung, nhân hậu và vì cộng đồng mọi người mà làm những điều thiện. Với mỗi một cá nhân, phước càng dày, nghiệp càng mỏng, do nhân quả công bằng, cuộc sống sẽ suôn sẻ hơn.
Ta chợt nhận ra ta chưa kịp trưởng thành thì tuổi già đã ập đến
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

cỏ rác cát bụi gỗ đá

Chủ đề 15: Từ sâu thẳm bản chất của con người là xấu


Tên của chủ đề này mới nghe thật là đáng ghét. Người đang viết bài này cũng thấy thật đáng ghét. Theo cách nghĩ thông thường thì phải có người nọ người kia, chứ làm gì có chuyện ai ai cũng xấu. Thế nhưng khi ngẫm nghĩ cho thật kỹ thì dường như điều kết luận ở trên có vẻ là rất đúng. Theo giáo lý của đạo Phật, tất cả mọi phàm phu (không phải Thánh) khi vừa mới sanh ra đời đã là "sanh ra trong tù ngục của Tham, Sân và Si". Cũng bởi vì do kiếp trước luẩn quẩn trong tù ngục của Tham, Sân và Si nên mới luân hồi sang kiếp này. Thế nên mới có câu "Ai không nặng không sanh vào cõi tục, niệm Phật không thành lòng khó về được Tây Thiên". Những ai không tu hành, hoặc có tu hành mà tu chưa tới nơi, chưa có thành tựu, chưa xả bỏ được hết Tham, Sân, Si từ trong bản ngã thì vẫn còn tạo nghiệp. Mà còn tạo nghiệp thì vẫn còn phải luân hồi trong cõi dục. Tuy nhiên việc tu hành để có thể xả bỏ được Tham, Sân, Si để đạt tới được cảnh giới Vô Ngã thì khó vô cùng. Cái lằn ranh giới giữa Thánh và phàm phu chính là sự khác biệt giữa Vô Ngã và Tham, Sân, Si. Một phàm nhân muốn vượt qua cái lằn ranh đó thì thực sự là khó vô cùng, và nhiều người cho rằng đó là chuyện không tưởng. Và quả thật những ai không học đạo Phật, không tu theo đạo Phật, không tin có Nhân Quả Luân Hồi đều cho rằng đó là chuyện "phi thực tế".
Vì vậy người viết bài này sẽ thôi không bàn đến chuyện tu đạo và phân biệt giữa Thánh và phàm nhân nữa, bởi vì bản thân người viết bài này rất tin luật Nhân Quả Công Bằng nhưng việc tu học thì như người ta vẫn nói "chưa bắt đầu đã phá ngang". Do đó cái Tốt và Xấu đề cập đến trong bài này chỉ giới hạn trong phạm vi phàm nhân mà thôi.
Lúc còn nhỏ, đọc trong sách vở chỉ thấy người ta tô vẽ một nhân vật thành một "ông Thánh", bất cứ cái gì liên quan đến nhân vật ấy đều vô cùng tốt. Tâm hồn của một đứa trẻ con như một tờ giấy trắng, người ta vẽ cái gì thì nó ra cái đó, lúc ấy vẫn luôn tin đó là một "vị Thánh" thực sự. Đến khi lớn lên, bắt đầu biết suy nghĩ một chút, tuy còn thô thiển và thiển cận nhưng cũng không đến nỗi nào nên vẫn có thể nhận ra một vài chi tiết phi lý trong chuỗi câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của nhân vật đó. Và chỉ cần một vài chi tiết phi lý đó thôi đã khiến cho "vị Thánh" đó hoàn toàn đổ sụp trong tâm khảm của một thằng bé lớn tuổi. Nhất là khi đài báo bây giờ lại cứ lôi cái hình ảnh đã sụp đổ đó ra để bắt mọi người phải noi theo khiến những suy nghĩ đã tồi tệ lại càng tồi tệ hơn. Rồi nhiều khi nghĩ cũng thương cho "vị Thánh" đó, khổ thật, chết rồi mà đám "đệ tử" vẫn không tha, bất cứ cái gì cũng bảo "của ông ấy" "ông ấy dạy như thế" "tư tưởng của ông ấy"... để rồi sau này nếu có đói khổ lầm than, bao công tội đều đổ lên đầu "vị Thánh" ấy! Tội nghiệp!
Những kẻ đang "lợi dụng hình ảnh" của "vị Thánh" đó quả thật là não trạng có vấn đề. Họ không hiểu một điều rằng "phàm những gì là chân lý tạm bợ thì chỉ đúng cho một thời điểm lịch sử nhất định". Tuy nhiên cũng có thể hiểu được về hành động của bọn họ, bởi vì do thiếu năng lực tạo ra niềm tin và uy tín, nên đành mượn tạm một thứ niềm tin của quá khứ ra xài tạm, mặc dù cái niềm tin đó đã lỗi thời, nhưng "méo mó, có hơn không".
Trở lại với vấn đề Tốt và Xấu, một "vị Thánh" trong lòng đã sụp đổ hoàn toàn rồi thì chỉ còn lại tốt xấu với những người sống quanh ta mà thôi. Con người thật là đơn giản, ai làm cho mình vui, người đó là người tốt, ai làm mình bực mình thì kẻ đó là xấu. Ồ hay quá! Tốt và Xấu đơn giản vậy mà cứ phải bàn nhiều. Và từ ngay trong cái "khái niệm tạm bợ" ấy đã cho ta một kết luận rằng "trên đời này, ai ai cũng xấu" bởi người ta thường rất khó có thể "làm dâu trăm họ". Vậy là dù mình sống tốt đến mấy thì chỉ cần một lần làm cho ai đó không hài lòng thì đã là người xấu rồi. Lại có một "khái niệm tạm bợ" khác về tốt và xấu, người ta cho rằng ai được nhiều người ủng hộ thì là người tốt, ai có ít người ủng hộ thì là kẻ xấu. Nếu nói như vậy thì Obama hay Sarkozy đều là những người cực xấu so với những lãnh đạo trong Trung Nam Hải hoặc những lãnh đạo ở Ba Đình. Bởi vì khi Obama trúng cử chỉ có khoảng 51% cử tri ủng hộ, hoặc như đợt bầu cử vừa rồi Sarkozy chỉ có 27% cử tri ủng hộ, đối thủ của Sarkozy là ông Francois Hollande cũng chỉ có 28% cử tri ủng hộ. Trong khi ấy thì những lãnh đạo ở Ba Đình hay Trung Nam Hải bao giờ cũng trúng cử với số phiếu khoảng 99% cử tri ủng hộ. Nhưng nếu bạn được lựa chọn, bạn thích sống với "người tốt" ở Trung Nam Hải hơn hay thích sống với "người xấu" ở Paris hơn.
Thôi nói chi chuyện xa vời chính trị xa xôi, chỉ cần nói tới chuyện ở ngay nơi đây thôi cũng đã thấy "tốt xấu vàng thau" lẫn lộn. Một số người thường xuyên ra vào nơi đây chắc có nghe qua cái tên Hoa Phong Lan, có vẻ như hắn được coi là một người có một chút xíu tốt, bởi vì xem ra cũng có ít ỏi một vài người quí mến hắn. Tuy nhiên, Cỏ lại biết rõ bản chất hắn là một kẻ tồi tệ và xấu vô cùng. Hắn cũng tham tiền như bao kẻ khác nên bỏ lại vợ con và bao người thân bơ vơ, một mình hắn đi tìm miền đất hứa mong kiếm được nhiều tiền hơn. Lại thêm cái bệnh đa tình, hắn đã có một vợ và hai con, nhưng lại không chịu an phận, tối ngày đi "gây gổ tình cảm" với hết người nọ người kia. Nhìn chung về bản chất thẳm sâu trong con người hắn đích thực là một kẻ xấu. Nếu HPL đọc được bài này chắc hẳn hắn sẽ giận Cỏ lắm! Nhưng hắn có giận thì cũng phải ngậm tăm thôi vì hắn biết Cỏ đã đọc trúng tâm đen của hắn.
Thôi chết! Viết bài này, Cỏ cũng đã đụng chạm một số cá nhân. Như vậy Cỏ cũng là người xấu mà bày đặt phê phán này nọ.
Lạy Phật! Con xin sám hối!
Ta chợt nhận ra ta chưa kịp trưởng thành thì tuổi già đã ập đến
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Baba Yaga

Lão Cỏ!

Lão đúng là người xấu dám nói xấu HPL  thày giáo của ta.

Lão thật là đáng ghét!
Trong một thoáng cổng thần tiên vừa khép
Phù thủy già trong dáng vóc Thiên Nga
Úmbala...bala
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

cỏ rác cát bụi gỗ đá

@ Phù Thuỷ Già:
Lão không có nói xấu về HPL, lão chỉ nói thật về sự xấu xa của hắn. :)
Ta chợt nhận ra ta chưa kịp trưởng thành thì tuổi già đã ập đến
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

cỏ rác cát bụi gỗ đá

Chủ đề 16: Điều gì khiến cho ta chợt mỉm cười
Nói đến cái cười, bất cứ ai cũng có thể liệt kê ra vô số kiểu. Trong vốn từ vựng tiếng Anh ít ỏi của Cỏ thì chỉ biết có hai kiểu là "smile" và "laugh". Nhưng về phần tiếng Việt thì Cỏ biết nhiều hơn tiếng Anh, nên có thể liệt kê ra một loạt các kiểu cười sau đây (chưa đầy đủ): Cười ha ha, cười khà khà, cười ha hả, cười hềnh hệch, cười sằng sặc, cười nắc nẻ, cười khùng khục, cười sảng khoái, cười mỉm, cười nụ, cười tươi rói, cười tủm tỉm, cười nhạt, cười đểu, cười nhếch mép, cười mỉa, cười e lệ, cười thầm, cười nham hiểm, cười nham nhở, cười nịnh, cười ve vãn, cười ra nước mắt, cười chảy nước mắt, cười đau bụng... Trong phạm vi bài viết này, người viết không định bàn thảo gì hay mô tả gì về các kiểu cười. Chỉ là muốn tự mình tìm hiểu xem điều gì hay động cơ gì khiến cho mỗi người "chợt mỉm cười"
Trong một vài nghiên cứu của các nhà khoa học, thì tiếng cười được cho là một thứ cũng dễ lây. Một nhóm bạn đang bù khú với nhau, mỗi người đều cố gắng pha trò để mọi người cùng cười. Một người dẫn chương trình thường phải cố gắng nghĩ ra cái gì đó để tránh làm cho không khí của hội trường quá ư im ắng. Một người thày đứng trên bục giảng cũng đôi khi phải pha trò một chút cho bài giảng đỡ nhàm chán... Nói chung, người ta thường cố gắng tạo ra những tiếng cười ở chỗ đông người. Ban đầu những trò gây cười thực sự cũng rất đáng để cười. Tuy nhiên, càng về sau, những trò gây cười càng nhạt thếch, nhưng bởi mọi người đều ở trong trạng thái đã hưng phấn nên tiếng cười rất dễ phát ra và dễ dàng lây lan.
Tuy nhiên, cái cười "chợt mỉm" lại không phải là cái thứ cười kiểu đó. Khi nào người ta ở một mình, xung quanh là một bầu không gian tĩnh lặng u tịch, nhưng lúc ấy người ta "chợt mỉm cười", chắc hẳn cảm giác lúc đó phải là một điều gì đó khiến cho người ta hạnh phúc. Người viết bài này chợt nhận ra rằng mỗi khi "chợt mỉm cười" như vậy thì trong tâm luôn hiện ra những hình ảnh mà nó khiến cho người viết bài này luôn thương nhớ rất nhiều. Và có lẽ đó chính là điều mà khiến cho người viết bài này cảm thấy hạnh phúc nhất.
Ta chợt nhận ra ta chưa kịp trưởng thành thì tuổi già đã ập đến
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

cỏ rác cát bụi gỗ đá

Mười danh thắng tôn giáo

Hôm trước con có đọc báo của nước ngoài viết về VN mình. Họ có đưa ra thông tin về 10 đại danh thắng tôn giáo của Việt Nam. Những danh thắng đó bao gồm:
1. Chùa Yên Tử, Quảng Ninh
2. Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
3. Chùa Diên Hựu hay chùa Một Cột hay Liên hoa đài, Hà Nội
4. Chùa Hương, Hà Tây
5. Chùa Bái Đính, Ninh Bình
6. Chùa Thiên Mụ, Huế
7. Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt
8. Tượng Chúa Jesu Christ, Vũng Tàu
9. Nhà thờ đạo Cao Đài, Tây Ninh
10. Đền thờ Bà Chúa Xứ, Châu Đốc, An Giang.
Mình không hiểu người ta lấy tiêu chuẩn xếp hạng như thế nào. Nhưng có lẽ là họ căn cứ vào lịch sử của các di tích để xếp hạng.
Ta chợt nhận ra ta chưa kịp trưởng thành thì tuổi già đã ập đến
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

cỏ rác cát bụi gỗ đá

"mê tín"

Giáo lý Phật Giáo do Đức Phật truyền dạy vô cùng cao siêu. Tất nhiên không phải là cao siêu ngay lập tức, mà cũng đi từ sơ khởi đến cao siêu. Mổ xẻ ra thì có thể “vô tiền khoáng hậu”. Tuy nhiên tóm gọn lại chỉ một câu duy nhất: “Phật Giáo là con đường duy nhất dẫn đến giác ngộ giải thoát, và ai muốn đạt được thì chỉ có một cách duy nhất là học và làm theo”. Bởi vậy “đức tin” hoàn toàn phụ thuộc vào mỗi cá nhân. Và Phật Giáo không yêu cầu chúng sanh phải “tin một cách mù quáng” bởi như vậy chẳng ích gì.

Về vấn đề “nhân danh Đạo Phật người ta hành nghề mê tín dị đoan”. Vấn đề này không phải tại Đạo Phật. Vấn đề này là tại mọi người tự để mình “mê tín” và tự để mình bị dẫn dắt vào con đường “mê tín”, cúng bái, tùm lum, khấn vái xin xỏ tùm lum mà cứ tưởng rằng như thế là Phật Giáo.
Thực ra những kẻ có thể lợi dụng Đạo Phật hay đạo Mẫu, hay đạo Thần hay bất cứ tôn giáo nào để hành nghề mê tín thì cũng giống như trong thương trường hay chính trị trường hay bất cứ lĩnh vực nào người ta vẫn mượn oai hay uy tín của một người hay một tổ chức nào đó để trục lợi. Vấn đề là người bị cuốn vào trong vòng xoáy đó có những sự hiểu biết mù mờ hời hợt, vội vã cả tin nên thành ra như vậy.
Một khía cạnh nữa là thần linh thực sự có tồn tại, và thần linh cũng có một số quyền năng nào đó. Thêm nữa, thần linh cũng là những vị thích được người ta van vái khẩn cầu, bởi vì thực chất rất nhiều thần linh chưa tu hoặc không tu theo Đạo Phật. Vậy thực chất thần linh có giúp được người ta hay không? Câu trả lời là có, nhưng không phải theo cách “biến không thành có”, mà đều phải căn cứ vào “nhân duyên và nghiệp báo”. Nếu có nghiệp tốt của quá khứ thì thần linh sẽ làm cho “quả rụng” nếu người ta vội vã cầu xin. Vậy là “quả” đó vẫn là do tự mình gieo trồng, chứ không phải được ban bởi Thần linh như người ta vẫn tưởng.
Bởi vậy tôi xin chắc chắn rằng:
1. Nếu bạn đang chưa hạnh phúc. Bạn hãy làm những việc tốt. Như thế bạn sẽ tạo nghiệp tốt để bù cho nghiệp xấu. Cuộc đời bạn sẽ dần dần vui lên.
2. Nếu bạn đang hạnh phúc. Bạn hãy làm những điều tốt. Như thế phước của bạn sẽ càng giàu thêm. Và tương lai bạn sẽ không bì rơi vào cảnh khổ.
Những điều trên thật đơn giản phải không? Nếu bạn nghĩ thế, thì tại sao bạn không thay đổi bản thân mình từ ngay giờ phút này. Đừng để Tham, Sân, Si biến thành ngục tù cả đời bạn.
Ta chợt nhận ra ta chưa kịp trưởng thành thì tuổi già đã ập đến
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

cỏ rác cát bụi gỗ đá

Đạo Phật là Tôn giáo hay Triết học

Hôm nay Chủ Nhật, rảnh một chút ngồi đọc sách, thấy có mấy đoạn trích có ý nghĩa chép ra đây gửi mọi người cùng đọc.

Từ trước đến nay theo cách nghĩ thông thường của nhiều người thì đa số người Việt Nam là theo đạo Phật. Tuy nhiên khi nhìn nhận những hành vi tôn giáo của đa số Phật tử khi đến chùa lễ Phật để cầu xin tài lộc, sức khỏe, phước lành… thì xem ra đó lại là những hành vi đi ngược lại với những gì mà Đức Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã chỉ dạy.

Theo nhiều nhà nghiên cứu thì Phật Giáo không phải là một tôn giáo. Vì mấy lẽ như sau:
-          Phật Giáo không công nhận có một Đấng Tối Cao hay Đấng Sáng Tạo hay Đấng Toàn Năng
-          Phật Giáo không hướng ngoại mà hướng nội. Tức là Phật Giáo không khuyến khích người ta thực hành những nghi lễ cúng bái van vái khẩn cầu. Phật Giáo yêu cầu Phật tử phải tự mình thanh lọc bản thân làm cho mình trở nên thanh khiết để đạt được cứu cánh tự do tuyệt đối.
-          Phật Giáo không phải là một hệ thống giáo lý để nghiên cứu bàn cãi hay chứng minh hay để đọc chơi cho thỏa mãn tri thức.
-          Phật Giáo là con đường duy nhất dẫn đến giác ngộ và giải thoát.
-          Ai muốn đạt được mục tiêu giác ngộ và giải thoát tự do tuyệt đối thoát khỏi luân hồi trầm luân đau khổ thì chỉ có một cách học, thực hành và tự mình chứng ngộ.
-          Phật Giáo trình bày mục tiêu Niết-Bàn cho những ai thấy cần đi đến. “Hãy đến và xem” Đức Phật dạy như vậy.
Narada Maha Thera viết:
“Trong thế gian vô minh này, Tham, Sân, Si là nguồn cội của tất cả mọi tội lỗi. “Kẻ thù độc hiểm nhất của nhân loại là lòng tham, tức sự luyến ái, bám níu vào cái được gọi là TA hay CỦA TA…
Kinh “Pháp Cú” có ghi Phật ngôn như sau:
“Không có lửa nào như lửa tham
Không có ngục tù nào như lòng sân
Không có lưới nào như vô minh
Và không có dòng sông nào như ái dục”
Trong khi lần bước trên bậc thang tiến hóa tinh thần, chúng ta lần hồi từ bỏ mọi luyến ái, thô kịch và vi tế, mọi hình thức đeo níu vào những gì có liên quan đến “CỦA TA” và “TA”, tựa hồ như em bé kia, càng trưởng thành, em dần dần từ bỏ những món đồ chơi thân yêu quí chuộng một thời nào. Nếu lúc còn trẻ thơ mà có người đến giải thích cho rằng các món đồ chơi kia là vô ích, nên bỏ đi, thì chắc là em không bằng lòng…”

Vậy Phật Giáo là gì?
Khi nghiên cứu về Phật Giáo, người ta chợt nhận ra hai câu hỏi như sau:
1. Phật Giáo có phải là một “triết học” không?
2. Phật Giáo có phải là một “tôn giáo” không?
Narada Maha Thera là một giảng sư ở Đại học đường Sri Lanka cũng là một tu sĩ Phật Giáo có viết những dòng như sau:
“Một cách chính xác, Phật Giáo không phải là một “triết học” vì Phật Giáo không phải chỉ là “sự yêu chuộng trí tuệ, lòng ham thích thúc đẩy đi tìm trí tuệ” (Webster’s Dictionary)”
“Giáo huấn mà Đức Phật truyền dạy, dầu có tánh cách luân lý hay triết lý, là để học hỏi, thực hành, và trên tất cả, là để chứng ngộ bằng trí tuệ trực giác. Giáo pháp như chiếc bè đưa ta qua đại dương của cuộc sống”
“Theo lối định nghĩa thông thường, một  cách chính xác, Phật Giáo không phải là một tôn giáo (religion) bởi vì Phật Giáo không phải là “một hệ thống tín ngưỡng và tôn sùng lễ bái”, trung thành với một thần linh siêu nhiên.
Phật Giáo không đòi hỏi nơi tín đồ một đức tin mù quáng.”
“Trong kinh “Pháp Cú”, Đức Phật dạy:
“Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm.
Chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta.
Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta.
Không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch.”

Từ đó phát sanh một câu hỏi thứ 3: Vậy Phật Giáo không phải là một tôn giáo, thì chùa và tượng Phật để làm gì? Người Phật tử đến chùa lễ Phật để làm gì?

Narada Maha Thera viết:
“Người Phật tử không cầu xin một ân huệ vật chất hay tinh thần nào khi đảnh lễ tượng Phật, mà chỉ bày tỏ lòng tôn kính ngưỡng mộ của mình đến lý tưởng siêu việt mà bức tượng tiêu biểu. Người Phật tử quỳ trước tượng Phật, dâng bông và dâng hương, không phải dâng đến bức tương bằng đá, bằng gỗ, hay bằng giấy, mà là đến Đức Phật mà bức tượng tượng trưng Ngài.”
“Dầu có nhiều nghi thức lễ bái trong các buổi lễ, người tín đồ Phật Giáo không tôn sùng Đức Phật như một thần linh”
“Không nên lệ thuộc người khác mà phải nương nhờ nơi tự mình, tự mình cố gắng. Đức Phật dạy:
“Các con phải cố gắng, các đấng Như Lai chỉ là các vị thầy.” (Kinh Pháp Cú câu 276)”
Ta chợt nhận ra ta chưa kịp trưởng thành thì tuổi già đã ập đến
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

cỏ rác cát bụi gỗ đá

Nhiều người nói “Đạo nào cũng đều muốn hướng người ta đến cái thiện”
Trước kia mình cũng nghĩ như thế: “mọi đạo đều giúp con người hướng thiện và giúp con người sống an tâm”. Nhưng bây giờ mình cho rằng đây là một cách nói theo kiểu nói cho xong.
Nói như Karl Marx: “tôn giáo là linh hồn của những điều kiện không có linh hồn, là trái tim của thế gian không có trái tim, là nha phiến của dân chúng”.
Đạo Phật không phải như vậy!
Tôn giáo có thể chia thành hai trường hợp rõ rệt:
1. Tôn giáo thần quyền
2. Tôn giáo phi thần quyền
Tôn giáo thần quyền là tôn giáo tìm kiếm sự cứu rỗi nơi các đấng Thần linh. Tất cả các tôn giáo nào truyền dạy rằng con người sống và làm mọi việc đều là do thần linh hỗ trợ hoặc bởi do nơi thần linh ban phát thì dù là “độc thần giáo” hay “đa thần giáo” đều là “thần quyền”.
Đạo Phật có lẽ là “tôn giáo” duy nhất “phi thần quyền”. Đức Phật dạy “chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm. Chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta. Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta. Không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch”.
Bởi vậy Đạo Phật khuyên mỗi người không nên cầu xin sự ban phước, mà phải tự mình trau giồi đạo đức. Không nên cầu xin sự cứu rỗi nơi các đấng thần linh, mà phải tự mình nhận lãnh trách nhiệm.
Có thể giáo lý Đạo Phật nhiều chỗ rất cao siêu khó hiểu. Nhưng có thể nói ngắn gọn trong mấy từ: Đạo Phật là con đường duy nhất đưa ta đến giác ngộ và giải thoát. Ai muốn đạt được, tự mình học, tự mình thực hành và tự mình chứng ngộ.
Tuy nhiên trong Đạo Phật cũng kể về rất nhiều vị Thần linh, Bồ tát cứu người vượt qua hoạn nạn, ví dụ như điển hình là Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát. Vậy Bồ Tát có thật không? Và Bồ Tát làm như vậy có đúng với Đạo Phật không?
Câu trả lời là “có” cho cả hai câu hỏi trên.
Tuy nhiên, Bồ Tát không biến cái “không” thành “có”. Khi một người cầu xin Bồ Tát giúp đỡ để vượt qua hoạn nạn trước mắt. Nếu người đó không có một tí vốn “thiện nghiệp” nào thì Bồ Tát không giúp nổi.
Chính vì việc có chuyện Bồ Tát giúp người bằng cách lấy “thiện nghiệp” của người đó tích lũy trong quá khứ biến ra thành “biện pháp” cứu người trong hiện tại. Nên nhiều người tưởng như Phật Giáo cũng là “thần quyền”. Và nói chung rất nhiều người đi chùa ngày nay cũng mang cái tâm lý “Phật Giáo là thần quyền”, bởi vì họ (nhiều người) đến chùa để lễ bái rồi cầu xin này nọ.
Bởi vậy nếu ta chỉ nhìn hiện tượng bên ngoài của các ngôi chùa thì Đạo Phật xem ra cũng không có gì khác với các tôn giáo thần quyền khác.
Nhưng những vị tu sĩ Phật Giáo tuân thủ đúng theo lời dạy của Đức Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật thì lại không “thần quyền” chút nào. Tuy nhiên, không phải bất cứ ai cạo trọc đầu, khoác áo cà sa, đến ở trong chùa thì đều là tu sĩ Phật Giáo theo Chính Giáo. Trên thực tế có nhiều tu sĩ bề ngoài là tu sĩ Phật Giáo, miệng “nam mô” nhưng lại thực hành một số hành vi “thần quyền”.
Việc này có thể có 2 lý do:
1. Vị tu sĩ đó không theo Phật Giáo Chính Giáo.
2. Vị tu sĩ đó đang theo Phật Giáo Chính Giáo nhưng đang cố gắng làm những việc chiều theo ý Phật tử để kết duyên với Phật tử rồi mới từ từ dần dần giáo dục nắn người ta đi về con đường Chánh Đạo.
Lấy một ví dụ: Có một người mẹ trẻ, có một đứa con khó nuôi, lên chùa xin thày bán con vào cửa Đức Ông Cấp Cô Độc. Nếu vị tu sĩ đó nói thẳng là “cứu rỗi là ở tại mình, đừng nhờ vả thần linh” thì dám quả quyết rằng người mẹ trẻ đó sẽ chẳng bao giờ thèm đến ngôi chùa đó nữa, và thế là vị tu sĩ đó cho dù có theo chánh đạo cũng không thể còn cơ hội giáo hóa người ta nữa.
Lấy một ví dụ thứ hai: Một cô gái trẻ năm nay bị sao Kế Đô chiếu mệnh. Lên chùa gặp thày xin nhờ thày cúng hình nhân thế mạng giải trừ vận hạn giúp. Hì… không hiểu người ta nghĩ là ông thần sao Kế Đô bị mù hay sao mà không biết đâu là người thật đâu là hình nhân thế mạng. Thêm nữa nếu như bất cứ cô gái nào đến Kế Đô cũng đều có hạn thì chẳng hóa ra là mọi cô gái cũng chỉ đến Kế Đô thôi là không tiếp tục sống nữa. Tất nhiên một vị tu sĩ chánh đạo hiểu được sự “mê tín” ở đây. Nhưng nếu vị tu sĩ đó cũng thẳng thừng “đó là trò mê tín vớ vẩn, sống hay chết đều do thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của bản thân mình tạo gây trong quá khứ, con cứ về nhà thực hành nhiều thiện nghiệp thì lo gì chuyện giải sao”. Vị tu sĩ đó nói đúng, nhưng chắc chắn tại thời điểm đó sẽ không thuyết phục được cô gái đó. Và như vậy vị tu sĩ đó sẽ hết cơ hội để giáo hóa cô gái đó. Bởi vậy để kết duyên với Phật tử, các vị tu sĩ chính đạo đôi khi vẫn phải chấp nhận thực hành một số việc mang tính “thần quyền”.
Đạo Phật dạy người ta hướng nội, tức là mọi sự đều là do nơi bản thân mình. Luật Nhân Quả Nghiệp Báo là một đạo luật quan trọng. Đạo Phật cho rằng mọi sự của đời người sướng khổ buồn vui đều là bởi Nhân Quả. Chúng ta kiếp này gặp nhau, quen nhau, thân nhau cũng là bởi cái duyên nào đó đã gieo trong tiền kiếp. Mối quan hệ cha con, anh em, vợ chồng cũng vậy. Tất nhiên Luật Nhân Quả không giống như thuyết Định Mệnh của bên “tôn giáo thần quyền”. Luật Nhân Quả có sự linh động, nghĩa là “nghiệp tốt” của hiện tại có thể bù cho “nghiệp xấu” của quá khứ. Ví dụ như khi ta gieo một hạt thì có thể có nhiều tình huống xảy ra đối với cái hạt đó tùy thuộc vào việc ta chăm sóc nó thế nào. Nó có thể nảy mầm hoặc không. Sau khi nảy mầm nó có thể thành cây hoặc không. Là cây nó có thể xanh tốt hoặc không. Đến thời kỳ nó có thể ra hoa hoặc không. Ra hoa nó có thể đậu quả hoặc không. Là quả nó có thể to hoặc nhỏ. Đến lúc cái quả đó có thể chín rụng xuống hoặc không. Bởi vậy trong Luật Nhân Quả có câu: “gieo Nhân nhất định sẽ có ngày hái Quả. Tuy nhiên, sự tu hành có thể chuyển được nghiệp” (từ “tu hành” ở đây không có nghĩa cứ phải là xuất gia làm tu sĩ Phật Giáo).
Mình chép ra đây một đoạn trích trong sách “Đức Phật và Phật Pháp”:

[trích]
Một vài người ru ngủ những người xấu số bằng luận điệu như sau:
“Bây giờ anh phải chịu nghèo khổ vì đã tạo Nghiệp xấu trong quá khứ. Anh kia được giàu sang vì anh ấy đã tạo nghiệp tốt. Như vậy, hãy cam tâm chịu lấy số phận nghèo đói của anh và cố gắng tạo nghiệp tốt trong hiện tại để được giàu sang trong kiếp tới.
Trong kiếp này anh bị hà hiếp bóc lột vì đã tạo nghiệp xấu trong quá khứ. Hãy nhận lãnh số phận hẩm hiu ấy và nhẫn nại cam tâm chịu khổ. Từ nay hãy ăn hiền ở lành, chắc chắn rằng kiếp sau anh sẽ được giàu sang hạnh phúc.”
Đức Phật không hề dạy như vậy. Nhân Quả Nghiệp Báo không phải để bảo vệ người giàu sang và an ủi người nghèo khổ bằng cách hứa hẹn hạnh phúc huyền ảo trong tương lai.
Chính hành động thiện hay ác của ta gây phản ứng lành hay dữ. Do đó chúng ta hoàn toàn tự do tạo ra những phản ứng mới để hòa dịu Nghiệp lực. Chúng ta có đủ năng lực để chuyển phần nào cái Nghiệp của ta theo ý muốn. Chuyển đến mức độ nào chỉ tùy nơi ta.
Đức Phật dạy rằng: Làm những việc thiện là tạo nhiều phước báu (ví dụ là các việc tình nguyện đem lại lợi ích cho người khác). Bố thí cho người nghèo. Cúng dường chư Tăng hay Đức Phật tạo rất nhiều phước báu. Nhưng kiến thiết tu viện, giúp chư tỳ-khưu có chỗ tu hành càng được nhiều phước báu hơn. Càng nhiều phước hơn việc xây cất tu viện là quy y Tam Bảo. Càng nhiều phước hơn việc quy y Tam Bảo là nghiêm trì Năm Giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không dùng các chất gây kích thích tinh thần). Càng nhiều phước báu hơn việc Trì Giới là hành Thiền một lúc về tâm Từ. Và cuối cùng, hơn tất cả các phước báu, là phát triển sự chứng ngộ tánh cách vô thường của vạn hữu.
[/trích]

Có nhiều người gán ghép rằng Luật Nhân Quả là do phát minh của Đạo Phật. Giống kiểu “hiến pháp Mỹ” là do hội đồng các ghị sĩ của Mỹ “chế ra” vào năm 1787.
Thực ra Luật Nhân Quả tồn tại khách quan trong vũ trụ. Nhưng nó gắn liền với Đạo Phật vì Đức Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là người đầu tiên nhìn thấy con đường đi của nó và dùng nó để răn dạy đệ tử. Các tôn giáo “thần quyền” không thích nói đến Nhân Quả. Bởi nếu nói đến Nhân Quả thì tự nhiên bao nhiêu quyền lực của Thần Linh bị phủ định hết.
Ta chợt nhận ra ta chưa kịp trưởng thành thì tuổi già đã ập đến
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 5 trang (42 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ›Trang sau »Trang cuối