Trang trong tổng số 10 trang (99 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

HOA SEN



         Hè đến, khoác lên những con đường thành phố Huế chiếc áo đỏ của phượng, áo vàng của điệp và áo tím của bằng lăng...Dưới hồ sen vẫn bình dị với sắc hồng e ấp, vẫn lặng lẽ vươn lên với sắc trắng xanh thanh tao và mùi hương thoang thoảng nhẹ nhàng.

http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/Hoasen_KPH9.jpg

   "Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
    Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".

http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/Hoasen_KPH13.jpg



     Hoa sen là loại hoa đặc biệt, sen có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh sống, vì hoa sen hễ mọc ở nơi nào thì sẽ làm cho nước đục nơi đó lắng trong. Sen có cả hương lẫn sắc. Hương sen không quá nồng mà dịu, mùi thơm khiến con người cảm thấy dễ chịu và thoải mái. Mỗi khi ngang qua các hồ sen, ai nấy cũng đi chầm chậm để được thưởng thức mùi hương dịu nhẹ này.  Sắc sen kín đáo, đằm thắm, cánh trắng xanh xanh, cánh trắng phớt hồng, nhụy vàng. Từ khi nở đến khi tàn không hề bị ong bướm bén mảng tới. Trong bùn lầy vẫn vươn lên dưới ánh mặt trời để khai hoa, kết nụ và tỏa hương tràn ngập không gian.


      Từ lá, hoa, hạt sen đều có thể sử dụng vào những mục đích riêng. Hoa sen là loại hoa đẹp, thanh tao nên thường được chọn cắm vào những dịp lễ đặc biệt hay cắm trong nhà tạo sự bình yên, thanh thản. Lá sen thì dùng để gói đồ. Hạt sen và các bộ phận trên hoa sen được chế biến thành những món ăn mang đậm hương vị đặc trưng như gỏi ngó sen, mứt sen, trà sen, chè sen. Ngày xưa các vua chúa triều Nguyễn dùng sen để ướp trà. Vào ban đêm, khi sen vừa hé nhụy là lúc trời đất đang giao hoà, hương còn rất đượm. Trà được đặt vào trong lòng hoa rồi dùng dây buộc lại, ép không cho hoa nở ra, để qua hết đêm trà sẽ hấp thụ toàn bộ hương sen.  Sáng hôm sau thì thu trà, trà sen Huế vì thế có hương thơm thanh khiết và đậm đà đến say lòng.


      Chè sen Huế với hạt sen  tươi, bóc vỏ, lột lớp lụa mỏng, xoi tim rồi đem chưng cách thủy, chưng với đường phèn thì hương mới thơm và hương vị chè ngọt thanh. Chè sen được múc trong chén nhỏ nhỏ theo kiểu Huế, nhưng chỉ cần được nếm thử món chè ngọt ngọt, thơm thơm, thanh thanh và béo bùi của hạt sen thì ắt sẽ nhớ mãi không thôi. Trong các dịp lễ tết hay kỵ giỗ, chè sen là món quan trọng gần như không thể thiếu trong mâm cỗ.

      Ngoài ra, người Huế  còn dùng  sen để nấu cơm sen rất nổi tiếng trong các món ăn truyền thống Huế. Cách nấu cơm sen cũng hết sức cầu kỳ, chỉ có những người phụ nữ Huế khéo tay, tỉ mẫn mới nấu được cơm sen. Ngày nay cơm sen trở thành món ăn cung đình và được nhiều du khách thưởng thức. Trong mùa sen nở hãy đến Cố đô để được đắm mình trong mùi hương dịu nhẹ trên các con đường nhỏ nhỏ xinh xinh của thành nội và thưởng thức những món ăn tinh túy, cầu kì, thanh tao từ loài hoa đặc biệt này.

Kim Điệp (Khám phá Huế)

"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

KINH THÀNH HUẾ

http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/Ngomonvedem.jpg




     Nằm giữa dải đất miền Trung khí hậu khô cằn, hè nắng dội, đông mưa dầm, là một vùng non xanh nước biếc, phong cảnh kỳ tú trải dọc theo bờ con sông Hương xuôi ra biển Đông. Huế từ thời các chúa Nguyễn đã từng được chọn làm thủ phủ xứ Đàng Trong: Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần dựng phủ ở Kim Long năm 1635-1687; Nguyễn Phúc Thái, Nguyễn Phúc Khoát dời phủ về Phú Xuân trong những năm 1687-1712; 1739-1774. Huế còn là kinh đô triều vua Quang Trung Nguyễn Huệ nhà Tây Sơn, rồi một lần nữa chính thức trở thành kinh đô của cả nước Việt Nam khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế, mở đầu cho vương triều Nguyễn kéo dài suốt 143 năm. Với bề dày lịch sử gắn liền với chín đời cha ông nhà Nguyễn ở đây, không có gì khó hiểu khi vua Gia Long chọn mảnh đất nằm ở trung độ đất nước để làm kinh đô cho triều đại mình.

http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/Ngomon.jpg




    Khởi công xây dựng năm 1805, Kinh Thành Huế được quy hoạch bên bờ Bắc sông Hương, xoay mặt về hướng Nam, với diện tích mặt bằng 520 ha, có 10 cửa chính gồm:

- Cửa Chính Bắc (còn gọi cửa Hậu, nằm ở mặt sau Kinh Thành).

- Cửa Tây-Bắc (còn gọi cửa An Hòa, tên làng ở đây).

- Cửa Chính Tây

- Cửa Tây-Nam (cửa Hữu, bên phải Kinh Thành).

- Cửa Chính Nam (còn gọi cửa Nhà Đồ, do gần đó có Võ Khố - nhà để đồ binh khí, lập thời Gia Long).

- Cửa Quảng Đức

- Cửa Thể Nhơn (tức cửa Ngăn, do trước đây có tường xây cao ngăn thành con đường dành cho vua ra bến sông).

- Cửa Đông-Nam (còn gọi cửa Thượng Tứ do có Viện Thượng Kỵ và tàu ngựa nằm phía trong cửa).

- Cửa Chính Đông (tức cửa Đông Ba, tên khu vực dân cư ở đây).

- Cửa Đông-Bắc (còn có tên cửa Kẻ Trài)

http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/Download-1.jpg



       Ngoài ra Kinh Thành còn có 1 cửa thông với Trấn Bình Đài (thành phụ ở góc Đông Bắc của Kinh Thành, còn gọi là thành Mang Cá), có tên gọi là Trấn Bình Môn.

     Hai cửa bằng đường thủy thông Kinh Thành với bên ngoài qua hệ thống Ngự Hà là Đông Thành Thủy Quan và Tây Thành Thủy Quan.


      Thành ban đầu chỉ đắp bằng đất, mãi đến cuối đời Gia Long mới bắt đầu xây gạch. Kinh Thành Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc kiến trúc truyền thống Việt Nam, tư tưởng triết lý phương Đông với thuyết âm dương ngũ hành của Dịch học Trung Hoa cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng kiến trúc quân sự phương Tây kiểu Vauban (tên một kiến trúc sư người Pháp cuối thế kỷ XVII) .


     Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, công trình xây dựng Kinh Thành Huế có lẽ là công trình đồ sộ, quy mô nhất với hàng vạn lượt người tham gia thi công, hàng triệu mét khối đất đá, với một khối lượng công việc khổng lồ đào hào, lấp sông, di dân, dời mộ, đắp thành... kéo dài từ thời điểm tiến hành khảo sát năm 1803 (triều vua Gia Long) đến khi hoàn chỉnh vào năm 1832 (triều vua Minh Mạng).


      Với mục đích phòng thủ là chính, mặt bằng của thành có dạng hình vuông hơi khum ở phía trước theo địa hình dải đất dọc bờ sông Hương, mỗi mặt có các cổng thành, trên có vọng lâu dùng để quan sát. Các mặt thành lại được xây khúc khuỷu với những pháo đài được bố trí cách đều nhau, kèm theo các pháo nhãn, đại bác, kho đạn... Thêm vào đó, hệ thống hào bao bọc ngay bên ngoài được đào gần 10km chiều dài. Riêng hệ thống sông đào (Hộ Thành Hà) vừa mang chức năng bảo vệ vừa có chức năng giao thông đường thủy có chiều dài hơn 7 km (đoạn ở phía Tây là sông Kẻ Vạn, đoạn phía Bắc là sông An Hòa, đoạn phía Đông là sông Đông Ba, riêng đoạn phía Nam dựa vào sông Hương).


      Dưới con mắt của các nhà địa lý phong thủy, Kinh Thành Huế nằm trên vùng ‘Vương đảo”, trong phạm vi được tạo ra bởi dòng chảy của sông Hương phía trước mặt và hai chi lưu gồm sông Bạch Yến, Kim Long chảy vòng mặt sau cùng hợp lại ở hạ lưu. Sông Hương đóng vai trò minh đường, cùng hai hòn đảo nhỏ Cồn Hến và cồn Dã Viên có vị thế Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ (rồng xanh bên trái, hổ trắng bên phải) chầu về trước Kinh Thành. Bên kia sông, không xa lắm là ngọn Bằng Sơn được đổi tên thành Ngự Bình, che chắn mặt trước Kinh Thành như một bức bình phong thiên nhiên, giữ chức năng tiền án. Kinh Thành và mọi công trình kiến trúc của Hoàng Thành, Tử Cấm Thành đều xoay về hướng Nam, hướng mà trong Kinh Dịch đã ghi “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ“ (ý nói vua quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ).


      Dựa trên các nguyên tắc của thuật phong thủy, các vua nhà Nguyễn đã kết hợp các yếu tố có sẵn trong địa hình tự nhiên như sông, núi, đảo... cùng sự can thiệp đúng chỗ của bàn tay con người khi lấp một số đoạn của sông Bạch Yến, Kim Long, đồng thời đào một loạt hệ thống sông, hào ở trong và ngoài Kinh Thành để phục vụ cho ý tưởng của mình. Tất cả những cố gắng trên không nằm ngoài ý nguyện định đô lâu dài của vương triều Nguyễn. Thật khó nhận ra sự sắp xếp gò ép trong một tổng thể hài hòa kiến trúc- thiên nhiên như thế. Không gây ấn tượng trấn áp tinh thần, cũng không có vẻ hoang sơ dã thảo, Kinh Thành Huế khiến cho người ta cảm nhận được đúng mức không khí tôn nghiêm nhưng không mất đi cảm giác êm đềm thư thái giữa thiên nhiên gần gũi. Bên cạnh đó, phong cách kiến trúc và cách bố phòng khiến Kinh Thành Huế thực sự như một pháo đài vĩ đại và kiên cố nhất từ trước đến nay ở Việt Nam mà Le Rey, một thuyền trưởng người Pháp đã từng đến Huế năm 1819 phải thốt lên: “Kinh Thành Huế thực sự là pháo đài đẹp nhất, đăng đối nhất ở Đông Dương, thậm chí so với cả pháo đài William ở Calcutta và Saint Georges ở Madras do người Anh xây dựng”.


(Theo Trung Tâm Bảo Tồn Di Tích Cố Đô Huế)

"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

NanLan

Kinh thành Huế,tuyệt đẹp,và cổ kính. Vậy không tự hào sao được nhỉ.
Có ai quay lại mùa Thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

@ Nam Lan: Hãy một lần đến Huế, em sẽ thấy yêu Huế hơn nhiều. Huế không rực rỡ mà đằm thắm, dịu dàng. Huế xanh mướt hai bờ sông Hương và xanh cả một dãy triền đồi phía Tây Nam thành phố bởi thông xanh ngăn ngắt. Huế không quá rộn ràng, xô bồ mà cứ lặng lặng, thầm thầm, em ạ!:)
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

Tìm lại được cái này của Trùng Dương gửi vào Như một nỗi đời riêng từ dạo 24/3. Đưa vào đây nhằm minh họa thêm chút nét Huế.
Nhân đây, gửi đến bạn Trùng Dương lời cảm ơn của NT. :)



Hương Bình lưu luyến

Ca sĩ: Hoàng Oanh
Nhạc Sĩ: Hồ Kim Thanh


Ðây Huế giòng Hương Giang lững lờ
Nam Bình khúc nhạc người tình xưa
Thành cao rêu phủ mờ sương gió
Lắng nghe khoan hò chèo lái đưa con đò
Tới chốn thần kinh chan chứa tình
Xóm nào nắng đẹp dệt mộng xinh
Ngàn hoa thua một tà áo tím
Lướt bay trên cầu, càng thắm duyên Hương Bình

Khoan hò ơi ! Tóc ủ bờ vai
Nép trong bóng dừa
Ngắm Hương Giang lòng thuyền ai
Mà yêu tiếng hò đò đưa
Hồn mộng mơ ấp e dưới vành bài thơ

Xa Huế mà nghe như tiếng lòng
Thâm tình Hương Ngự dịu chờ mong
Miền Trung muôn thuở còn lưu dấu
Cố đô Hương Bình, thành Huế rêu phong mờ



"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

NanLan

Chị Nguyệt Thu,
Nghe chị nói làm em phát thèm chị à. Em đi đã lâu lắm. Tình yêu em dành cho Huế chỉ là qua sách báo, thơ, và nhạc. Lần này thì em biết thêm về Huế qua lời tả của chị. Nghe mà trong dạ xốn xang.
Trong cuộc sống xô bồ và có phần vội vã, nếu không nhanh mình có thể bị bỏ lại phía sau. Nhiều khi mình bị cuốn vào đó. Lắm lúc thấy "chóng mặt" lắm chị à, muốn phanh lại phải từ từ nếu không bị mất đà rất nguy hiểm.
Tìm được nơi chốn bình yên, thầm lặng như Huế chắc là hiếm lắm đấy chị.
Em cảm thấy đúng là thiếu sót khi về VN rất nhiều lần mà lại bỏ qua một nơi như Huế.
Mong sẽ có ngày hội ngộ cùng chị nhé.
Có ai quay lại mùa Thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Như Diệu Linh

Cho mình mượn gửi đôi lời của đứa con đất thần kinh nha:

HUẾ ƠI!!!

Huế yêu thương muôn thuở
Hãy che chở cho con
Dù đã xa ngút ngàn
Con vẫn luôn mong nhớ

Ôi người mẹ yêu dấu
Hiền dịu đứng giữa trời
Dang tay khắp mọi nơi
Đón con về nơi ấy

Mẹ biết không?con nhớ
Nhớ núi Ngự,Tràng Tiền
Nhớ sông Hương êm ru
Đỏ ngầu trong đêm lũ

Huế ơi có nghe không?
Tiếng lòng con đang gọi
Vang vọng khắp ruộng đồng
Rằng:"Lòng con nhớ Huế!!!"

NDL_18/5/09

Mặt trời chiếu rọi khắp nhân gian
Chiếu xuống nhân sinh mải vội vàng
Đâu hay ánh nắng tan vào gió
Rồi hoá thành mây trắng lang thang...

http://i910.photobucket.com/albums/ac302/nhudieulinh/1305086331_12895681291289541360logo.gif

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

Namlan đã viết:
Chị Nguyệt Thu,
Nghe chị nói làm em phát thèm chị à. Em đi đã lâu lắm. Tình yêu em dành cho Huế chỉ là qua sách báo, thơ, và nhạc. Lần này thì em biết thêm về Huế qua lời tả của chị. Nghe mà trong dạ xốn xang.
Trong cuộc sống xô bồ và có phần vội vã, nếu không nhanh mình có thể bị bỏ lại phía sau. Nhiều khi mình bị cuốn vào đó. Lắm lúc thấy "chóng mặt" lắm chị à, muốn phanh lại phải từ từ nếu không bị mất đà rất nguy hiểm.
Tìm được nơi chốn bình yên, thầm lặng như Huế chắc là hiếm lắm đấy chị.
Em cảm thấy đúng là thiếu sót khi về VN rất nhiều lần mà lại bỏ qua một nơi như Huế.
Mong sẽ có ngày hội ngộ cùng chị nhé.
Nhưng cũng cần nói thêm với em rằng: có nhiều người đến Huế từ một vùng đất sôi động như Sài Gòn của phương Nam thì lại chê Huế quá âm thầm, buồn bã. Mà không phải họ không có lý đâu em ạ!:) Huế được mệnh danh là "thành phố đi ngủ sớm" mà! Đến bây giờ điều này vẫn chưa được cải thiện mấy, Huế vẫn còn thiếu những điểm vui chơi, sinh hoạt văn hóa về đêm. Có điều chị lại thuộc tip hơi...bảo thủ, cứ muốn Huế mãi yên bình mà yên ả quá, chậm rãi quá thì...trì trệ và tất nhiên là nghèo!:D
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

@Như Diệu Linh: Đọc thơ bạn như chừng bạn là người Huế đi xa? Ai đi xa cũng nhớ quê hương nhưng người Huế thì lại đặc biệt da diết! Không lý giải được cho rõ ràng ngọn ngành là vì sao nhưng mà quả có thế!:)
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

VÀI NÉT VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA HUẾ

                                   Trần Kiêm Đoàn

Khái niệm về Bản Sắc Văn Hóa


http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/04-13-1.jpg

Huế đẹp, Huế thơ
Huế mơ, Huế mộng
Huế… tộng bộng hai đầu!




      Bên cạnh một sự diễn đạt và mô tả “nghiêm chỉnh” cái dáng vẻ thơ mộng đáng yêu của Huế, bỗng có một một ý nghĩ mang đầy hài tính “ngẵng” (nghịch ngợm) hay “ba lơn” (đùa cợt) rất… kiểu Huế để nhận xét về Huế.


      Thế nhưng đứng về mặt nhân văn thuần túy thì sự diễn đạt cái đẹp, cái thơ… chưa nói được một cá tính độc đáo nào về Huế cả. Bởi vì không riêng Huế mà Hà Nội, Sài Gòn, Nha Trang, Đà Lạt, Cần Thơ và nhiều nơi trên đất nước Việt Nam, thậm chí những thành phố khác khắp nơi trên thế giới cũng có thể có những nét chung chung “đẹp và thơ” như thế chứ chẳng riêng gì Huế. Vậy mà bằng một cách nói bình dân rất họat kê, dấy lên từ ý thức hay tiềm thức, cái… “tộng bộng hai đầu” lại nói lên được một trong những nét độc đáo của bản sắc văn hóa Huế. “Tộng bộng hai đầu” vì (1) nếp sống chắt chiu nhưng cầu kỳ và trang nhã trong cái nghèo của Huế; (2) hiếu khách và hiếu học: Huế mở rộng tấm lòng, mở rộng trí óc, mở rộng cửa nhà, phường xóm để đón bạn bè, đón sĩ tử, đón tư tưởng Đông Tây Từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc; (3) Huế rất khép kín trong điệu sống (sợ khen chê, sợ vạch áo cho người xem lưng) nhưng lại rất nhạy cảm và nhạy bén đối diện, chắt lọc mà lại dễ dàng thỏa hiệp với cái mới, cái lạ, cái khác biệt trong đời sống.


      Là một dải đất hẹp như cái vòng eo nằm giữa hai miền đất nước, nếu Huế không “tộng bộng hai đầu” để đón nhận và giữ được thế quân bình giữa nhiều lực kéo từ khác nhau đến đối kháng, Huế hôm nay có thoát khỏi số phận của Châu Ô, châu Rí một thời của Chiêm Quốc hay không?!


      Khi nói về văn hóa, những học giả cổ điển sính chữ thích tầm nguyên hay dành một khái niềm quá bao quát và lớn lao cho hình tượng văn hóa như: Văn hóa Tiền sử, văn hóa Trung cổ, văn hóa Ấn Hà, văn hóa Đông Sơn… Nhưng càng về sau nầy, khi mức độ chuyên môn hóa càng cao thì khái niệm văn hóa càng được giới hạn trong những phạm vi cụ thể và rõ ràng hơn. Một lọat các nhà nghiên cứu văn hóa thời danh cuối thế kỷ 20 đã xem văn hóa như là “Lối nghĩ, lối sống của một nhóm người trong một khung cảnh xã hội nào đó.” Phải chăng, sự tinh tế và phong phú của tri thức nhân lọai đã giúp người ta không cảm thấy hụt hẫng khi nói đến những mảng văn hóa độc đáo mà một thế hệ đã quen với “định đề văn hóa” không thể nào chấp nhận được. Ví dụ như văn hóa Nghị trường, văn hóa Chính khách, Văn hóa Hippy, văn hoá Jazz, văn hóa Rap, văn hóa Cơm bụi, văn hoá Tây ba-lô… và vô số khái niệm văn hóa trong nhiều khung cảnh và lĩnh vực chuyên biệt.


       Trong một bối cảnh nhân văn mang tính toàn cầu và quy ước như thế, sự hiện diện của một hình thái văn hóa địa phương như văn hóa Huế, văn hóa Sài Gòn, văn hóa Hà Nội trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, văn hoá Á Châu… sẽ không còn là một vấn đề “khả hữu, có chăng” nữa mà là một thực tại tất yếu.

      Như thế, vấn đề còn lại là xác định, là nhận diện cho được những tính chất riêng biệt và độc đáo của mỗi cụm, mỗi nhóm, mỗi vùng và mỗi miền văn hóa.


Đôi nét điển hình trong Bản sắc văn hóa Huế.




       Để xác định đôi nét tiêu về bản sắc của văn hóa Huế, trước hết thử đặt một cái nhìn khái quát về Huế. Huế là ai, Huế ở đâu, Huế có cái gì đáng nói?


       Vào thế kỷ XIII, sông Thạch Hãn (Quảng Trị) từ thượng nguồn đổ ra Cửa Việt là biên giới thiên nhiên của hai nước Đại Việt và Chiêm Thành. Có nhiều giai đoạn chiến tranh và hòa bình xảy ra giữa hai nước Việt và Chiêm. Lực lượng Chiêm Thành lúc bấy giờ do vua Chiêm là Chế Mân thống lĩnh. Chế Mân tức Thái tử Bổ Đích (Harijit) là con của quốc vương Indravarman. Vì vua cha đã quá già yếu , Chế Mân lên kế vị. Mối giao hảo giữa hai nước Việt – Chiêm được cải thiện vì lực lượng quân sự của cả hai nước đã mấy lần phối hợp chống họa xâm lăng từ phía Bắc của quân Nguyên tràn xuống xâm lăng.


       Năm 1301, vua Trần Nhân Tôn nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tôn và trong lần viếng thăm Chiêm Thành, thái thượng hoàng Trần Nhân Tôn đã gặp Chế Mân. Vua Trần Nhân Tôn, rất có thể vì cảm phục sự anh tuấn của Chế Mân trong cuộc chiến chống quân Nguyên, đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân.



      Năm 1306, Chế Mân sai sứ giả mang châu báu, vàng bạc ra kinh đô Đại Việt xin cưới công chúa Huyền Trân nhưng vua Trần Anh Tông cùng triều thần do dự không chịu gả. Sau đó Chế Mân lại xin dâng đất hai châu Ô và châu Ríù làm sính lễ nên nhà Trần lúc bấy giờ mới chấp thuận lời cầu hôn. Mùa Hè năm 1306, vua Anh Tôn tổ chức một phái đoàn đưa tiễn công chúa Huyền Trân về Chiêm Quốc. Đến cửa biển Ô Long, tức là cửa biển Thuận An bây giờ, vua cho đổi tên là Tư Dung (tức là dung mạo đẹp đẽ, đoan trang của người con gái) . Từ thời điểm này Huế chính thức nhập vào giang sơn Việt Nam. Nhưng cuộc tình Việt Chiêm của Chế Mân và Huyền Trân không kéo dài được lâu. Chỉ một năm sau, 1307, Chế Mân chết. Theo nghi thức cổ truyền của Chiêm Thành thì hoàng hậu cũng phải lên dàn hỏa để thiêu sống theo vua. Vua Trần Anh Tôn đã cho Trần Khát Chân (Khắc Chung), tương truyền là người tình cũ của công chúa Huyền Trân , đem vệ binh vào kinh đô Chiêm Thành, dùng mưu kế cứu được công chúa đưa về Bắc. Sau đó Huyền Trân đã đi tu giữa tuổi thanh xuân cho hết cả quảng đời còn lại


      Năm 1558 giữa lúc cuộc chiến tranh Lê – Mạc xảy ra, triều đình nhà Lê lâm vào cảnh thoái trào: Chúa chiếm quyền vua. Sau khi Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết chết, người em là Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ đất Thuận Hóa để giữ mình và nuôi chí lớn. Nguyễn Hoàng mở mang khai khẩn xứ Đàng Trong thành một giang sơn riêng. Các chúa Nguyễn thay nhau trị vì xứ Đàng Trong từ đó cho đến khi Nguyễn Ánh thắng cuộc binh đao tranh hùng với Tây Sơn ròng rã 20 năm và lên làm vua lấy hiệu là Gia Long (1802-1820).

       Hai châu Ô và Lý còn được mang tên là Thuận châu và Hóa châu, từ đó có tên là Thuận Hóa về sau cũng vốn là đất đai tranh chấp giữa hai dân tộc Chiêm Việt do những chạm trán và thù hận giữa hai bên. Nguyễn Hoàng đã biến đất từ phía nam Đèo Ngang trở vào, mà căn cứ địa là Huế, thành một nơi "vạn đại dung thân". Lúc đầu các chúa Nguyễn đóng đô ở Ái Tử (1558- 1570), sau dời sang ở Trà Bát (1570- 1600), rồi Dinh Cát (1600- 1687), Phước yên (1626- 1636). Từ năm 1636 đến 1687, phủ chúa Nguyễn đặt ở Kim Long rồi sau đó dời về Phú Xuân. Từ năm 1653, giáo sĩ Đắc-Lộ đã dùng từ “Kẻ Huế” để nói về nơi đặt thủ phủ của các chúa Nguyễn. Tất cả công trình xây dựng Đàng Trong của các chúa Nguyễn khởi đi từ Huế.


       Tiền thân của Huế là Thuận Hóa - Phú Xuân. “Huế” là cách đọc trại ra từ chữ “Hóa”. Tuy thành Phú Xuân được xây dựng từ khi chúa Nguyễn Phúc Khoát vừa mới lên nối ngôi năm 1738, nhưng hơn một nửa thế kỷ lọan lạc, thay ngôi đổi chủ liên miên, văn hóa chưa có điều kiện định hình.


       Năm 1802 Nguyễn Ánh chiến thắng Tây Sơn lên làm vua lấy hiệu là Gia Long, chọn Huế làm kinh đô. Giai đọan nầy chính là thời kỳ Huế được xây dựng thành một kinh đô bề thế với nhiều công trình kiến trúc tráng lệ, mang tính dân tộc và nghệ thuật cao. Gần 150 năm trị vì với 13 đời vua của triều Nguyễn, Huế trở thành đất “thần kinh văn vật” trong khung cảnh thiên nhiên sông núi hữu tình.

       Từ phía Tây bán cầu, sau một ngày của múi giờ sáng tối, nhìn về Việt Nam, ngó về Huế có thấy Huế rõ hơn khi còn ở trong Huế hay không?


       Về mặt di dân và ngụ cư, Huế cũng có nét hao hao giống Mỹ. Người Huế và người Mỹ đều không phải là người bản địa mà là dân di cư và nhập cư. Người Huế từ Đàng Ngoài theo chân chúa Nguyễn vào Nam, đẩy người Chiêm Thành ra khỏi đất gốc của ho. Cũng vậy, người da trắng từ châu Âu vượt đại dương vào châu Mỹ, đẩy người da đỏ vào rừng sâu. Quá trình khai phá đất mới cũng đồng thời với quá trình xây dựng một bản sắc văn hóa mới. Cái khác giữa hai bối cảnh của Ta và Người là đất cũ Chiêm Thành là dãi đất hẹp, núi ăn ra tận biển trong cảnh thiên nhiên non xanh nước biếc; trong khi châu Mỹ là vùng đất vạm vỡ bạt ngàn. Người Chàm thiên về ca múa với những điệu Hời buồn não nuột, lặng lẽ rút lui dần trước sự xâm lấn của lớp người mới đến; trong lúc người Da Đỏ thiên về chiến đấu với tiếng tù và xung trận của tù trưởng, chỉ rút lui khi thua trận trên chiến trường đã ngập tràn máu lệ. Chính bối cảnh lịch sử và xã hội thời “dựng nước” đóng vai trò quyết định cho bản sắc văn hóa về sau nầy.


        Khác với bản năng xông xáo với tinh thần quyết đấu của người Mỹ ứng phó quyết liệt với người da đỏ tại châu Mỹ, lớp người Huế tiền phong đối diện với một thế giới Chiêm Thành huyền bí. Cái thua và cái thắng; cái được và cái mất không tính theo những giá trị rạch ròi quy ước đầy lý tính. Do đó, từ bản chất, văn hoá Huế tiềm tàng giá trị phi vật thể.Người Huế mang nét trầm lặng, u buồn và hoài cổ. Nét buồn của Huế dịu và trầm như thoáng hương xưa khơi lên từ lòng đất chôn dấu những hòai niệm và toát ra từ thiên nhiên kỳ tú trong sương khói. Cái buồn trong cung cách sống cũng như trong cảm nhận nghệ thuật của Huế “buồn” nhưng không “trệ”, nghĩa là nét phù trầm của tâm hồn không đồng nghĩa với sự đau thương và tuyệt vọng của người theo cỗ xe tang như một số tác giả đã nhìn Huế.


       Trong nghệ thuật và cảm quan thì Huế vương mang nét lắng đọng và u trầm như vậy, nhưng trong đời thường thì người Huế lại rất xông xáo và thực tế. Nhìn vào bức tranh hiện thực của những người Huế đang ở quê nhà hay lập nghiệp xa quê, nhất là người Huế di tản ra nước ngoài sau năm 1975, thì sẽ thấy rõ ràng tinh thần vừa lạc quan, hài hước (theo cái ngẵng và cái ba lơn truyền đời của Huế), vừa chịu thương chịu khó “ham việc tiếc công” của con nhà nghèo cố vươn lên hơn là hình ảnh: “Người Huế buồn trong lúc thế gian vui…” quá ảm đạm và bi quan như bác sĩ Lê Văn Lân đã diễn dịch theo lý tính thuần lý (Physical setting interpretation) của y học về một trạng thái tâm lý đau thương vô hạn kỳ vì phải gánh chịu tai trời ách nước triền miên của người xứ Huế!


       Lịch sử hình thành văn hóa Huế đi song song với lịch sử “Chín Chúa mười ba Vua” kéo dài từ 1558 đến 1945 của Nguyễn Triều. Suốt 387 năm để hình thành một nền văn hóa cung đình Triều Nguyễn, kết hợp với văn hóa dân gian mà tạo thành văn hóa Huế. Bản sắc của nền văn hóa Huế mang đậm nét văn hóa cung đình và văn hóa đại chúng bình dân Việt Nam. Bởi thế, trong cái xuề xòa “tộng bộng hai đầu” của Huế lại ẩn chứa vẻ kín đáo thâm cung và nét trang đài và quý phái của cung đình. Bản chất cung đình và lề thói bình dân không bao giờ hoà hợp và trộn lẫn nhau nên Huế thiếu một sự “trung bình cộng” như trắng trộn đỏ thành mầu hồng. Chính đây là nguồn gốc sâu xa của một trạng thái tâm lý mâu thuẫn đi tìm cái không bao giờ có của Huế. Tâm lý Huế là nghèo mà sang, vui mà vẫn man mác buồn, sống hiện tại mà vẫn thiết tha về quá khứ nên hiện tượng “Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên” rất phổ biến trong tâm tình người Huế.

(Còn tiếp)
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 10 trang (99 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối