Trang trong tổng số 10 trang (99 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

(Tiếp theo và hết)



VÀI NÉT VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA HUẾ

                                   Trần Kiêm Đoàn


http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/HUE3.jpg


Một danh xưng đề nghị sửa lại : Danh xưng “THỪA THIÊN HUẾ”




       Về phương diện địa dư và hành chánh, Huế là thị xã của tỉnh Thừa Thiên. Thừa Thiên có 8 quận (hay huyện): Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc, A Lưới, Nam Đông. Có Thể chia Thừa Thiên ra làm 3 vùng văn hóa chính: Văn hóa nông nghiệp, văn hóa ngư nghiệp và văn hóa nương rẫy. Từ cách sống, cách ăn, cách mặc, cách nói, cách vui chơi hội hè đình đám thì cả ba vùng văn hóa Thừa Thiên có rất nhiều điểm chung, điển hình cho tính đại chúng của nền văn hoá làng xã Việt Nam.


        Nếu chỉ đứng về mặt địa lý và cấu trúc thuần túy thì sự xác định biên giới của Huế phải đi từ nhỏ đến lớn: Đại Nội là giang sơn riêng của vua và triều đình gồm Hoàng thành và Tử cấm thành. Thành Nội là phần đất nằm trong phạm vi Kinh thành Huế bốn mặt thành giới hạn bởi cửa Đông Ba, cửa Chánh Tây, cửa Thượng Tứ, cửa Ngăn, cửa Hữu, cửa An Hoà… và cộng thêm dãi đất hẹp bao quanh Thành Nội mỗi bề từ 4 đến 7 cây số thường được xem là Thành Phố Huế. Từ cửa Ngọ Môn được coi như là trung tâm thành phố Huế, chỉ cần đi bộ khoảng một giờ đồng hồ tối đa là có thể đến một trong các “cột mốc” cuối cùng của Thành Phố Huế như: An Hoà, Bao Vinh, Bãi Dâu, Đập Đá, An Cựu, An Lăng, Long Thọ, Văn Thánh. Qua khỏi lằn ranh nầy là địa bàn thuộc về làng xã, quận huyện Thừa Thiên.


        Người ở trong nội vi của thành Phố Huế thường tự coi mình là người Huế, còn người ở các vùng ngoài Huế là dân ruộng, dân biển, dân phường. Hay thậm chí là “dân nhà quê”! Ngược lại thì người làng quanh Huế cũng tự coi mình là “dân Quê” để phân biệt với người ở Huế là “dân Phố”, dân Dinh”!

       Với người ngoài Huế thì Thừa Thiên hay Huế đều là Huế. Trong lĩnh vực địa lý và chính trị nội bộ địa phương thì có Thừa Thiên và Huế nhưng trong lĩnh vực nhân văn và nhân chủng thì không có sự phân biệt giữa Thừa Thiên và Huế. Trên bản đồ chỉ thấy Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Biên giới nhân văn của Huế được xác định rằng: Đông giáp Biển Đông, Tây giáp Trường Sơn, Nam giáp sông Mỹ Chánh, Bắc giáp đèo Hải Vân. Không có người nào là người Thừa Thiên và cũng không có văn hóa nào là văn hóa Thừa Thiên mà chỉ có NGƯỜI HUẾ và VĂN HOÁ HUẾ. Người Huế ở thành phố hay ở các quận huyện đều tự nhận diện mình là NGƯỜI HUẾ – Có thể thêm chi tiết phụ là người Huế ở vùng nào – chứ không một người Huế nào nói với một người xứ khác rằng: “Tôi là người Thừa Thiên”. Cũng thế, khi ra nước ngoài, người Việt tự nhận diện mình là “người Việt Nam” chứ không ai đi nói với một người Mỹ, người Nga rằng: “Tôi là người làng Hương Cần”; hay “Tôi là người Huế” cả!

       Về mặt tâm lý, sự phân biệt Thừa Thiên và Huế trong quá khứ, vô hình chung đồng nghĩa với sự phân biệt Nhà Quê và Thành Phố. Sự phân biệt nầy là một cách nói khác của khái niệm “quê mùa lạc hậu” đối với “phố phường văn minh”!

       Do hoàn cảnh lịch sử có sự xung đột gay gắt và do nhu cầu chiến thuật và chiến lược, sự phân ranh Thừa Thiên và Huế được thiết lập vì lý do hành chánh, quân sự nội tại của nó. Cũng như vì đời sống kinh tế khó khăn, mạng lưới giáo dục hạn chế, môi trường truyền thông lạc hậu, ngăn cách nên sự phân biệt QUÊ và TỈNH đã tồn tại trong suốt một chiều dài – khá dài – của lịch sử.


        Tuy nhiên, trên thực tế thì xương sống và linh hồn của “văn minh” và văn hóa Huế lại nằm ở địa bàn Thừa Thiên. Sông Hương, con sông như mái tóc mây của Huế, từ nguồn đến biển quấn quít với Thừa Thiên, chỉ có một đọan rất ngắn chảy qua lòng thành phố Huế. Sông Bồ, sông Truồi, núi Kim Phụng, núi Thiên Thai, núi Truồi, đèo Hải Vân, biển Cảnh Dương, cửa Tư Dung, phá Tam Giang… là cảnh quang thiên nhiên làm nên xứ Huế cũng đều ở địa bàn Thừa Thiên. Cho đến lăng tẩm, đền đài, chùa chiền làm nền móng nhân văn và làm phong phú cho vẻ đẹp của Huế cũng thuộc về Thừa Thiên. Những món ăn tạo nên phong vị độc đáo nhất của Huế, những nghề nghiệp tạo nên phong thái kinh tế riêng bịêt của Huế cũng ở các làng quanh Huế. Và cốt lõi là con người xứ Huế, ngoại trừ dòng dõi vua chúa nhà Nguyễn Phúc tự nhận chánh quán của mình là “Gia Miêu, Ngoại Trang, Thanh Hoá”còn hầu như tất cả dân cư trong thành phố Huế đều có chánh quán của mình là các làng xã Thừa Thiên.


       Nói tóm lại là sẽ không có một Huế thật sự là xứ Huế bây giờ nếu Huế chỉ là thị xã hành chánh Huế đứng độc lập hay tách rời Huế với Thừa Thiên. Cho nên, cái danh xưng “kép” THỪA THIÊN HUẾ chẳng những không nói lên được một hình ảnh của toàn cảnh xứ Huế đúng nghĩa, mà còn biểu tỏ một khuynh hướng gọi tên kệch cỡm, lỗi thời.


        Với đà tiến hóa chung về mọi măt của đời sống ngày nay, người Huế nói chung khi đến định cư tại các nước Phương Tây hay ngay tại những địa phương bên ngoài Thừa Thiên Huế thì cái biên giới “nhà quê” và “thành phố” hoàn toàn không có lý do tồn tại. Ba tiêu chuẩn chính thường được dùng để phân biệt giữa “quê” và “tỉnh” là: Kinh tế, học vấn và lối sống. Các tiêu chí phân định đó đã bị thực tế vô hiệu hóa vì ra khỏi Huế, đặc biệt là ở Mỹ, những người Huế xuất thân từ các vùng địa lý Thừa Thiên không còn ở thế yếu kém về kinh tế, thế thấp hơn về học vấn và thế lam lũ hơn về lối sống so với người Huế xuất thân từ thành phố Huế như thời kỳ xưa cũ trên quê hương.


        Do đó, trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, tâm lý, giáo dục và sinh hoạt hội hè, hội đoàn và thân hữu, danh xưng nối kết “Thừa Thiên Huế” có thể tạo ra một tác dụng ngược lại, hàm chứa mặc cảm chia rẽ về cả thể và cả tính. Nhận xét của ông Tôn Thất Đường trong Báo Nhớ Huế, hội Huế Orleans, Xuân Giáp Thân 2004 là một nhận định rất thẵng thắn, trong năm qua đã được nhiều hội Huế cũng như đồng hương Huế và thân hữu đồng tình ủng hộ: “ Trong sinh hoạt cộng đồng thiên về tình cảm tương thân tương ái của Đồng hương Huế và Thân hữu, duy trì cụm từ ‘THỪA THIÊN HUẾ’ là duy trì một não trạng tiêu cực, một lề thói đối xử phân biệt đã lỗi thời và lạc hậu. Nó gây ra tâm lý kỳ thị, chia rẽ và mặc cảm hơn kém giữa nhà quê và thành phố hoàn toàn không đúng đắn. Ngoài ra nó còn bất chấp một hiện trạng đã bị thực tế bác bỏ và vượt qua từ lâu. Đó là sự thành công và chất lượng cuộc sống của người Huế hiện nay tùy thuộc vào tài năng, sức phấn đấu và bản chất của mỗi con người chứ không phụ thuộc vào gốc gác là Thừa Thiên hay Huế.” (Sđd. Tr. 72)


       Nói đến văn hóa là nói đến một thực thể bao gồm ba mặt: Truyền thống, con người và lối sống. Chính cái mới, cái lạ, cái khác, cái độc đáo trội bật trong ba mặt nầy là chất liệu điển hình xây dựng bản sắc của văn hóa. Martin Almond trong loạt bài nhan đề The Vanishing Arctic (Bắc Cực Mù Khơi), nói về bản sắc văn hóa độc đáo của giống người Eskimo xứ tuyết vùng Bắc cực, nhận xét rằng: “ Một nền văn hóa thiếu bản sắc cũng giống như một đồng tuyết vùng bắc cực vắng bóng những vòm trốn tuyết kỳ lạ của người Eskimo. Những biển tuyết một màu trắng mênh mông nối nhau kéo dài đến vô tận, biết đâu và tìm đâu ra dấu vết của truyền thống, con người và lối sống…”


       Đất nước Việt Nam có ba miền Bắc Trung Nam. Mỗi miền và mỗi điạ phương đều có một bản sắc văn hóa riêng. Văn hóa là câu chuyện truyền đời tính bằng thế kỷ. Từng thời đại, từng khuynh hướng và từng công trình nghiên cứu có một cách nhìn riêng về bản sắc văn hóa. Hà Nội, Huế, Sài Gòn… trong cái chung của truyền thống văn hóa dân tộc, vẫn có từng nét riêng. Mong rằng, những Đại Hội Văn Hóa như thế nầy là một dịp rất tốt để chúng ta cùng nhau nhìn về gia tài văn hóa dân tộc qua cái nhìn khám phá, tìm tòi, nối kết để văn hóa trở thành một nguồn suối sinh động có kế thừa và có tác dụng thực tiễn chứ văn hóa không phải chỉ là một câu chuyện thần tiên để kể hay một tượng đài hoang phế giữa thời gian.


(Trần Kiêm Đoàn)



Trích tham luận đã trình bày tại “DIỄN ĐÀN KHOA HỌC:
Tiếng Huế – Con Người Huế và Văn Hóa Huế”
Chuyên Đề III. Số 5. Ngày 14-6-2004
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Như Diệu Linh

Nguyệt Thu đã viết:
@Như Diệu Linh: Đọc thơ bạn như chừng bạn là người Huế đi xa? Ai đi xa cũng nhớ quê hương nhưng người Huế thì lại đặc biệt da diết! Không lý giải được cho rõ ràng ngọn ngành là vì sao nhưng mà quả có thế!:)
Đúng là dân Huế nhưng khi nghe những bài viết về Huế lại thấy ngỡ ngàng, không ngờ còn nhiều thứ mình không biết về quê hương đến thế :(

Mặt trời chiếu rọi khắp nhân gian
Chiếu xuống nhân sinh mải vội vàng
Đâu hay ánh nắng tan vào gió
Rồi hoá thành mây trắng lang thang...

http://i910.photobucket.com/albums/ac302/nhudieulinh/1305086331_12895681291289541360logo.gif

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

@Diệu Linh: Không chỉ có một mình bạn đâu, ngay NT cũng thế mà!:) Dù sinh ra lớn lên ở Huế, bây giờ vẫn ngày ngày ở Huế nhưng thật nhiều điều về Huế, NT cũng vẫn còn rất...mô tê!:D. Đọc những bài viết hay về Huế như thế này, vẫn có thể chảy nước mắt và cảm thấy mình được hiểu Huế hơn, yêu Huế hơn, bạn ạ! :)
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vo Danh

Nguyệt Thu đã viết:
@Như Diệu Linh: Đọc thơ bạn như chừng bạn là người Huế đi xa? Ai đi xa cũng nhớ quê hương nhưng người Huế thì lại đặc biệt da diết! Không lý giải được cho rõ ràng ngọn ngành là vì sao nhưng mà quả có thế!:)
Sông Hương Núi Ngự ơi,

Nếu mình là người Huế thì sao lại biết rằng người vùng khác (Sài gòn chẳng hạn :)) không nhớ quê mình da diết bằng dân ... Huế chứ ?

Lại còn bảo "nhưng mà quả có thế" nữa :p
Vô Danh
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

Hi hi...Bạn Vô Danh chắc là đang...đòi nợ NT cái vụ...cùng phá quán nhạc với Bình Nhi!:P
Cái này là NT nghe...nhiều người ở nhiều vùng miền (có cả dân Sè Gòn nữa) tâm sự thế trên Net, trên sách báo, trên...Ti vi!:DCụ thể ở đâu chính xác thì...quên mất tiêu! :D

Quên! Dù sao cũng cảm ơn "người nơi khác" ghé vào đọc các bài viết về Huế nhé bạn!:). Nhìn cái ảnh minh họa cho kỹ vào, bạn sẽ thấy Núi Ngự Bình mà bạn hay "gọi" đấy!:P
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Như Diệu Linh

Nguyệt Thu đã viết:
@Diệu Linh: Không chỉ có một mình bạn đâu, ngay NT cũng thế mà!:) Dù sinh ra lớn lên ở Huế, bây giờ vẫn ngày ngày ở Huế nhưng thật nhiều điều về Huế, NT cũng vẫn còn rất...mô tê!:D. Đọc những bài viết hay về Huế như thế này, vẫn có thể chảy nước mắt và cảm thấy mình được hiểu Huế hơn, yêu Huế hơn, bạn ạ! :)
Thì ra cùng là đồng hương, vui thiệt :),chắc trước khi muốn biết đi những nơi khác phải hiểu rõ quê hương mình trước nhất ;)

Mặt trời chiếu rọi khắp nhân gian
Chiếu xuống nhân sinh mải vội vàng
Đâu hay ánh nắng tan vào gió
Rồi hoá thành mây trắng lang thang...

http://i910.photobucket.com/albums/ac302/nhudieulinh/1305086331_12895681291289541360logo.gif

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

NanLan

Huế đẹp, Huế thơ
Huế mơ, Huế mộng
Huế… tộng bộng hai đầu!

Chị NT,

Em giật mình chẳng biết từ "tộng bộng." là nghĩa thế nào, đọc mới hiểu được nó là như vậy. Đọc hai lần em mới hiều đó, vì em chưa nghe từ này bao giờ cả.

Em nghĩ rằng Huế nên phải giữ được những bản sắc đó chị ạ, không nên đô thị hoá hay là gì gì đi nữa, nếu vậy thì còn đâu là Huế.
Có ai quay lại mùa Thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

@Nam Lan: Người Huế vốn hài hước mà, hay tự chế giễu mình về cái tự hào "thơ và mộng" - mặc dù trong lòng người Huế niềm tự hào này là có thật- cho nên, cái "tộng bộng" đó, chị nghĩ như một cách nói giảm để xí xóa bớt trước bàng dân thiên hạ về "cái vẻ tự đắc" hơi...lộ liễu qua cái niềm tự hào kia!:D

Thực ra, những câu này chỉ nghe nhiều vào những năm cuối 70 đầu 80...Đó là những ngày mà một Huế vốn ỉu dỉu, mộng mơ trong tâm tưởng bao người, nay một lần đến Huế lại thấy ở Huế những khó nghèo, vất vả trong đời sống dân Huế sau bao biến động. Hồi đó, chị cũng như bao người Huế khác vẫn thường  nhăn mặt, xốn xang khi nghe ai nói đến mấy câu này, cứ như bị nuốt phải mật đắng vậy!:)


Trần Kiêm Đoàn đã lý giải rất hay, rất đúng về mấy câu đó, em à! Đọc nó, chị thấy không còn hiểu nó theo cái nghĩa mà trước đây chị và bạn bè vẫn hiểu. Chị cũng thầm cảm ơn ( và cả rất ngưỡng mộ nữa!) Trần Kiêm Đoàn - một người con xứ Huế rất Huế- viết về Huế hay nhất mà chị được biết từ trước đến nay!:)

Điều em nói: Huế nên như thế nào để vẫn là một Huế đẹp, Huế thơ trên con đường phát triển đô thị -  vẫn đang còn là một trăn trở  của Huế hôm nay và dài lâu. Huế phát triển như thế nào để Huế giàu lên, cho dân Huế hết nghèo, hết khổ, để Huế xứng là một đô thị vốn đã có chỗ đứng trong lòng đất nước nhưng vẫn phải là một Huế cổ kính, Huế nên thơ, Huế êm đềm, trong lành và sâu lắng...
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

GIỌNG NÓI

http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/langquehue-1.jpg


   “Anh yêu là yêu bởi cái chân chất, hiền lành của em chứ không phải yêu cái gì ‘thời thượng’. Em hãy luôn là chính mình và giữ mãi giọng nói của quê mình em nhé!” Đây là câu nói mà một đôi lứa yêu nhau nhắc nhở giữ giọng nói như bản sắc của quê hương mình.

                      
                             Giọng nói là quê hương




        Khoa học vẫn chưa xác định được giọng nói khác nhau ở các vùng miền, lãnh thổ do yếu tố nào chi phối. Thổ ngữ thường biểu hiện sự khác biệt về thể chất, tính khí của dân tộc. Về mặt thổ nhưỡng, có người cho rằng nơi nước trong thì tiếng nhỏ, nước đục thì tiếng thô. Đó là một ý kiến dựa trên quan sát thực tế, ngoài ra còn có rất nhiều quan điểm giải thích hiện tượng này. Có quan điểm cho rằng do thổ nhưỡng nguồn nước, có quan điểm cho rằng do vị trí địa lí, hay thổ nhưỡng chất đất. Cách nhau mười mấy cây số là đã nói giọng khác nhau rồi. Hay dù uống chung nguồn nước nhưng bên này sông giọng khác, bên kia sông nói giọng khác. Giọng nói quan trọng vì nó như là biểu hiện âm thanh cho người ta nhận biết được quê quán xuất xứ của một người. Giọng nói còn có ý nghĩa tinh thần liên hệ với nơi chôn nhau cắt rốn, nơi con người ta sinh ra và lớn lên. Chỉ cần nghe chất giọng đó vang lên là người ta bồi hồi nhào đến nhận đồng hương. Khi đi xa, ở chốn đất khách thì một thoáng quê hương như vậy làm con người ta rất ấm lòng. Nói bằng giọng đó, nghe với giọng đó, người ta như sống lại những ngày tháng ở quê hương. Kỷ niệm của thời đã xa cứ thế ùa về, và ngày trở lại thăm quê cứ hiển hiện trong tâm trí. Dải sơn hà Tổ quốc ta trải dài từ nam chí bắc, nên giọng nói cũng phân vùng theo tông giọng Bắc – Trung – Nam. Trong tất thảy các thứ tiếng, thứ giọng, tiếng và giọng Huế có tính đặc thù. Người ta ít thấy người Nam nói giọng Huế hay người Bắc nói tiếng Nam mà thường thấy người Huế thay đổi giọng theo môi trường và hoàn cảnh sử dụng. Có một nguyên nhân khá rõ là do người Huế có thể nghe âm và nhại âm theo giọng Nam, Bắc, nhưng giọng Huế nói ra thì người Nam, Bắc khó nghe hết cho suôn. Có thể mường tượng theo phương chiều, nếu giọng Bắc có phương nghiêng bên trái, giọng Nam bên phải thì giọng Huế có phương thẳng đứng. Tính trên dải dất miền Trung thì nam miền Trung từ Đà Nẵng trở vào có giọng gần với người Nam hơn. Bắc miền Trung thì xứ Thanh, xứ Nghệ có nhiều âm, nhiều điệu giọng người Bắc hơn. Trong khu Bình - Trị - Thiên, thì giọng Huế có vẻ tròn âm nhất, cứ nghe qua giọng Quảng Trị, Quảng Bình thì biết. Nhưng điều đặc biệt nhất là người Huế mà không nói giọng Huế thì đừng nhận là người Huế, giọng nói thực sự là quê hương.


          

 Cái âm trọ trẹ rứa mà thương!




           Giọng nói rất thiêng liêng, nó như được tích tụ từ hồn núi sông vì thế đánh mất giọng nói của mình là chối từ, cả quê cha đất tổ, cả giòng họ tông đường, ít nhất là đối với người Huế. Những người đi xa vì để thuận tiện trong giao tiếp người ta phải dùng những từ phổ thông toàn dân hay cố gắng làm giọng mình nhẹ hơn, thay đổi chút ít cho phù hợp, mềm và dễ nghe. Nhưng hạnh phúc nhất, sướng nhất vẫn là được nới giọng nói của quê hương mình, giọng cha sinh mẹ đẻ. Tiếng Huế có khi nghe lạ tai với những từ như chi, mô, răng, rứa , tê, chừ, ni, nớ, hỉ, hả, hí... Đây là những từ mà những từ mà muốn biết thì phải tra từ điển ‘sống’ gốc Huế! Những từ này thường giữ vai trò làm âm điệu và cách nói của người Huế trở nên đặc trưng hơn. Nghe ra “Rứa khi mô anh vô trong nớ thì cho em gởi lời hỏi thăm Bác với hí” thì thấy âm điệu trầm bổng thật khác thường. Câu nói này thật ra là “Lúc nào anh vào thì em gửi lời thăm Bác trong đó”. Cũng có lúc giọng Huế rất khó nghe, dễ gây bối rối ở những người ở các địa phương bạn. Người Huế khi nói chuyện với nhau dùng rất ít chữ, câu nói ngắn, gọn mà hàm súc ý. Với họ, việc diễn tả ý tưởng của mình bằng vài chữ sơ sài là một chuyện thường như cơm bữa. Vẫn biết mi là mày, mấy là bao nhiêu, nhưng ‘mi mua mấy?’ thì nghe khác với ‘mày mua cái đó giá bao nhiu dzậy?’ hay ‘thế cái đó có giá bao nhiêu?’ Người Huế nói ít mà hiểu nhiều, nếu thực sự là Huế và Huế với nhau. Người Huế cũng thường dùng những từ rất Huế, của riêng Huế để nói chuyện với nhau. Âm vực khó, khác lạ, không cao không thấp, ít thanh. Giọng bình, trung tính. Người vùng khác thường nói giọng Huế trọ trẹ. Nhưng đúng là cái âm trọ trẹ nghe rứa mà thương.


          Một tài liệu thổ âm xứ Huế lại cho rằng dòng sông Hương có ảnh hưởng đến giọng Huế bởi vì dòng sông Hương chảy qua lòng thành phố Huế nên người Huế rất sâu sắc, thâm trầm.


“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
          (Thu Bồn)




          Huế ảnh hưởng của thổ âm vùng Bình Trị Thiên nhưng giọng Huế lại nhẹ nhàng và thanh tao hơn. Các thổ âm chỉ được nói ở các vùng quê nằm lân cận và hay pha các tỉnh bạn. Riêng kinh đô Huế, là một trung tâm văn hóa quan trọng, nơi có chút tính quý tộc, nên giọng Huế ở ngay kinh thành thì như là một thứ ‘đặc sản’ của giọng và tiếng Huế nói chung.


“Giữ chút gì rất Huế mặn mà
Dạ thưa ngọt lịm ai mê say
Và hơi thở mềm, sương khói bay”
    (Huỳnh Hữu Dụng)



Nếu lại được em ru bằng giọng Huế
Được vỗ về như mạ hát ngày xưa
Câu mái đẩy chứa chan lời dịu ngọt
Chết cũng đành không nuối tiếc chi mô”
      (Tô Kiều Ngân)




          Cũng bởi thế mà cho dù đi đâu về đâu, hay người ta có đến Huế mấy lần đi nữa thì vẫn thấy Huế có chút gì đó thuỷ chung, vẫn truyền thống, khuôn phép qua giọng nói:


“Dạ thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương”
       (Bùi Giáng)



                Giữ tiếng như một tấm lòng




           Ý nghĩa là thế, nên thơ là thế, nhưng hoàn cảnh đôi lúc lại khác. Xu thế chung nên các ca sĩ thành danh thường Bắc chinh, Nam tiến. Có người mỗi khi xuất hiện trên truyền hình thường thay đổi giọng nói của mình, giả giọng để nghe phổ thông hơn chứ không giữ giọng Huế nữa. Cũng có người đang hát ở cố kinh nhưng chỉnh giọng khác đi để chứng tỏ mình đã hội nhập. Đôi khi việc làm này tạo nên sự khó nghe và phản cảm không những đối với người Huế, mà còn đối với du khách. Đến Huế họ muốn nghe được tiếng Huế, nghe như để tiếp cận một khía cạnh của con người Huế và văn hóa Huế. Thực tế thì không ai đến Huế để nghe, để thấy bản sắc phai mờ.


            Nhiều người cho là đổi giọng sẽ hay hơn và sẽ dễ nghe hơn, nhưng nếu không duy trì khả năng giả, nhái giọng tốt trong mọi tình huống giao tiếp, họ sẽ tạo nên tác dụng ngược, lắm lúc lơ lớ tức cười, nghe chẳng giống ai. Và vô tình họ đã là người chối bỏ giọng nói của quê cha đất tổ. Đáng xấu hổ hơn, nhiều người có suy nghĩ rằng giọng mình là quê mùa, không sành điệu nên chẳng dại giữ nguyên như vậy để người ta cười. Dăm đứa học ở Sài Gòn mấy năm là đã nói giọng Sài Gòn như thứ thiệt, đó là cách thể hiện sự sành điệu. Huế là đất của văn hoá gia đình, ông bà luôn quan tâm rèn dũa lớp con cháu. Người lớn tuổi không chấp nhận con cháu mình đổi giọng. Cứ mang cái giọng nói lơ lớ về quê nhà hẳn là bị nạt, “mệ nội mi, con ai cháu ai mà nói giọng nớ, đi mô nói răng cũng mượt, về quê thì phải nói giọng của quê mình”. Lớp trẻ cũng không mấy ai chịu sự lai căng, bắt chước. Chị bạn lên phố không lâu thì đổi giọng cho khỏi mặc cảm, nhưng người yêu chị thì cảm giác như đánh mất gì đó chân chất đáng yêu một thời. “Anh yêu là yêu bởi cái chân chất, hiền lành của em chứ không phải yêu cái gì ‘thời thượng’. Em hãy luôn là chính mình và giữ mãi giọng nói của quê mình em nhé!”. Chị bạn ngộ ra và ngày sau trân quý hơn giọng nói của quê mình.


         Giọng Huế cũng là một thứ quý để mang đi xa. Ai đã nghe giọng bà Tôn Nữ Thị Ninh, người giữ nguyên giọng Huế khi là người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam thì đồng ý với nhận định trên đây. Người ta nhận ra bà là người ở đâu không chỉ qua tên họ của bà. Phát thanh viên ở Huế vẫn có những chương trình phát trên truyền hình, phát thanh trung ương. Giọng vẫn hay, trầm ấm mà lời nghe vẫn rất rõ. Ca sĩ Hương Mơ và cùng nhiều người khác nữa, dù lập nghiệp xa nhưng vẫn luôn nói giọng Huế quê hương. Có quý mới có người ở xa về thấy thoải mái, thấy sướng khi được nghe, được nói giọng của quê hương, được dùng những từ địa phương rất chi là Huế. Nhiều nhóm xa quê lúc tìm nhau đem quà là giọng Huế, nói chuyện bằng giọng Huế cho đỡ nhớ, bởi lâu không nói thấy thèm! Mấy bận bạn tôi, học cùng khoá đại học, nằng nặc mời cơm vì muốn nghe giọng. Từ ngày ra trường về quê, không được nghe tiếng Huế nhiều như trước nữa. “Có mấy đứa nói mà tau nghe không ưa, kêu Huế rặc như mi mà nghe cho sướng đó”, nó nhại theo làm tôi cười sung sướng.


       Tiếng và giọng nói riêng là bản sắc của từng địa phương khác nhau, việc nhái giả đôi lúc tạo ra sự đồng hoá bản sắc, văn hoá phai màu, nên giữ giọng nói cũng là cả một tấm lòng với Huế.


                

Phan Hoàng (Khám phá Huế)

 

Nguồn: http://www.khamphahue.com...d=disanvanhoa&nid=453
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

Không gian xứ Huế


        Con người từ khi cảm nhận thế giới xung quanh là lúc cảm được sự xa vắng, ly biệt... Nhớ hồi thơ dại, đứng trên bến sông trước nhà nhìn sang Cồn Hến thấy sông rộng lắm cứ nghĩ khó mà bơi sang sông được. Mỗi lần đi bộ từ nhà lên cầu Gia Hội dù chỉ vài trăm mét nhưng lại cảm thấy rất xa. Càng lớn khôn cảm nhận về khoảng cách được rút ngắn. Nhưng lạ thay khoa học ngày càng khám phá không gian, vũ trụ thì chạm đến cõi vô cùng.

http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/IMG_0152.jpg
Ảnh:Nguyệt Thu



        Thời gian đến với nhận thức của con người muộn hơn so với không gian. Và người ta thường nói thời gian là chiều thứ tư trong không gian chúng ta đang sống. Khi ta nhìn vào dòng lịch sử hào hùng của dân tộc, nhìn vào những thời đại xa xăm trên thế giới trong mỗi chúng ta lại dấy lên nỗi niềm vời vợi của kiếp phù sinh. Phải chăng điều đó làm nên cấu trúc tư duy của loài người chúng ta, để rồi từ lối mòn tư duy đó mà thế giới chúng ta đã xuất hiện các triết gia, những nhà khoa học, các đạo sĩ, nghệ sĩ, những tay khủng bố, những người bình thường, cũng từ vết tư duy đó đã gợi lên cơn xao xuyến, hãi hùng, niềm vui hạnh phúc và nỗi khổ đau mà mọi người đang trải nghiệm. Không gian của một xứ sở không chỉ là vùng trời mây, sông núi... mà còn có cả những nền văn hóa đang tiềm ẩn, hiện lên trên xứ sở đó.

http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/IMG_5570.jpg
Ảnh:Nguyệt Thu



          Xứ Huế, một vùng miền thơ mộng đã đi vào trong thi ca, hội họa... một xứ sở được mệnh danh là “bài thơ đô thị”, quê xứ của “thanh sắc thi ca” đã được cả thế giới công nhận là di sản văn hóa thế giới bởi quần thể di tích gồm hệ thống kinh thành, lăng tẩm, miếu chùa, đền đài... và cả một nền âm nhạc cung đình vừa được ấn chứng là di sản văn hóa phi vật thể. Nhưng không vì thế mà không gian Huế chỉ hiển hiện nơi những di sản đó. Ngoài những màu thông thường thì sắc màu của không gian Huế thay đổi theo bốn mùa. Mùa Xuân, không gian Huế nở rộ những gam màu của các loài hoa, nhưng đặc biệt nhất là sắc vàng rực rỡ của hoa Hoàng Mai, biểu tượng của mùa xuân, đã khiến thi nhân Cao Bá Quát phải đảnh lễ (Nhất sinh đê thủ bái hoa mai). Mùa Hạ, dưới nền trời trong xanh bạt ngàn mây trắng chợt điểm xuyết những mảng màu đỏ thắm của những cánh Phượng đang khẽ lay theo những ngọn nến lung linh. Mùa Thu đất trời xứ Huế chuyển sang gam vàng mơ phơn phớt của màu lá đang rơi pha lẫn chút sắc mờ trắng của màn sương ảo diệu và chút tim tím mơ hồ. Mùa Đông không gian xứ Huế như được phủ một màn mưa trắng đục lất phất buồn và tản mác đâu đó những điểm nhấn mang màu hoài cổ.


          Một ngày đông những sợi mưa trắng buồn níu trời gần đất, gây nên cảm giác cô quạnh, lúc này không gian Huế như bức tranh thủy mặc u hoài, gợi cảm. Buổi sáng mù sương những làn da bỗng mát lạnh khi va chạm vào những hạt nước li ti đang lờ lững khắp phố thị tạo nên không gian ảo huyền, thực thực hư hư.



http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/IMG_0348.jpg
Ảnh:Nguyệt Thu




          Những lúc ngồi bên hiên phố nhìn chiều buông mà thấy lòng yên ắng lạ thường, phía Tây xa xôi những ánh tà dương cuối cùng sót lại, lất phất những lớp bụi mỏng ửng hồng mơ hồ như đời người và phía sâu thẳm của dòng Hương văng vẳng điệu Nam Ai, Nam Bình sao mà thê thiết, bi ai, bùi ngùi cái chất thôn làng ngay giữa phố thị và trên dòng Hương Giang mờ ảo ẩn hiện bóng hình của con đò lênh đênh về phía trời chiều bất tận. Không gian Huế là không gian của hoài niệm, khung trời xưa sẽ hiện về khi đâu đó trong không gian ngân vọng một điệu hò, phải chăng trong thăm thẳm cõi không gian xứ Huế đang tàng ẩn những cung bậc của “Hò”, một thể loại đặc trưng của làng quê Việt Nam. Và thi thoảng ta lại thấy ngay giữa phố hội yêu kiều nhộn nhịp lại tái hiện những lễ hội tế làng truyền thống nơi những ngôi đình làng đang ẩn dật một cách khiêm cung trong nội thành và những miền ngoại ô phố thị.




         Sau những ngày lang thang miền núi đồi xứ Huế trở về, bất giác ngước nhìn lên dãy Trường Sơn cảm nhận được sự hùng vĩ của một vùng trời và thấy con người quá nhỏ bé trước thiên nhiên bí ẩn. Một chiều tà chớm thu ngồi bên sông Như Ý trong xanh như ngọc, hướng ánh mắt phía trước cầu Trường Tiền lịch sử đã tồn tại hơn trăm năm mà lòng bỗng ngậm ngùi theo những nhịp cầu. Ô hay! nhịp cầu và nhịp đời hay nhịp bước chân đi uyển chuyển với đôi quang gánh trên vai những mệ, những o... trông thật nhẹ nhàng nhưng đã khiến cho cõi lòng tôi nằng nặng một nỗi xót xa, bởi bên dưới những đôi quang gánh là vệt thâm tím ám ảnh cả một đời người. Rồi cái âm thanh của gióng, gánh níu nhau hòa vào tiếng bước chân khô khốc cứ gợi lên trong tâm tưởng tôi những tiếng ray nghiến oan nghiệt của phận người đang cam lòng chịu đựng nỗi khốn khó nghiệt đầy uy lực hứa hẹn những tương lai xán lạn của xứ sở thân yêu. Dưới bầu trời trong xanh là những áng mây trắng trôi bềnh bồng như đang khảm vào phía núi tạo nên cảnh sơn thủy hữu tình. Có những dịp đi đây đó, khi bạn đến Huế thì cảm nhận đầu tiên có lẽ thời gian nơi con phố này chậm hơn những nơi khác? Và không gian ở Huế thật êm đềm. Đúng vậy, nếu ban mai khi bạn vừa tỉnh giấc và nghe một tiếng gà gáy vừa ngưng, bạn sẽ cảm nhận được một sự yên ả đến lạ thường. Tiếng gà không những báo hiệu cho ngày mới bắt đầu mà tàng ẩn trong âm hưởng đó là cả một vùng trời thơ mộng, một khung cảnh yên bình.


             Có thể nhìn không gian của Cố Đô Huế như những cặp không gian đối ngẫu nhưng luôn bổ khuyết cho nhau. Ví như Huế không có dòng sông Hương mơ màng thì không ai nhắc đến núi Ngự Bình và sẽ không bao giờ xuất hiện hai câu thi sấm của Bùi Giáng thi sĩ:

         

“Dạ thưa xứ Huế bây giờ
           Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương”






          Phía Bắc sông Hương là kinh thành cổ kính, cùng những dãy phố cổ Chi Lăng, Bạch Đằng, Bao Vinh trông thật tĩnh lặng thì ngược lại bờ Nam sông Hương là phố hội với những ngôi nhà chọc trời, những trung tâm vui chơi giải trí nhộn nhịp Ngự Bình, Thiên An... Nhìn ở góc độ triết học, ta có thể cảm nhận được tính lưỡng nghi của đất Cố Đô đã tàng ẩn trong không gian Huế và điều đó còn được thể hiện qua những bức tranh của họa sĩ Bửu Chỉ với bóng hình nhật nguyệt và chiếc đồng hồ khuyết tật được bao trùm bởi không gian ảm đạm, thăm thẳm đè nặng lên phận người gầy guộc... hay trong một số ca khúc của Trịnh Công Sơn như “Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt”, “Trời xanh trong mắt em sâu”..., trong nhiều câu thơ của Ngô Kha như “nhìn nếp nhăn bao la trên vầng trán mẹ", "khoảng hư vô như cánh tay gối đầu”...


http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/IMG_6377-1.jpg

Ảnh:Nguyệt Thu




         Phải chăng không gian của đất thần kinh là không gian của thanh, sắc, thi, ca? Không gian của nỗi niềm tri âm, hoài vọng... được hòa trộn bởi quá khứ, hiện tại và vị lai. Không gian mà khi trời chuyển mưa thì đông về, chớm nắng thì hạ lên. Một vùng không gian rất nhạy cảm đã tác động đến tâm thức của con người xứ Huế.


          Huế là xứ sở chịu nhiều sự khắc nghiệt của thiên nhiên như lụt bão và hạn hán hàng năm. Đã có không ít những cơn bão, trận lụt lịch sử đã gây bao tang thương và hằn sâu trong dân gian như: cơn bão năm Thìn (1904) và người dân Huế có câu vè: “Bão năm Thìn xô cầu Trường Tiền gãy bốn, cột cờ gãy ba”, trận lụt năm 53 (1953), lụt năm 1975, bão năm 1985 và gần đây nhất là trận lụt thế kỷ năm 1999 đã khiến cho cả thế giới phải hướng vào xứ sở lạ lùng này. Nhưng lạ thay dù phải chịu sự khắc nghiệt đến vậy mà xứ Huế vẫn được mệnh danh là một thành phố xanh. Khi nói đến thành phố xanh, người ta thường nghĩ ngay đến màu xanh của cây cối. Điều này cũng được thi nhân Hàn Mặc Tử nói đến trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ” qua câu thơ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”.

http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/IMG_9638.jpg

Ảnh:Nguyệt Thu




          Nhưng không hẳn như vậy, Huế, ngoài những mảng xanh của cây cối, vườn tược... còn có cả màu xanh của bầu trời và dải lụa biêng biếc của dòng Hương Giang danh tiếng. Để có những mảng xanh như vậy một phần do người Huế rất yêu quang cảnh thiên nhiên, phần do sự sắp đặt huyền diệu của tạo hóa. Hầu như không có thành phố nào có nhiều nhà vườn như ở Huế. Mặc dù trước đây đã có nhiều trận lụt lớn nhưng người Huế hầu như rất ít xây nhà cao tầng. Cũng từ những ngôi nhà vườn tưởng rằng đơn sơ nhưng nó đã trở thành một trong những nét văn hóa của người dân Huế. Có thể nói “Vườn Huế”, một xứ sở của văn hóa tâm linh là cõi để mỗi người đối diện với không gian nội tâm của chính mình. Khi nói đến không gian người ta thường nghĩ đến cái khoảng trống vật lý. Thật ra, không gian là những gì đang hiển hiện trước mắt chúng ta như cảnh đẹp của thiên nhiên, khoảng trống của trời mây sông nước và nét đẹp văn hóa được người dân bản xứ tạo dựng nên. Và để có những không gian vật lý đẹp phục vụ cho các giác quan của chúng ta thì chắc chắn rằng bên trong mỗi con người của quê xứ đó phải có một cấu trúc không gian tâm lý độc đáo, thắm đượm bản sắc dân tộc. Đó chính là văn hóa, cái nôi của sự tồn tại và phát triển.


                                  

Phú Xuân, 9/2002   

                         Lê Hoàng Hải (Tạp chí Sông Hương)

"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 10 trang (99 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] ... ›Trang sau »Trang cuối