Trang trong tổng số 10 trang (99 bài viết)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

Mình mở topic này để thỉnh thoảng đọc thấy những bài viết hay, tâm đắc về Huế-quê hương mình thì mang vào đây, giới thiệu cùng bạn bè trong Thi viện vậy...:)

NT cũng nghĩ và mong mình sẽ duy trì được trang này như chỉ là một trang văn học đơn thuần để giới thiệu về những điều hay và đẹp...
Cảm ơn mọi người! :)
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

Bên sông Hương, trong tiếng chuông chùa



    

Nguyên Tiêu Mậu Tý, tôi theo anh Nhơn về Huế. Anh có chân trong Ban tổ chức Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc (VESAK) 2008 ở nước ta, được giao liên hệ với sư trụ trì chùa Thiên Mụ, làm lễ thỉnh chuông, khởi hành phật sự.




http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/IMG_0240.jpg


       

(Thiên Mụ tháng 4/2009 -Ảnh: Nguyệt Thu)




       Đông - Xuân năm nay, mưa lạnh chưa từng thấy. Không khí bão hòa bụi nước, Huế chìm trong một màn sương khói mông lung. Bạn bè cho biết đã hơn tháng nay, chưa hề có một giọt nắng. Từ sáng đến chiều, ngày nối ngày, cả thành phố nhuộm một hoàng hôn màu chì. Một thứ ánh sáng không ra ngày, không ra đêm, hư ảo như ngày địa cực. Cây cối, nhà cửa bồng bềnh, nhẹ tênh, trôi trên hai bờ mộng mị. Trong không gian ấy, sông Hương dường như cũng trầm mặc hơn, nhiều suy tư hơn, lờ mờ, lặng lẽ, về nơi cuối trời.


      Theo anh Nhơn, chúng tôi lên chùa Thiên Mụ. Đọc xong thư giới thiệu, sư trụ trì hoan hỉ: “Quý hóa! Quý hóa! Đảng và Nhà nước thiệt lòng đổi mới, nhà chùa chúng tôi cảm kích vô cùng. Cứ như ri, con dân cũng được rạng mặt, rạng mày với thế giới”.


      Trời lạnh, những giò lan bày trên kỷ nở hết cỡ, tỏa hương đậm đà. Bên ấm trà thơm, sư cụ cởi mở: “Nghe nói ông Khoa thôi làm ở trung ương, về thành phố nghỉ, sáng mô cũng đạp xe đi tập thể dục. Chắc khỏe hỉ? Mấy anh có gặp nói giúp nhà chùa có lời mời lên chơi, uống trà”.


       Tôi hỏi: “Nghe nói chùa thỉnh chuông vào sáng chiều, mỗi lần 108 tiếng?”. “Mô Phật. Mỗi lần 30 phút, sáng giữa Dần, tối giữa Tuất. Dứt mỗi tiếng là một phút. Thỉnh 108 hồi e cả tiếng cũng không xong. Chuông lớn, phải có sức. Chút rồi ông coi”. Tôi nhẩm, theo can chi, giữa Dần là 3 rưỡi sáng. Thỉnh 30 phút, là 4 giờ, Dần ứng với gà, nghe chuông, gà đua gáy, dân thôn gọi nhau, nổi lửa nấu cơm, khai mở ngày mới. À ra thế. Đến bây giờ tôi mới hiểu hết ý trong câu ca:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Cương



       Long Thọ Cương là ngọn đồi đối ngạn, ở bờ bên kia. Vậy ra hàng trăm năm nay, cứ giờ Dần, chuông Thiên Mụ dóng lên, truyền đi trên sóng nước, lan xa, làm lay động canh gà Long Thọ.


       Trong mưa Xuân, du khách trong nước, nước ngoài nườm nượp thăm chùa, lặng lẽ, thành kính chiêm bái sư ông lên đại điện hành lễ. Lễ xong, chúng tôi theo tiểu ra lầu chuông.


       Đại hồng chung Thiên Mụ được Chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc năm 1710, nặng 3.285 cân, thân làm bài minh khắc lên thân chuông. Chuông Thiên Mụ là một bảo vật, lớn nhất kinh thành. Dùi gỗ mít, dài hơn thước, khoát hơn gang, đầu bọc da trâu, treo trên giá.


       Tiểu vận cà sa, đảnh lễ, nắm hai dây chuông, vận kình lực, vung tay áo rộng đưa dùi lên cao. Hai cánh cà sa như ánh chớp vàng, lầu chuông rực sáng, đại hồng chung gầm lên, rung động không gian, ngân dài… tiếng U! U! U!… kéo ra, vuốt lên, trầm xuống, lại vuốt lên nghe như tiếng một dây đàn bầu khổng lồ ngân nga, luyến láy, kéo dài đến hơn một phút trước khi trả thinh không về trong thinh lặng.

       Thỉnh xong chín hồi chấn động không gian, sư cúi đầu đảnh lễ. Từ lầu chuông nhìn xuống, sân chùa đứng đầy du khách chăm chú dõi theo, quên cả chụp hình. Trước cổng chùa, những lộc non trên cành bàng xòe búp, khẽ run run trong tiếng chuông chùa xao động, trong gió xuân lành lạnh đang xôn xao về trên sóng nước sông Hương...


      Ở ta, sông Hương là một không gian Phật giáo nổi tiếng, lâu đời, chỉ sau linh sơn Yên Tử. Yên Tử không nổi tiếng vì cao, Hương giang không nổi danh vì sâu, nhưng không ai phủ nhận, Yên Tử - Hương giang là những danh lam bậc nhất trong toàn cõi sơn hà nước Việt.


      Đã từ xưa, ngọn núi kia, dòng sông ấy, ngoài vẻ cẩm tú được thiên nhiên tạo dựng, Hương giang - Yên Tử còn hàm chứa một giá trị riêng, bất khả tranh chấp trong đời sống tinh thần của người Việt, những giá trị tâm linh, thiêng liêng, hằng hữu.

      Chắc rằng nhiều thế hệ tăng, ni, Phật tử dày công tìm kiếm, đã chọn hai nơi này đặng hoằng dương Phật pháp, hay chính thiên địa mang mang đã tạo lập ra dòng sông ấy, ngọn núi kia dành riêng cho dân tộc này, cho tín đồ của pháp môn lấy sự hòa hợp tâm thân, hòa hợp cùng thiên nhiên làm lẽ đời - tâm đạo?


      Yên Tử dẫu cao cũng không cao bằng Phanxipăng, Everest. Nhưng chiều cao trí tuệ, đỉnh cao tâm linh… thì dẫu Everest cũng không thể sánh bằng.


      Hương giang không cuồn cuộn như Cửu Long, không mênh mang như Bạch Đằng, nhưng chiều xuống trăng lên, ngồi bên sông ấy, để lòng lắng lại, thả hồn phiêu diêu về cõi hư vô trong tiếng chuông chùa, để chiêm nghiệm về lẽ đời sắc sắc không không thì khó sông nào sâu bằng.

  Quả vậy,     “Sơn bất cầu cao hữu tiên tắc danh
                  Thủy bất cầu thâm, hữu long tắc linh”



       Đã có một nhà vua rời bỏ hoàng cung, lên núi tu hành để nơi thâm sơn ẩn tàng cổ tự, để tiếng mõ cầu kinh vang động núi rừng, để Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử trở thành ngọn sơn đăng sáng mãi trong đời sống tâm linh người Việt, xuyên suốt chiều dài lịch sử.


       Cũng đã có một vị Chúa dừng vó câu bên sông này một chiều nắng tắt, để từ đấy, trên sóng nước sông Hương, tiếng chuông chùa truyền lan trên đầu cơn gió làm đu đưa cành trúc la đà. Và dòng sông ấy trở thành dòng sông hoàng gia uốn khúc bên chân kinh thành hoa lệ.


       Theo một số nghiên cứu, Phật giáo là một hiện tượng văn hóa truyền vào Việt Nam từ thời Hùng Vương, trở thành một phần quan trọng trong tổng hòa văn hóa Việt. Phật giáo hóa thân vào truyện Chử Đồng Tử, vào Công chúa Tiên Dung, v.v… cứu nhân, độ thế, rồi bay về trời. Lúc quốc gia lâm nguy, hóa thân thành Gióng, nhổ tre đằng ngà đánh tan giặc nước. Thắng trận, vỗ ngựa sắt, lên Sóc Sơn mà thăng… còn biết bao truyền thuyết đẹp khác làm đời sống tinh thần người Việt thêm giàu có.


       Ngay cả cô Tấm phúc hậu, đáng yêu trong cổ tích, mỗi lúc khó khăn đều có Bụt hiện về. Quan niệm về nhân sinh, về vũ trụ của Nhà Phật, uyên thâm mà gần gũi, dễ hiểu, dễ theo. Phật trong Ta. Và thăng hoa trong thơ Thiền Lý - Trần. Ta cũng là Phật.


      Trước Phật, tất cả những kẻ nghèo khó, khốn cùng đến vì vua cao sang đều là chúng sinh, đều chịu kiếp khổ nạn. Chỉ có lòng từ bi, chỉ có tinh thần hỷ xả, tránh xa cám dỗ, tu tập thiện tâm, đốn ngộ, giúp mình giúp đời, cư trần lạc đạo, để đạt đến thân tâm an lạc.


      Phật giáo, trước khi là một tín ngưỡng đã là một phương pháp tu tập, thiết thực, gần gũi, có giá trị khoa học cao, cho tất cả mọi người. Vì lẽ đó, Phật giáo theo sát thời cuộc, luôn cập nhật, đồng hành cùng cuộc sống. Phật giáo vị tha, không phân biệt, không chấp trước, dễ vào lòng chúng sinh. Vì thế, Phật giáo luôn hiện đại.


       Huế là thành phố nhỏ, tọa lạc hơn 140 ngôi chùa, tính cả tịnh xá, tịnh thất, niệm phật đường khoảng ngoài 500. Rộng ra cả tỉnh Thừa Thiên - Huế chưa thể kể hết.


        Mới thì như Thiền viện Trúc Lâm. Cổ xưa như Thiên Mụ. Sách Ô châu cận lục của Dương Văn An, từ 1553, mô tả: “Chùa ở phía Nam làng Giang Đạm, huyện Kim Trà, nóc ở đỉnh núi, chân gối dòng sông, tưởng như gang tấc bên trời vượt hẳn ba ngàn thế giới. Du khách đăng lâm thưởng lãm, bất giác lòng thành phát động, niềm tục sạch không, đáng là một cảnh trí non bồng nước nhược”.



       Ở Huế, 80% là Phật tử. Gia đình Phật tử là những tổ chức thiện nguyện, góp công góp sức xây dựng một xã hội an lành. Khi đất nước lâm nguy, người dấn thân không hề run sợ đầu tiên chính là Phật tử. Thượng hoàng Trần Nhân Tôn lui về núi cũ sau khi dẹp xong Nguyên - Mông. Phật tử từ Huế xuống đường, tự thiêu, dấy động phong trào, lật đổ chế độ gia đình của một tổng thống thiên vị. Đất nước hòa bình, giang sơn nhất thống, người cấy lúa, kẻ làm thơ, coi danh lợi trong đời như mưa bay, như gió thoảng.

       Chẳng phải Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ tài danh, một Phật tử Huế đã ôm đàn nghêu ngao:


“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết không...
Để - gió - cuốn - đi…”.




Theo NGUYỄN TRỌNG HUẤN
(Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần)



(Nguồn: http://www.skydoor.net/#hueyeu/entry/1132)
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

“Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp”



Tác giả: Trần Kiêm Đoàn


(Nguồn: http://www.hue.vnn.vn/vanhocthica/2005/01/53973/)


Phần 1:

(NetCodo) Mỗi lần nhớ Mẹ tôi lại nhớ chiếc cầu và nhớ ngọn gió Nồm lồng lộng nắng cuối Xuân quấn quýt bên Cầu. Xa quê hương trên 20 năm, khi tôi thức bên ni thì chiếc cầu bên tê đang ngủ, nhưng lòng tôi vẫn gần với chiếc cầu trong gang tấc.

http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/IMG_5564.jpg



(Cầu Trường Tiền, Festival Huế 2008 - Ảnh: Nguyệt Thu)




Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp
Em qua không kịp tội lắm anh ơi
Thà rằng không biết thì thôi
Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi cũng buồn

(Hò ru em của Huế)



Văn hoá những chiếc cầu


       Trong khái niệm Đông Phương, văn hóa tiềm ẩn một vẻ đẹp mơ hồ và một thiên năng cao cả, thì Tây Phương thực tế hơn, văn hóa là cách thể hiện kinh nghiệm sống.  Nhất là Mỹ, những nhà hoạt động văn hóa đã đập vỡ và vun quén lại khái niệm văn hoá cổ điển từ thời tiền Victoria để đưa văn hóa xuống đường.  Nhiều khái niệm văn hóa ra đời đến nỗi chẳng ai còn thấy “chướng” trước những khái niệm “văn hóa bên lề” (subculture) như văn hóa của giới đồng tính luyến ái, văn hoá những người sống vô gia cư, văn hóa giới nghệ sĩ, văn hóa giới quyền quý tiếng tăm, văn hóa vùng thường xuyên bị động đất, văn hóa khu cao ốc chọc trời...


        Đi từ những bước nghênh ngang cao chênh vênh trong khái niệm “Văn Hóa Cao Sang” (High Cuture) của Matthew Arnold (1869) đến dáng là đà trong mớ hành lý bụi đời “Văn Hoá Bình Dân” (Ordinary Culture) của Raymond Williams (1958), tôi bỗng hứng chí nhớ về và dừng lại bên những chiếc cầu từ thuở cây đa bến cũ rồi tự hỏi: “Có chăng Văn Hóa Những Chiếc Cầu?”.  Rồi cũng hồn nhiên như anh Xã Xệ tin mặt trăng làng ta là sáng nhất, tôi trả lời rằng, “Có!”. Tôi tin là mỗi chiếc cầu đều có một dòng đời, một lịch sử, một nếp sinh hoạt tương tự như một dáng vẻ, một kiểu cách văn hóa riêng. Những chiếc cầu khỉ đã nằm vắt qua suốt chiều dài của lịch sử.  Rồi cầu tre (Anh thương em mấy nhịp cầu tre), cầu ván, cầu ao (Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi) .  Cho đến cầu phao, cầu nổi, cầu sắt, cầu đá, cầu xi-măng, cầu chuồi, cầu gác, cầu treo... đã ghi dấu bao nhiêu thế hệ lịch sử, văn hóa.


       Thưở còn bé ở quê nhà, mỗi chiếc cầu từ đầu làng đến cuối xóm đều gợi cho tôi một thế giới riêng tư nho nhỏ.  Như Cầu Lừ, chiếc cầu khỉ èo ọp bằng tre đã chứng kiến bao nhiêu là tai biến của dân làng. Cầu Vượn, cầu Banh một đời chở đầy những mùa trăng lúa mới.  Những chiếc cầu Việt Nam quản chi khó nhọc để quặn mình nối hai bờ anh em hay thù nghịch. Có những chiếc cầu nằm xuôi mái lặng lẽ mà sao đứng nhìn, tôi lại có cảm giác như mỗi thanh sắt vô tri và chiếc bù loon đang run lên bần bật.  Đó là cảm giác thuở học trò được thầy giáo dắt ra thăm cầu Bến Hải nối liền – mà chia cắt – hai bờ sông Hiền Lương soi bóng hai màu cầu... lạnh lùng, rờn rợn. Cầu không dắt ta đi mà cũng chẳng đưa ta về.  Có khi đi thì còn, mà về lại mất.  Mất khi trở về có nghĩa là đi không bao giờ trở lại.


        Khái niệm văn hóa những chiếc cầu lớn hẳn trong lòng tôi như một niềm thâm tín khi mùa Hè năm 2000 tôi ngỡ ngàng qua nhánh Tiền Giang sông Cửu Long bằng chiếc cầu treo “Bắc” Mỹ Thuận.  Có lẽ cả nước đều mang chút tâm trạng ngỡ ngàng như thế khi đối diện với chiếc cầu treo tân kỳ mở màn đi vào thế kỷ 21 với nỗi lòng Tú Xương:  “Đêm nghe tiếng ếch bên tai; giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò!” Nhìn từ xa, tôi bỗng thấy cây cầu giống như cây đàn 128 sợi dây, một cây đàn đầy biểu tượng cho ngón đàn tài tử của dân Nam bộ.  Đứng trên chiếc cầu lộng gió dài gần hai cây số với hai trụ tháp cao vút, khách vẫn còn mường tượng nghe tiếng máy phà mới hôm nào đây còn khò khè cuộn nước.  Mùi nắng gió và phù sa lồng lộng thổi qua cầu vẫn chưa làm ai quên được mùi chim mía nướng than, mùi những xách hàng rong đủ vị và và khối âm thanh không tên tuổi nhưng thật thân quen trên bến phà thuở nọ.  Chiếc cầu mới đang khởi sự một nguồn sống mới. Tôi cảm nhận được rằng, dù con người có muốn hay không, cây cầu với ngôn ngữ văn hóa lặng thinh hay lao xao riêng một cõi, vẫn đang tự nó ghi những dòng đầu của cuốn sử đời mình...như chuyện chiếc cầu trên sông Drina, trường ca cầu sông Kwai đã trở thành bất tử.


       Tôi đã đi qua những chiếc cầu xa xứ với cái nhìn hiếu kỳ của người du khách và với một cảm giác thán phục bàn tay và khối óc tuyệt hảo của con người.  Nhưng giữa cầu và tôi vẫn là hai thế giới, đi về không một chút vấn vương.  Như hình ảnh nhà quý tộc cổ kính đi xe song mã, chiếc cầu treo của thế kỷ 20 là con đẻ của nền văn hóa cao ốc chọc trời.


       Những chiếc cầu vang bóng như Golden Gate Bridge, Bay Bridge, Brooklyn... của Mỹ đều vươn những vài cầu cao vút tới những vùng giàu sang như San Francisco, Manhattan. Cầu Mirabeau của Pháp bắt qua dòng sông Seine soi bóng tháp Eiffel uy nghi mà kiêu sa giữa lòng kinh thành Ba Lê ánh sáng. Cầu Mỹ Thuận – chiếc cầu treo trẻ nhất của thế kỷ nầy– đã được thai nghén và hình thành trong một bối cảnh văn hóa khác hẳn với những chiếc cầu kia.  Chiếc cầu đã vươn mình qua sông phù sa vạn lý như con rồng chín khúc uốn mình từ Tây Tạng về tới biển Đông.  Dòng sông vẫn còn nguyên nét sơ khai. Tôi qua cầu với tâm trạng đi vào cửa ngõ ngày mai của đồng bằng sông Cửu Long đang còn ngủ say trong màu xanh phủ hết chân trời của ruộng lúa, bóng dừa, vườn cây, kinh rạch và điệu lý qua cầu. Dáng nổi bật của cây cầu giữa một vùng mênh mông làm cho cây cầu chưa thuần với dòng sông mà gợi lên một cảm giác thách thức.  Đó là một cảm giác mạnh mà du khách thường nhắc tới khi đi qua cầu Akashi Kaikyo, chiếc cầu treo dài nhất thế giới – gấp ba lần cầu Mỹ Thuận – của Nhật bắc qua eo biển Akashi. Nhưng sự thách thức của cầu Akashi là những luồng sóng dữ, là sự đối mặt với cái uy vũ tàn bạo của thiên nhiên. Còn sự thách thức của cầu treo Mỹ Thuận là sức bật khai phá của con người tương lai trên lối vào thế kỷ.


       Từ khi chưa có bóng người trên trái đất thì đã có hàng vạn dòng sông.  Và lịch sử con người lớn lên với những cây cầu cho bớt ngăn sông cách núi.  Nhưng có được bao nhiêu dòng sông thuộc về một vùng đất ở và có được bao nhiêu chiếc cầu thuộc về một dòng sông trôi.  Chiếc cầu chỉ thuộc về dòng sông khi nào cầu không chỉ là phương tiện để vượt qua sông mà cầu chở lòng người đến với dòng sông.  Hơn 2000 năm, cầu Luân Đôn trên sông Thames; 500 năm, cầu Mirabeau trên sông Seine; và 100 năm cầu Trường Tiền trên sông Hương không chỉ đưa chân người qua cầu mà còn đưa lòng người trôi chảy dưới dòng sông.  Nguyễn Du, trong mắt nhìn Đông Phương, thấy cây cầu như là điểm hẹn của thiên nhiên, “Dưới cầu nước chảy trong veo, bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”, mà Appolinaire, trong cảm nhận đầy đam mê với chút váng vất siêu thực Tây Phương thì thấy cây cầu trăm năm vẫn đứng đó nhưng bóng nó là khởi điểm của từ ly: “Dưới cầu Mirabeau, sông Seine thầm lặng chảy. Tình chúng ta đi mãi, vui với sầu theo nhau.”


       Có đứng trên những chiếc cầu với lịch sử hàng trăm năm của thế giới, mới cảm nhận hết hình ảnh đan thanh, xa vắng “em qua không kịp tội lắm anh ơi…” và khái niệm cầu soi bóng nước của Trường Tiền.  Hình ảnh một chiếc cầu phải ngắm từ nhiều góc độ và trong những thời điểm ngày đêm khác nhau để cho thiên nhiên góp phần sáng tạo nét đẹp của cây cầu.  Tôi đã qua lại cầu sông Thames ở Luân Đôn. Chiếc cầu chạm trổ như một lâu đài La Mã đúng với cái tên Tower Bridge (Cầu Tháp). Nhưng khách trông cầu chỉ thấy được những đường nét vuơng giả, kiêu kỳ của chiếc cầu với giòng sông Thames  đục ngầu bên dưới.  Tôi không có một cảm xúc nào khi đứng trên chiếc cầu cứng đơ, chìm khuất trong khung cảnh của những lâu đài chạm trổ.  Tôi đã cố đến tìm chiếc cầu Mirabeau man mác trong thơ Appolinaire trên bờ sông Seine của Paris lúc về đêm, nhưng chỉ thấy một chiếc cầu vạm vỡ, lãng quên trong hằng trăm chiếc cầu trên sông Seine. Và trong ánh sáng ban ngày chiếc cầu lại trông càng trơ trụi với bức tượng mỹ nhân bên dưới ngước lên như một nỗi buồn vô vọng.  Tôi cố đừng suy nghĩ chủ quan hay mang một thiên kiến bảo thủ để so sánh, rồi tự phong cho cầu Trường Tiền là đẹp, là nên thơ. Nhưng tôi không thể dừng lại được khi trong mắt nhìn và cảm xúc của tôi, cầu Trường Tiền thật sự có một linh hồn hòa điệu với giòng sông, thiên nhiên và con người đơn sơ qua về nơi khung cảnh ấy.


Tôi lớn lên ở Huế.
Rồi rời Huế đi xa.


        Hành lý một đời để dành với Huế mà tôi mang theo cũng có thể là cả một gia tài mang đi không hết, mà cũng có thể chỉ là một búp sen đầu mùa mới nhú lên mà vì thương màu hồng ngây thơ quá, tôi không nở hái mang theo. Xa Huế, tôi đã mang màu tím trong không gian Huế buổi chiều, mang mùi trầm hương từ mấy trăm ngôi chùa cổ, mang tiếng chuông công phu trong đêm khuya, mang rong rêu của dòng sông có những bến đò áo trắng mà đi. Mớ hành lý đó cần một chiếc va-li không giới hạn để đựng. Chiếc va-li không khóa, là trái tim vô ngã của Huế, là chiếc cầu Trường Tiền màu nhũ bạc trên dòng sông Hương.


(Còn tiếp)
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

“Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp”



Phần 2:

Chiếc Cầu trong tâm ảnh


http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/normal_hue_phuong4.jpg




        Châu Thuận Hóa là ốc đảo của thiên nhiên Việt Nam suốt cả một thời quá khứ. Huế cách trở trong lòng người xứ Bắc – Thương em anh cũng muốn vô, sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang – Và xa xôi lạ lùng quá đỗi với người phương Nam – Đi bộ thì khiếp Hải Vân, đi thủy thì khiếp sóng thần Hang Dơi. Thiên nhiên thuở nọ đã bắt Huế nằm im gối đầu Trường Sơn, co chân trên dãi đất hẹp giáp biển Đông như những dòng sông bị cản chiều dài, cách trở chiều rộng, nên phải chảy vào bề sâu mà về lại trong lòng. Bởi vậy cái đẹp của Huế là cái đẹp mang vẻ trầm lặng và cô tịch. Cái nên thơ của Huế là vẻ nên thơ trong mắt nai rừng lúc hoàng hôn: Vời vợi, hồn nhiên nhưng cũng trang đài và huyền hoặc.  Dường như người Huế nhìn về quê người thì thấy thấp thoáng bóng tương lai, mà nhìn về quê mình thì chỉ thấy toàn quá khứ.  Phải chăng vì thế mà người Huế thành người tù chung thân của quá khứ, thành kẻ hành hương quanh miếu đền kỷ niệm, những kỷ niệm thuộc về một thời “mô tê” lãng đãng như ca dao.


       Huế có một dòng sông và một chiếc cầu như ảo ảnh, đó là dòng sông Hương đã trở thành dòng thời gian và chiếc cầu Trường Tiền là bến đò của dĩ vãng.  Dòng thời gian vẫn luân lưu trôi chảy nhưng không già. Thời gian sẽ đẩy lùi quá khứ để mà quên và kéo dĩ vãng trở về để mà nhớ. Mỗi năm, khi mùa Thu về, dòng sông ấy vẫn xanh; vẫn trôi chảy âm thầm dưới chiếc cầu cong sáu nhịp có nét e ấp tròn trang đầy duyên dáng. Dòng sông và chiếc cầu vẫn còn trẻ mãi mà những hàng cây hai bên đường lại ngã màu. Thời gian cũng có nét buồn riêng của nó. Với Huế, nét buồn của thời gian là vết chân chim trên khóe mắt cười đã hết long lanh của cô học trò Đồng Khánh một thời áo trắng.


       Một sớm mùa Hè năm 1954, sau khi rời bến xe Nguyễn Hoàng, tôi theo mẹ về chợ Đông Ba.  Một sớm mai trên hè phố Huế, được ngồi bệt trên chiếc mũ đệm bên gánh cháo lòng un khói và được ăn một tô cháo nóng hổi đã đời là cả một niềm hạnh phúc lớn lao mà rất ít đứa trẻ ở làng cùng lứa như tôi có được.  Mùa Hè, mới nắng mai đã gắt. Vị cay và sức nóng bên trong của tô cháo lòng, bên ngoài của nắng làm tôi ngầy ngật như say. Tôi chạy lúp xúp theo mẹ qua cầu mà chẳng thấy được gì vì mồ hôi đổ dầm như tắm. Đến giữa cầu, cơn gió qua sông mát lạnh. Tôi không cần đưa tay áo quệt mồ hôi mà mắt mũi, mặt mày vẫn ráo hoảnh. Tôi ngước nhìn quanh. Cao vút trên đầu tôi là đường cong trắng vàng rực rỡ như thềm núi Trường Sơn có cầu vồng ra ăn mưa. Trước vẻ ngỡ ngàng của thằng con trai út chưa ra khỏi mấy lũy tre làng, mẹ tôi chợt nhớ ra và lên tiếng:

  -  Cầu Trường Tiền!

      Một cơn sóng ký ức dội về.  Tôi đã quen lắm từ bao nhiêu năm qua tiếng khóc trẻ thơ dịu dần trong tiếng hò ru em, vang lên ấm dịu, ngọt ngào từ xóm trên về xóm dưới. Hình như tôi đã biết sâu lắm rồi mà vẫn hỏi. Hỏi như để khẳng định một tình yêu đang có mặt, nhưng cũng rất xa xôi:

    - Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp đây phải không mạ hè?

      Mẹ tôi thật vô tình. Mẹ không chia sẻ luồng gió mới đang mở phăng cánh cửa lòng tôi, nên mẹ đã nói bằng ngôn ngữ thản nhiên, làm như tôi cũng đã có hơn nửa đời người quen thuộc với chiếc cầu nầy như mẹ. Không, tôi có riêng đôi mắt bình minh của trẻ thơ để khám phá ra “cái ông cầu” uy nghi vươn tay dài sáu khúc để nối liền bờ bên nớ bên ni. Tôi như một người nghèo cháy túi vì không tìm ra được chút vốn liếng kinh nghiệm nào ở làng để so sánh với cả một thế giới lạ lùng, đồ sộ, xinh đẹp, cao sang, nhưng cũng mang vẻ ngự trị và bí ẩn chứa trong từng mảnh nhỏ của “ông” cầu. Tôi mơ hồ liên tưởng tới đường cong như cánh cung của cặp rồng uốn lượn trên nóc đình làng để ví với dáng cong cong thon thả của những vài cầu lên xuống. Vài cầu đang ngự trên cao chót vót tận đọt tre lá ngà gần mây trắng, thấp dần xuống để soi mình trên sông và từ từ vút cong lên trở lại. Tôi đếm thầm những cây quạt trắng khổng lồ mình đã đi qua:  Một, hai, ba, bốn, năm, sáu. Rồi những tảng mây trôi trên xa cho cây cầu đổi sắc làm tôi nhớ những giọt sương mai trên lưới nhện hoang giăng trên bờ cỏ dại ở đầu làng.


      Có tiếng nổ rất xa, đâu từ phía núi. Tôi nhớn nhác bấu chặt tay mẹ.  Mẹ tôi cười, nói một cách tự tin:

    -  Sáng ni đình chiến rồi, sợ chi nữa!

      Tôi nghĩ bụng, “Đình chiến là cái ông nào mà to hơn gan cóc tía. Súng đạn không sợ thì còn biết sợ ai!”. Tôi hỏi về cái ông “đình chiến”. Mẹ tôi cười tội nghiệp rồi giải thích theo lối thông tin “Làng trên xóm dưới”:

    - Thì đình chiến là họ ký hiệp định Giơ-Neo với nhau, không bắn nhau nữa.  Mai mốt, mình lên nhà trên kê phản ngủ.  Rồi mạ tháo cái hầm làm chuồng heo, thả cặp heo tới tháng Chạp kỵ Ba, rồi ăn Tết. Tôi nín thở tận hưởng nguồn hạnh phúc tưởng tượng là từ nay, đêm đêm mình sẽ thôi ngủ dưới hầm, khỏi ngửi mùi rễ tre lên mốc, khỏi nghe bầy mối nghiến tre trèo trẹo thâu đêm.

      Nghe mẹ tôi vẽ bức tranh mơ ước, mấy người gánh gồng cùng chạy bộ qua cầu cũng hớn hở hỏi nhau:

     -Nì, Thím nớ về mô? Đình chiến rồi, hoà bình rồi, hết sợ súng đạn, ăn hột muối cũng sướng. Chừ lo về lại dưới làng cuốc đất mần ăn.

      Cây cầu quanh tôi trắng tuyền như ngọc bích. Từ phút đó, cầu đã viết trong ký ức hoa niên của tôi những trang đầu tiên và kết tụ thành tâm ảnh: Cầu Trường Tiền đó, chiếc cầu chở hoà bình về lại quê xưa.


     Rồi đời cứ theo dòng. Năm năm, mười năm, hai mươi năm…tôi đã đi về qua chiếc cầu đó; và hết một đời chiếc cầu đó sẽ soi bóng mãi trong lòng tôi.


      Dòng sông Hương là mẹ nuôi, đã trở thành mẹ hiền và xứ Huế quê ngoại đã trở thành quê hương yêu dấu của cầu Trường Tiền. Cầu chào đời ở tận bên Tây.  Năm 1899 hãng Eiffel mang về Huế đặt bên cạnh kho đúc tiền nên mang tên là cầu Trường Tiền.  Lên năm tuổi, mới học vở lòng đường đi còn lót ván, trận bão năm Thìn 1904 đã xô ngã bốn nhịp cầu. Vè dân gian ghi lại rằng,  “Nửa đêm bão tới thình lình; cù lăn nổi dậy miếu đình nghinh ngang...” và cù lăn đã “Xô cầu Trường Tiền ngã bốn, đốn cột cờ gãy ba!”


       Trường Tiền là chiếc cầu định mệnh của Huế. Tình yêu chưa bước song đôi qua cầu là tình yêu chưa “chín”. Hận thù chưa giải được trên cầu thì thù hận chưa nguôi. Uy vũ chưa tuyệt lộ trên cầu thì chưa phân thắng bại.  Đến Huế mà chưa đứng trên cầu là chưa vô tới Huế, chỉ mới “tạt” qua Huế mà thôi. Phải chăng vì thế mà từ ngày có mặt, tuy nằm yên một cõi, Trường Tiền đã mang những vết hằn lịch sử sâu nặng nhất của một xứ Huế thăng trầm theo thế sự.


        Ngày mới lớn lên ở làng, tôi thường nghe thế hệ đàn anh kể chuyện “Chiến sĩ qua cầu”. Câu chuyện bao giờ cũng bắt đầu bằng cái mốc “Thời Nhật đảo chánh”. Ngày ấy, thực tế lẫn huyền thoại “chống thực dân Tây xâm lăng” là một khúc anh hùng ca thôi thúc những tấm lòng yêu nước lên đường kháng chiến.  Mùa Đông năm 1946, những người trai quê và thôn nữ của làng tôi lũ lượt gánh ớt bột, mạt cưa, trấu, rơm rạ, và bùi nhùi để qua Huế đánh đồn Tây Tòa Khâm.  Nghe kể lại là khi xông ớt, trấu, rơm rạ, mấy ả đầm và Tây con ở trên lầu cay mắt quá, khóc bằng tiếng Pháp (!), nghe thảm thiết như “mèo kêu” (?!).  Các chiến sĩ chân đất làng ta không biết vì động lòng trắc ẩn hay vì không chống nổi với súng đạn thiệt tình của quân Tây nên đã hè nhau chạy bộ qua cầu Truờng Tiền, băng qua đồng, trở về làng cũ hát tình ca Phạm Duy “Ngày nao ta phá tan đồn nó đi, sẽ thấy trên đường trở về, áo dài đùa trong nắng hè...”Làng tôi có khoảng mười “Chiến Sĩ Qua Cầu” và tất cả đều có một nỗi niềm chung là đầu hôm khi băng qua sông Hương, cầu Trường Tiền còn nguyên vẹn, nhưng khi trở lại sau nửa đêm gần sáng, cây cầu đã gãy đôi! Những người trai quê và gái quê đêm đó đã khóc khi lội qua sông: Khóc cho một cây cầu thân yêu đã gãy và buồn cho một dòng sông không ấp ủ nỗi một cây cầu.


       Tôi là học trò từ làng quê lên Huế học. Thời tôi mới lớn, học trò nhà quê lên tỉnh học còn ít hơn là học trò các thành phố lớn được qua Tây, qua Mỹ du học.


       Tôi ở trọ trong Thành Nội, học trường Quốc Học. Mỗi buổi sáng đi học, ra cửa Ngăn dọc theo bờ Bắc sông Hương, qua cầu Trường Tiền, đi ngược bờ Nam sông Hương. Bãi học, về cầu Trường Tiền, vô cửa Thượng Tứ...Nhịp điệu đi về trên một chiếc cầu ngỡ như đơn điệu ngày lại ngày cả mười năm đó, thực ra, chẳng có bao giờ giống nhau như con nước bao năm qua trôi chảy mãi dưới chân cầu mà vẫn không có một lần lặp lại.


      “Mỗi sáng sớm đi học, qua cầu khi gió ban mai còn nhẹ nhàng, mơn man tà áo, vuốt ve mái tóc thề, dỗ dành từng bước đi của người qua cầu, ánh sáng lấp lánh trên mấy vài mấy nhịp uốn cong, tuổi học trò thấy cuộc đời như trang vở đầu tiên của ngày tựu trường, con tim hồi hộp vui mừng nơi từng nhịp đi...


      Cái vòm trắng bạc có một chút kiêu sa phù phiếm. Mỗi bận qua cầu tôi có cảm giác như đi qua một đám mây phù du, một đoạn đường sương phủ hay đi vào một mối tình đầu không dài lâu; hoặc bắt đầu một cuộc đời lãng tử cũng không biết chừng.


      Bước đi trên cầu trong ngọn gió sông Hương buổi sáng, khi chiếc cầu còn ngái ngủ trong khói sóng và màn sương, nhìn về phía Vĩ Dạ, có sóng nước êm đềm xanh một màu lục thủy, những chùm tre lã ngọn nơi phía Cồn Hến ẩn hiện đằng sau như vừa mới gội nước hồ thủy để xanh một màu xanh êm ả có thể làm mướt lại những con mắt suốt đêm thức trắng để “gạo” bài. Đến giữa cầu, ấy là lúc không thể nào không ngoảnh mặt về phía rặng núi Kim Phụng nổi hẳn lên trong dãy Trường Sơn kéo dài về hướng Tây Nam. Sông Hương mà không có dãy núi này đứng đợi như một tri âm vĩnh viễn thì e sẽ là con sông thảm thiết không biết trôi về phương mô. Dãy núi ấy, xanh một màu xanh “xuân sơn” thăm thẳm, vừa huyền bí, vừa đa tình. Hình như nhờ bóng núi xa xăm kia mà sông Hương trở thành huyền ảo, như có như không trong một nỗi thầm lặng miên man của dòng nước chảy.” (Thái Kim Lan)


       Giờ đến trường và tan học, cả con đường, chiếc cầu và lòng sông soi bóng đều sáng lên theo dòng nón lá và áo trắng học trò. Dòng suối trắng đó có lúc đầy giữa mùa thu tựu trường, mùa xuân nắng ấm; vơi dần giữa mùa thi sang hè, và xám lại giữa mùa đông co ro trong những chiếc áo mưa. Thế nhưng cũng có khi dòng suối ấy khô quắt khô queo theo nhịp cầu gãy đổ.


      Chiếc cầu sáu nhịp nối liền hai bờ sông bên phượng, bên me. Huế cùng dòng sông bên dưới và dòng người bên trên thì trôi chảy mà chiếc cầu thì vẫn lặng im trong nắng trong mưa có vẻ như thường hằng, bất biến. Huế đã trải qua không biết bao nhiêu cuộc bể dâu, thế mà sự ngây thơ vẫn còn đeo đẳng. Có những tâm hồn đã thành sắt đá vì chiến tranh; những cảm quan đã chai lì vì súng đạn; những ước mơ đã cùn nhụt vì thực tế chua cay...bỗng trở mình một cách nhẹ nhàng, rồi thức dậy nhìn dòng sông xanh bên dưới với đôi mắt trẻ thơ khi lững thững bước qua chiếc cầu màu nhũ bạc.


       Phong cảnh trên cầu, ngày lụn tháng qua, đã trở thành Tâm Ảnh trong lòng người lớn lên hay già đi cùng với chiếc cầu. Khi một bóng dáng đã trở thành tâm ảnh thì sự hiện sinh của nó sẽ trở thành ảo ảnh. Như bóng dáng Kim Trọng thuở ban đầu “Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa” đã thành tâm ảnh trong một thế giới riêng của Thúy Kiều.  Bởi vậy, trong ngày Kim Kiều tái hợp, chàng Kim bằng xương bằng thịt chỉ là một hiện sinh xa lạ. Nỗi đam mê cháy bỏng và sự khắc khoải đợi chờ “từ Lâm Truy em lạc tới Giang Hà” của Thúy Kiều đã miên viễn hướng về tâm ảnh. Buổi đoàn viên sau mười lăm năm luân lạc mà “đổi duyên cầm sắt ra duyên cầm kỳ” là một phản ứng lạnh lẽo của tâm hồn.  Phải chăng đó là một cách lẩn trốn dưới cán dù đạo lý khi lửa tình đã nguội! Cũng thế, những người xa Huế đã mang chiếc cầu trong tâm ảnh mà ra đi.Vô số chiếc cầu Trường Tiền đã bắt qua dòng sông tưởng tượng trong tâm thức lãng mạn được thi vị hóa bằng chất men lưu đày nên càng…xa Huế, chiếc cầu và dòng sông trong tâm ảnh lại hiện về càng rõ, bất chợt, không hẹn không hò.Tôi đã về lại Huế, nhiều lần đi trên chiếc cầu xưa mà vẫn quay quắt đi tìm. Tìm chi? Tìm chiếc cầu trong tâm ảnh -như ngày xưa vua Tự Đức đã có lần toan “Đập cổ kính tìm ra lấy bóng...”!


       Cũng như tháp Eiffel ở Paris, Cầu Tháp ở London, cổ thành La Mã ở Ý, tượng Mãnh Sư ở Thụy Sĩ…cầu Trường Tiền là biểu tượng thể chất nhưng là một dấu ấn tâm hồn thấm đậm mầu son của Huế. Chiếc cầu tự nó đã đẹp như một sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật hiện đại và nghệ thuật truyền thống mang dáng vẻ Đông Tây đã đành; nhưng phong cảnh thiên nhiên kỳ tú làm bối cảnh càng đẹp hơn.  Và hình ảnh áo trắng học trò – một thời và mãi mãi?–ngày hai buổi qua cầu trong hình tượng vật lý và in bóng trên cầu trong hình tượng tâm lý đã biến chiếc cầu thành huyền thoại của những điều có thật.


       Với dòng tiểu sử đời mình dài dằng dặc trong vinh quang hay cay đắng, một người đàn bà có thể sẽ đáng kính hơn, nhưng đồng thời cũng sẽ mất đi sức hút hồn nhiên và đam mê của tuổi xuân thì hơn. Nhưng với một chiếc cầu thì chính dòng lịch sử đó mới là ngôn ngữ thầm lặng của hiện thể đang nói với nhân gian.  Chuyện chiếc cầu không dừng lại trên cầu mà chuyên chở vào tâm hồn cả bóng lẫn hình theo mỗi bước đi từ quá khứ đến tương lai. Không gian và thời gian thường hằng thay đổi, nhưng Cầu Trường Tiền vẫn tâm sự triền miên với những người yêu Huế còn đứng lại bên cầu hay một đời xa xứ.

        
      Không một chút vô tình nhưng rồi tôi cũng cũng phải xa Huế, mang tâm ảnh cầu Trường Tiền mà đi. Chiếc cầu trong tôi bỗng thành một sự hiện hữu vô hình. Những khi buồn và cô độc nhất ở quê người, tôi lại lục lọi ngăn kéo hoài niệm của những ngày vui bên cầu, cố lấy một tâm ảnh bình minh để tự  mình soi mình giữa hoàng hôn và bóng tối. Có khi, cái cầu như một đạo sĩ thần thoại giúp mình hiểu mình; giúp cái ta hiểu cái tôi vì tự bản chất cái “ngã” của chiếc cầu là vô ngã. Chiếc cầu thân ái một cách dửng dưng; không xua đuổi cũng chẳng níu kéo những suối nguồn thổn thức.


        Sống hơn 20 năm trên đất Mỹ, cái nhìn của tôi về chiếc cầu trên quê hương hay quê hương trên chiếc cầu vẫn chẳng có gì thay đổi.  Trong sự thăm thẳm tận cùng của lặng yên, chiếc cầu trong tôi hiện ra nửa như hư ảo mà nửa như rất thật; kết tụ những bến bờ xa lạ và quen thân thành một dãi Ngân hà. Dòng sông trắng phau ấy không vắt ngang vũ trụ mà cũng chẳng ở dưới lòng đất.  Nó ở trong sâu thẳm của tâm hồn. Tôi chợt nhận ra dòng sông đó trong một chiều của “Ngày Mẹ Hiền” (Mother’s Day) cuối mùa Xuân ở California. Tôi có thật nhiều quà nhưng không còn Mẹ.


      Mỗi lần nhớ Mẹ tôi lại nhớ chiếc cầu và nhớ ngọn gió Nồm lồng lộng nắng cuối Xuân quấn quýt bên Cầu. Xa quê hương trên 20 năm, khi tôi thức bên ni thì chiếc cầu bên tê đang ngủ, nhưng lòng tôi vẫn gần với chiếc cầu trong gang tấc:  Tôi vẫn còn Quê hương, còn hơi ấm nắng cuối Xuân và chiếc Cầu trong tâm ảnh.


Trần Kiêm Đoàn



(Nguồn: http://www.hue.vnn.vn/vanhocthica/2005/01/53973/)
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

Tím chi nhiều rứa Huế ơi  



http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/timhue.jpg



     

Tạo hóa sinh ra màu sắc để làm đẹp cho trái đất này. Xanh đỏ đen trắng tím vàng...muôn hồng nghìn tía. Nhưng người ta không phải ai cũng giống ai nên người thì thích màu này, người thì ưng màu nọ. Riêng màu tím Huế thì khi đến Huế trong năm học lớp đệ nhất Quốc Học Huế (1968-1969) tôi mới dần bắt gặp những điều kỳ thú.




      Là một cậu học trò Nguyễn Hoàng Quảng Trị mới vô Huế ban đầu điều chi của Huế cũng làm tôi bỡ ngỡ bắt tôi phải tò mò tìm hỏi. Té ra nữ sinh Đồng Khánh ngày xưa có đồng phục áo dài màu tím. Té ra màu tím tượng trưng cho niềm mộng mơ của độ xuân thì, của lòng thủy chung như nhất với tình yêu muôn nơi muôn thuở. Té ra cô học trò Đồng Khánh mà tôi và bạn bè lẻo đẻo sau lưng theo về mỗi ngày cũng mê màu tím. Nguyễn Cửu Thanh, anh bạn cùng lớp tôi "chỉ điểm": "Cô nớ tên là Tiểu Kiều học lớp đệ tứ Đồng Khánh, nhà trong thành nội. Khi mô trời mưa, trời lạnh là dễ nhận ra cô ta. Vì Kiều thích màu tím nên áo len tím, áo mưa tím, quai nón tím, khăn quàng tím, dép cũng tím...". Tiếp nhận thông tin là tôi tìm cách quan sát và tiếp cận liền. Dịp may đến với tôi vào một buổi sáng khi Thanh phát hiện người mê màu tím đang đứng với một cô bạn trước quán sách Hương Bình trên đường Lê Lợi. Thì ra người ấy đang đứng xâu chiếc dép bị đứt quai. Vốn đã mong có dịp làm quen lại có "máu nghĩa hiệp" nên tôi mạnh dạn mở lời: "Tiểu Kiều đưa mình xâu giúp cho kẻo sắp tới giờ sau rồi!". Trong khi cô học trò tên Tiểu Kiều đang lưỡng lự tần ngần với chiếc dép tím, với sợi chỉ tím dễ thương và cây kim mỏng manh chưa muốn đưa cho chàng trai lạ thì người bạn Tiểu Kiều có bảng tên Bạch Yến giục: "Thôi mi đưa cho họ xâu cho mau". Không ngờ sợi chỉ tím một thời mộng mơ của cô nữ sinh Đồng Khánh ấy sau này lại trở thành sợi "chỉ tím" của ông Tơ bà Nguyệt xe kết đời tôi với cô gái yêu màu tím ấy.


      Từ chuyện riêng tư đó, tôi lần theo những màu tím của hoa bâng khuâng, hoa mua, hoa sim...trên đồi Thiên An, Vọng Cảnh...Màu tím của hoa sầu đông, hoa tầm xuân, hoa cúc, hoa cà, hoa ti-gôn...trong từng khu vườn Huế. Màu tím của hoa tử bạch ở những ngôi chùa Bảo Quốc, Thiên Mụ, Tường Vân...Màu tím của hoa tử vi (còn gọi là hoa phấn thệ hồng) trong đại nội và được khắc trên Cao đỉnh trước Thế Miếu, được hát thành điệu Lý tử vi trong dân ca Huế "tử vi dầu dãi nắng sương, huê cam huê quýt em thương huê nào, em thương huê mận huê đào...". Màu tím của hoa ngô đồng trên Khiêm lăng, bên điện Thái Hòa. Hoa ngô đồng tím ngắt chiều thơm, anh mời em ngắm màu hoa tím. Hiểu nhau rồi tình yêu bất biến, chim phượng hoàng gọi bạn đậu cành ngô. Thời gian gần đây những con đường Huế  lại có thêm màu tím của hoa bằng lăng, hoa phượng tím.


      Màu tím Huế không dừng lại trên các đài hoa. Màu tím Huế còn hòa sắc trong các trạng thái tinh thần, trong tình cảm buồn vui, khổ đau, hạnh phúc. Cùng hòa sắc trong từng khoảnh khắc thời gian, trong mây trời, sông nước Hương Giang, trong y phục, trang sức, ẩm thực Huế...để từ đó màu tím trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho văn nghệ sĩ trên mọi miền đất nuớc xiển dương, ngợi ca bằng nghệ thuật tạo hình, bằng thơ văn, âm nhạc...Đọc Tuyển Tình Khúc Huế Thế Kỷ 20 gồm 100 tác phẩm do Nhà xuất bản Âm Nhạc Việt Nam ấn hành (4. 2002) thì đã có 4 ca khúc có chữ "tím" trong tựa đề như: Tà Áo Tím (Hoàng Nguyên), Màu Tím Huế (Vũ Trọng Tường), Ngàn Thu Áo Tím (Hoàng Trọng-Vĩnh Phúc), Màu Áo Tím Và Màu Áo Trắng (Hoàng Vân) và có 14 ca khúc của các nhạc sĩ sau đây: Thế Bảo, Phạm Trọng Cầu, Dương Đức, Hồng Đăng, Quốc Dũng, Hoàng Hiệp, Trần Hoàn, Lê Việt Hòa, Mai Xuân Hòa, Tôn Thất Lan, Văn Phụng Huy Tập, An Thuyên, Thuận Yến nhắc tới màu tím Huế với các hình ảnh áo tím, mây tím, sương tím, hoa tím, thời gian tím...


      Riêng thơ ngợi ca màu tím của Huế thì không thể nào thống kê cho hết. Nếu có điều kiện để tuyển chọn một tập thơ có những câu thơ hay về màu tím Huế cũng là việc mà các nhà biên soạn nên làm bởi đây cũng là một trong những nét riêng của Huế. Trước năm 1975, khi còn ở Hà Nội tôi thường nghe ba tiếng màu tím Huế. Cái chi mà có màu tím thì người ở đây gọi "màu tím Huế". Màu tím mình thích, người tình mình mê được là "tím Huế" thì sướng biết mấy, vui biết mấy. Tôi cũng thấy ấm lòng trong lúc xa quê. Mới đây thôi, từ Cali nước Mỹ xa xôi, có lẽ vì quá da diết nhớ Huế mà anh Trần Kiêm Đoàn đã thương về tím Huế trong bài thơ "Vàng Thu Tím Huế" với những kỷ niệm, với những hồi ức trữ tình:

Huế vào Thu mà không biết mình Thu
Vì lá đỏ chút vàng mơ ai thấy
Tim tím buổi chiều mai hồng trở lại
Vẫn xanh ngời con nước Vạn Niên...
Tuổi hoàng thành như màu mắt trong đêm
Nghìn phai cũ trang tình đầu chưa giở
Xa Chiêm quốc thuở "ngó tề, dị rứa
Mỏi chân đời còn tím Huế không em?"




      Màu tím của phương trời Huế theo thời gian cứ nhập vào tâm thức tôi trong những lần lang thang cùng Huế. Khi thì lặng thầm sau mái tóc thề của cô gái Huế đường phượng bay đỏ lối em về, chiều nội thành dịu dàng bay áo trắng, dòng Hương xanh chuồn chuồn bay đón nắng, hoàng hôn đầy thoáng tím mây bay. Khi thì một mình thèm gặp bạn trong chiều Vọng Cảnh nâng ly hào sảng đón hoàng hôn, sông Hương xanh mặt trời rực đỏ chợt hòa tím sắc quê hương...và ước mơ những sắc màu thiên nhiên Huế đan quyện vào tâm hồn tình cảm con người những mạch nguồn sinh động rất nhân văn: xanh trong em làn hương dòng sông, đỏ trong tôi ánh trời Vọng Cảnh, tím trong nhau hồn nước thủy chung.


       Tím trong nhau hồn nước thủy chung. Hòa sắc tím một đời tôi tìm thấy. Hòa âm tím một đời tôi tìm nghe. Hương mùa tím một đời tôi ngưỡng mộ...Huế dấu yêu ơi! Tím chi mà tím rứa!



                             

(Võ Quê)



Nguồn: http://www.khamphahue.com.vn/ehue/?catid=vanhoahue&scatid=camnhanhue&nid=367
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Flamingo

Huế để lại ấn tương khó quên không chỉ bởi những tà áo tím mà với bạn là cái nhẹ nhàng, tinh tế của người dân Huế.
Sau khi tôt nghiệp ở Nga về tôi cùng cha đi từ Hà nội vào TPHCM
Dừng lại Huế 3 ngày.
Vào thăm một người quen của cha, môt ngôi nhà cổ đẹp như trong truyện cổ tích, nhưng ấn tượng là bà chủ nhà, vợ của bạn cha. Cụ ông mất đã lâu.
Bà không sắc nước hương trời nhưng với tôi thì bà đẹp.
Từ dáng đi, giọng nói toả ra cái uy quyền của con nhà quý phái nhưng rất đỗi dung dị.
Có lẽ người phụ nữ đẹp là những người như bà. Khi bên cạnh những người phụ nữ như vậy ta thấy nhẹ nhàng, yên bình...
Khi tôi hỏi:
- Cô ơi, bình hoa này có phải thời Thanh không ạ?
Bà quay người theo hướng tôi nhìn rồi quay lại:
-Thưa cậu, không phải cậu à, bình bông này thời nhà Tống.
Tôi đờ mặt. Cách nói này tôi chỉ được đọc trong truyện của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Đời thủa nào một người phụ nữ quý phái thế kia gọi thằng nhóc như tôi là...Thưa cậu.
Đã cuối thế kỷ 20,sắp sang thế kỷ 21, được nghe những câu nói như vậy cứ ngỡ mình lạc về thế kỷ 19.
Bánh bột lọc và bánh nậm (nếu tôi nhớ không nhầm) của bà khiến bạn khó mà quên được
Sau này nhiều lần ăn lại hai loại bánh trên nhưng không thấy lại vị ngon như bánh bà làm.
Bánh bột lọc  mềm mà lại giòn (dùng từ này không biết có đúng không, chắc không đúng) chúng không dai nhách như mấy cái bánh ăn sau này.
Tôm tươi, thịt lợn mềm,bánh nêm vừa không nhạt hay mặn.
Vào Huế mới thấy món ăn Huế đưa lên mâm đĩa nhỏ không to rầm như ngaòi Hà nội.
Bánh cũng vậy, nhỏ xìu. Nhất là bánh nậm. Mỏng tang. Hôm ấy lịch sự ăn dăm chiếc chứ để thả giàn chắc lá bọc bánh chất...đầy bàn.
Để nói về ẩm thực Huế chắc phải để vài trang miêu tả.
Nhân lạc vào đây, ghi lại mấy dòng cảm nghĩ về xứ Huế và cũng xin giới thiệu (giúp):d Nguyệt Thu thêm một chút về Huế.
Theo đúng ...bài bản giới thiệu một thành phố, thì:


Huế


http://www.hanoitravel.com.vn/tieng-viet/tour-trong-nuoc/hue-danang-hoian/img-danang-hue-hoian/hue1.jpg
Cổng Ngọ Môn

Thành phố Huế tọa lạc hai bên bờ dòng sông Hương. Huế nằm ở phía bắc đèo Hải Vân, cách Đà Nẵng 112km.
Thành phố Huế có toạ độ địa lý 16-16,80 vĩ bắc và 107,8-108,20 kinh đông. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Trị, phía Nam giáp thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam, phía Tây giáp nước CHDCND Lào, phía Đông được giới hạn bởi Biển Đông.
Diện tích tự nhiên 83.3 km2, dân số trung bình năm 2003 ước là 350.400 người, chiếm 1,5% về diện tích và 1,5% về dân số so với cả nước .
Huế cách biển Thuận An 12 km, cách sân bay Phú Bài 8 km, cách Cảng
nước sâu Chân Mây 50 km. Mật độ dân số gần 4200 người/km2.Huế là một trong những vùng có nhiều di sản văn hoá. Ðến nay, không còn một vùng nào có một số lượng lớn các di tích mà những di tích này vẫn giữ được hình dạng vốn có của nó như ở cố đô này.

Ở bờ phía  Bắc của sông Hương là một di tích gồm những lâu đài được xây dựng theo kiểu phòng thủ tạo thành một đường vòng cung dài 11km. Công trình quí giá này gồm hơn một 100 tác phẩm kiến trúc, đã thực sự phản ánh được cuộc sống của vua quan nhà Nguyễn. Giữa những quả đồi ở bờ Nam sông Hương là những lăng tẩm rất đẹp của các vua Nguyễn. Trong số đó nổi tiếng nhất là bốn lăng tẩm mà mỗi lăng được biết đến với cái tên phù hợp với tính cách của mỗi vua và kiểu kiến trúc của mỗi lăng. Ðó là lăng Gia Long uy nghi, lăng Minh Mạng oai phong, lăng Tự Ðức thơ mộng và lăng Khải Ðịnh tráng lệ.

Huế đồng thời còn là một trung tâm quan trọng của Ðạo Phật. ở Huế và những vùng lân cận vẫn còn tồn tại hàng chục chùa đã được xây dựng cách đây trên 300 năm và hàng trăm đền, chùa được xây dựng đầu thế kỷ.
Ngoài ra, Huế còn được xem như là nơi bắt nguồn của nhạc cung đình, là nơi có nhiều món ăn truyền thống nổi tiếng và nghề thủ công tinh xảo.

Là thành phố duy nhất trong nước vẫn còn giữ được dáng vẻ của một thành phố thời Trung cổ và nguyên vẹn kiến trúc của một nền quân chủ. Huế đã trở thành một bảo tàng lớn và vô giá. Chính vì vậy, chính phủ đã xếp hạng các di tích ở cố đô Huế như là một tài sản vô cùng quí giá và tháng 12 năm 1993 Huế đã được UNESCO xếp hạng là di tích văn hóa thế giới.

(Theo nguồn http://www.vietnamtourism...com/Hue/v_pages/v_hue.htm )
Họa hổ họa bì nan họa cốt,
Tri nhân tri diện bất tri tâm.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

NanLan

Chị Nguyệt Thu,

Huế đúng là niềm tự hào của mọi người Việt nam chị ạ. Em tuy không sinh ra và lớn lên ở Huế nhưng em cũng rất yêu Huế. Yêu nét cổ kính của Huế, yêu những giọng ca bài hát về Huế. Nhất là khi nhắc đến Huế thì không thể không nhắc đến người con gái Huế với chiếc áo dài dịu dàng duyên dáng. Em là con gái mà còn thích con gái Huế nữa là ....đàn ông.
Em có băng nhạc Huế xưa luôn để trên xe, và em nghe mãi không chán, và mỗi lần nghe lại rất nhớ nhà, có lần tâm trạng chút là còn nước mắt lưng tròng nữa đấy.
Lần nào về Việt nam em cũng muốn vào Huế và Hội An thế mà chưa đi được vì lần nào cũng ít thời gian quá. Thể nào cũng có lần em phải đến thăm "xứ Huế mộng mơ" của chị.
Em rất mong thi thoảng được chỉ kể chuyện về Huế, và xem ảnh của Huế để hiểu thêm về Huế chị ạ.

Chúc chị luôn khoẻ.
Có ai quay lại mùa Thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

@Nam Lan: Cảm ơn em đã ghé vào đây chia sẻ cùng chị những tình cảm ấm nồng về Huế.:x Em là người đầu tiên vào topic này đọc và để lại cảm nhận. Topic này như một chút tấm lòng của chị về quê hương mình. Xin một góc nhỏ ở Thi viện để giới thiệu về một nơi chốn yêu thương, có ai tình cờ ngang qua, ghé lại cũng là hạnh phúc, em à!:)
Mong có một ngày sẽ gặp em ở Huế! :x
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

@Flamingo: Hi hi...NT...vô ý quá! Hóa ra bạn là người đầu tiên ghé vào đây và...có nhời!:P Cơ bản là tại lâu nay quen...cô đơn trong này nên cứ ngỡ...!!!:D Lại thêm cái màu của font chữ làm NT nghĩ là bài của chính mình! Ngó qua cái avatar quen thuộc mới...ớ ra vì...ngạc nhiên!!!:P

Hôm nay vui quá! Có đến hai người bạn vào đây với NT, vậy là có thêm niềm vui và sự tự tin để chăm sóc tiếp cái góc nhỏ này rùi!:x

Thêm chút: FL nhớ về "ấn tượng Huế", "cách nói Huế", "từ dùng cho bánh Huế" đều rất đúng, bạn ạ! Dai và giòn là cái mà các bà nội trợ Huế muốn cho những chiếc bánh lọc mình làm ra được theo "tiêu chí" ấy mà!:)
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyệt Thu

Tiếng ve đầu mùa


Huế đi qua những ngày xuân phân là bước chân vào một mùa hè oi ả. Nắng như hoa phủ ngập trời. Nắng như từ dưới đất nắng lên, hong vàng ngàn chiếc lá xanh. Nắng khiến lòng ai mơ những ngày mưa dịu dàng. Mơ đôi chân trần đi trên những chiếc lá đẫm nước và rùng mình vì cái lạnh tưởng tượng của một ngày giữa đông.


http://i107.photobucket.com/albums/m291/Nguyetthu_2006/2498971407_5f86ec79af.jpg




      Một buổi sáng tôi ngồi cùng bạn bè bên hiên nhà chợt nghe tiếng ve kêu ầm ĩ trên những hàng cây. Có gì trong tiếng ve mà lòng nghe nao nao? Vì đã xa rồi một thời áo trắng, xa rồi hàng phượng vĩ già mỗi năm một lần ra sắc hoa đỏ chói chang. Những cuốn lưu bút viết vội vàng chừ chỉ còn là kỷ niệm bâng khuâng, đã mờ xa những gương mặt của bè bạn một thời. Nhớ. Quên. Nước mắt và nụ cười. Nghe tiếng ve đầu mùa xứ Huế chợt thấy quanh mình đầy ắp những điều đã quên, cố quên mà không thể nào quên được. Thấy lòng tê tái như vừa đánh mất một hạnh phúc lớn lao giữa đời. Không thể quay ngược thời gian để trở lại một cậu học trò, để được trốn học và đi lang thang cùng bạn bè ra bến sông. Nghe tiếng ve kêu mới biết làm người lớn là cơ khổ dường nào.


      Còn nhớ những mùa ve cũ, tôi và bạn bè thường dậy thật sớm làm chiếc cán dài để đi bắt ve ve. Ve bắt được thường bỏ vào bao ni lông hoặc hộp diêm. Những con ve cái không biết kêu được trả lại cho hàng cây, còn những chú ve đực chúng tôi mang về nhà để nuôi và mang lên lớp học. Cũng vì tiếng kêu rỗng rãng cố tình của một chú ve đực trong hộc bàn mà tôi và bạn bè đã hơn một lần bị cô giáo phạt đứng úp mặt vào vách lớp. Lâu lâu lại lén nhìn chiếc hộp diêm có con ve cồ to nằm ở trong. Con ve dường như cũng biết sợ cô giáo, từ lúc bị phát hiện đã không kêu thêm một tiếng nào nữạ..Sau đó thì con ve chết và một đám tang đồ sộ chưa từng có được dành cho con ve cồ bạc mệnh. Chúng tôi rước xác ve đi qua một vườn cây xanh, nơi mà khi còn sống con ve đã ca hát như một sinh linh yêu tha thiết cuộc đời. Mộ ve nằm dưới một gốc cây long não to, bên trên được phủ rất nhiều hoa dạị..Một cái biển nhỏ làm bằng bìa sách cũ cắm bên mộ ve với dòng chữ nguệch ngoạc "Nơi đây yên nghỉ một chú ve cồ". Sau đó, chúng tôi nắm tay đi vòng quanh gốc cây và ca hát hồn nhiên để chờ đợi một mùa ve khác..


     Ở Huế, mùa ve bắt đầu từ rất sớm, kêu lẻ loi tận miệt vườn Kim Long, rồi loang dần, loang dần về phố Huế. Ve thiên đi thành bầy trên những vòm cây, có bầy ve đông đến hàng nghìn con cuốn nhanh như một cơn lốc hình sin, để lại sau lưng ngàn tiếng kêu râm ran như một khúc đồng dao hoành tráng của thiên nhiên. Buổi sáng, rũ sạch muộn phiền, ngồi thảnh thơi ở quán cà phê "Lộng Gió", có thể nghe rất rõ tiếng ve từ bên kia sông đưa về. Tiếng ve nghe xa thường giống như một lời nói thầm, gửi gắm những niềm tâm sự riêng tư. Tôi thường nghĩ rằng, tiếng ve chính là ngôn ngữ của phố Huế. Dù sinh ra chỉ để ca hát, nhưng con ve sầu tầm thường kia đã tận tuy dành hết tâm lực và thậm chí cả sinh mạng của mình để góp chút nhỏ nhoi cho vẻ đẹp phố phường. Trong lời ve có tình yêu cuồng mê của đất, có nỗi đắm say của sương mù và mặt trời, và ở đó có chút cay đắng sinh tử sinh ngắn ngủi củạ..vô thường.


     Có lần ngắm mê mãi hai chú ve sầu trên Cửu đỉnh ở Ðại Nội, tôi thầm biết ơn đôi bàn tay tài hoa của những người thợ đúc đồng Phường Ðúc. Hơn một trăm sáu mươi năm qua, đôi ve sầu uyên ương vẫn ở đó vào mùa hè nghe bạn bè ca hát. Ðôi ve óng ánh màu đồng xanh, đợi ngày mưa không về, đợi ngày nắng không lên. Ðể trong thăm thẳm chiều sâu tâm hồn vốn rất nghệ sĩ của người Huế, tiếng ve ẩn náu như một lời ngụ ngôn cuộc đời. Rằng sống là mang lại niềm vui cho mọi người. Rằng lời ca của chú ve nghệ sĩ là lời tình yêu thiết tha cuộc đời. Rằng con người ta có thể chỉ là cát bụi nhưng lời ca thì còn lại và vĩnh cửu của thời gian. Và tôi muốn nói như một chút lạc đề về Trịnh Công Sơn - anh là con ve sầu khổng lồ của Huế. Dù một ngày sống theo anh cũng chỉ là "góp tiếng mong manh"...


      Trút cả cuộc đời lên tiếng hát. Lấy sinh mệnh để đặt cược cho cái đẹp. Con ve nhỏ nhoi xứ Huế là một nghệ sĩ thứ thiệt, bỏ lại sau lưng mọi nỗi đau để cho đời một khúc ca mi...


(Theo Sưu tập Huế)



Nguồn:http://www.khamphahue.com.vn/ehue/?catid=vanhoahue&scatid=camnhanhue&nid=465
"Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 10 trang (99 bài viết)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối