Trang trong tổng số 6 trang (55 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [2] [3] [4] [5] [6] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

unghoadaphu

HI

Hán Dương cổ thụ soi mình
Bãi thơm Anh Vũ cỏ xinh mượt mà - TVB

- Dùng mấy từ này đắt quá .
doanhdoanh.org
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

dhhuu

Đã lâu không ai vào "Hoàng Hạc Lâu". Vắng quá, như bài thơ !

HUU vẫn thích hai câu dịch thơ :


     Hán Dương sông tạnh cây bày

   Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non


Thật tuyệt bích ! Không hơn được nữa.

                          D H H U U
con chim cất tiếng hót
chỉ khi đậu trên cành
và tiếng hót chỉ cất
cho bầu trời luôn xanh
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phạm Bá Chiểu

Từ thưở sinh viên, mình đã rất thích bài thơ này. Phải nói rằng bài thơ chưa chỉnh lắm về niêm luật thơ Đường, nhưng là bài thơ cô đọng tả cảnh để tả tình, tuyệt diệu vô song. Xin được trình làng bản dịch của mình sau bao tư duy… mong các bạn góp ý nhé. Chân thành cám ơn.
HOÀNG HẠC LÂU

Người xưa cưỡi hạc vàng bay
Để lầu Hoàng Hạc chốn này trơ vơ
Hạc vàng biền biệt nẻo xưa
Ngàn năm mây trắng lững lờ giăng bay
Hán Dương sông tạnh thắm cây
Ngút bờ Anh Vũ dày dày cỏ hương
Quê nhà nhòa bóng chiều buông
Sông dâng khói sóng chạnh buồn tình ai

Bản dịch Phạm Bá Chiểu
Em xinh thế như không là sự thật
Cho anh tin Hà Nội chính thiên đường
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đăng Kiên

Bản dịch Hoàng hạc lâu trong sách giáo khoa:

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây hoàng hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng bay mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương mưa tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

dhhuu

dhhuu sưu tầm thêm mấy bản dịch sau , xin  giới  thiệu.


Hoàng hạc lâu

Người cùng Hoàng Hạc đã về trời,
Còn lầu Hoàng Hạc mãi chơi vơi.
Hạc đi biết đến bao giờ lại
Ngàn năm mây cũ lững lờ trôi!

Hán Dương sông lặng cây soi bóng,
Anh vũ cỏ non tỏa sắc mầu
Chiều buông lữ khách thương quê cũ
Khói tỏa mênh mang...nặng u sầu

                   ThăngLong



Hoàng hạc lâu


Hạc vàng người cưỡi bay đi mãi
Còn lầu Hoàng Hạc ở chốn này
Hạc xưa rồi sẽ không trở lại...
Ngàn năm mây trắng mãi còn bay!

Hán Dương xanh thẳm in bóng nước
Anh Vũ cỏ non tỏa sắc mầu
Sương buông sóng gợn bao sầu nhớ
Cố hương xa lắc phía trời đâu?

               ThăngLong


Hoàng hạc lâu

Hạc cùng người cũ về trời
Còn lầu hoàng hạc chơi vơi chốn này
Biết còn gặp lại một ngày
Ngàn năm mây trắng vẫn bay phiêu bồng

Cỏ non anh vũ in sông
Hán dương thăm thẳm mênh mông một mầu
Chiều buông, lòng khách u sầu
Mịt mờ quê cũ biết đâu mà tìm!

                        ThăngLong
con chim cất tiếng hót
chỉ khi đậu trên cành
và tiếng hót chỉ cất
cho bầu trời luôn xanh
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

dhhuu

DHH vừa tìm được bài viết MỘT BÀI THƠ DỊCH “HOÀNG HẠC LÂU”
CỦA VŨ HOÀNG CHƯƠNG do GS Nguyễn Huệ Chi viết rất tâm đắc. Xin copy vào topic để tham khảo.

         MỘT BÀI THƠ DỊCH “HOÀNG HẠC LÂU”
                CỦA VŨ HOÀNG CHƯƠNG

                                   Nguyễn Huệ Chi

     Bài thơ lừng danh Hoàng Hạc lâu của nhà thơ Trung Quốc đời Đường Thôi Hiệu thì ai mà chẳng biết:

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Bản dịch nổi tiếng của Tản Đà có dễ còn được người Việt biết nhiều hơn:

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Trước Tản Đà, hình như Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục mới là người dịch đầu tiên bài thơ này trên Nam phong tạp chí năm 1923, nhưng có lẽ cái cách hạ một chữ trắc ngang ngược của ông ngay cuối câu đầu vẫn không sao địch nổi giọng tài hoa của “Túy Ông” Nguyễn Khắc Hiếu, nên dần dà người ta đã quên mất bản dịch đi đầu:

                           Người tiên xưa cưỡi hạc vàng cút,
                           Ở đây chỉ những lầu hạc trơ.
                           Hạc vàng đã cút chẳng về nữa,
                           Mây trắng nghìn năm còn phất phơ.
                           Sông bọc Hán Dương cây xát xát,
                           Cỏ liền Anh Vũ bãi xa xa.
                           Ngày chiều làng cũ đâu chăng tá?
                           Mây nước trên sông khách thẫn thờ!1

Sau tiếng vang của bài thơ Tản Đà, tưởng ai cũng đành phải nhường bước, ngờ đâu lại như một kích thích cho nhiều thế hệ kế tục đua tài với ông. Họ không nghe theo Lý Bạch nhắc nhở: “Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc / Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu”; dầu người nào cũng đã một lần đến chiêm ngưỡng và tấm tắc trước lâu đài thơ của sông Đà núi Tản, kẻ trước người sau vẫn cứ muốn thử thách bút lực của mình.         
Có Ngô Tất Tố:

Người xưa cưỡi hạc đã cao bay,
Lầu hạc còn suông với chốn này.
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn,
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay.
Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng,
Xanh ngát châu Anh, lớp cỏ dày.
Trời tối quê hương đâu tá nhỉ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây.

Trần Trọng Kim:
Người đi cưỡi hạc từ xưa,
Đất này Hoàng Hạc còn lưa một lầu.
Hạc vàng đi mất đã lâu,
Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông.
Hán Dương cây bóng lòng sông,
Bãi kia Anh Vũ cỏ trông xanh rì.
Chiều hôm lai láng lòng quê,
Khói bay sóng vỗ ủ ê nỗi sầu.

Trần Trọng San:
Người xưa cưỡi hạc bay đi mất,
Riêng lầu Hoàng Hạc vẫn còn đây.
Hạc đã một đi không trở lại,
Man mác muôn đời, mây trắng bay.
Hán Dương sông tạnh, cây in thắm,
Anh Vũ bờ thơm, cỏ biếc dày.
Chiều tối, quê nhà đâu chẳng thấy,
Trên sông khói sóng gợi buồn ai.
                  Nguyễn Khuê:
Cưỡi hạc người xưa đi đã lâu,
Còn đây Hoàng Hạc chỉ trơ lầu.
Hạc vàng biền biệt từ xưa ấy,
Mây trắng lững lờ đứng mãi sau.
Sông tạnh Hán Dương cây lắng bóng,
Bãi thơm Anh Vũ cỏ tươi màu.
Chiều buồn quê cũ nơi nào nhỉ?
Khói sóng trên sông giục khách sầu.

Khương Hữu Dụng:
Ai cưỡi hạc vàng đi mất hút,
Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này thôi !
Hạc vàng một đi đã đi biệt,
Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi.
Sông tạnh Hán Dương cây sáng ửng,
Cỏ thơm Anh Vũ bãi xanh ngời.
Hoàng hôn về đó, quê đâu tá ?
Khói sóng trên sông não dạ người.
Bút tích bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Vũ Hoàng Chương ( nguồn GS Huệ Chi )
Vân vân...
Đặc biệt, trong số người không ngại “vận bút” để làm cái chuyện “dịch là diệt” có cả thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Bài thơ dịch của họ Hoàng cũng đã nhiều người biết, tuy chưa phổ biến thật rộng. Một cách dịch thoát sáo, tưởng xa nghĩa nhưng lại lắng đọng được thi vị, và nhất là có những ẩn ngữ đầy “tâm trạng” không kém gì tiếng lòng của nhà thơ họ Thôi:

Xưa hạc vàng bay vút bóng người,
Đây Lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi.
Vàng tung cánh hạc đi đi mất,
Trắng một màu mây vạn vạn đời.
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu,
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi.
Gần xa chiều xuống đâu quê quán?
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!

         Sao lại cô đơn đến mức “Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi”? Và ai là “cánh hạc vàng” trong con mắt thi nhân mà “Vàng tung cánh hạc đi đi mất”? Ai khiến cho thi nhân sầu nhớ như chực vỡ òa nước mắt trong câu thơ cuối cùng? Tôi cứ thắc mắc mãi mà không giải đáp được cho mình. May mắn gần đây được bạn Đặng Tiến ở Pháp gửi cho một tấm hình chụp lại nguyên thủ bút của Vũ Hoàng Chương:
         Thì ra, không biết bài thơ được dịch từ bao giờ nhưng đích thân họ Vũ đã chép nó vào ngày 6 tháng 12 năm 1975, tặng người bạn vong niên đang ở quá xa là nhà bình thơ Đặng Tiến. Gần sát cái Tết dương lịch năm 1976, người thơ da diết nhớ bạn và đặt mình vào hoàn cảnh bạn khi ngồi trên bờ một con sông xứ người nào đấy chắc cũng rất đơn chiếc mà nhớ thương về cố quốc: “Gần xa chiều xuống đâu quê quán / Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!”. Ngôn từ bài thơ dịch quả gợi cảm hứng tuyết lạnh một buổi chiều hửng nắng ở Âu Tây. Tuy nhiên... chợt đọc lại ngày tháng chép thơ. Ôi, ngày 6 tháng 12 năm 1975. Tôi cũng ở Sài Gòn đúng trong những ngày đó. Một mùa đông lạnh hơn hẳn những mùa đông khác của phương Nam nắng ấm. Còn nhớ đêm nằm trong nhà người bà con ở 362 đường Hòa Hảo, đắp một chiếc chăn dạ mà vẫn rét run không ngủ nổi. Không chỉ thế. Tôi đã đến chơi nhà nữ sĩ Mộng Tuyết trên đường Nguyễn Minh Chiếu, nơi cách đó ít lâu gia đình Vũ Hoàng Chương tạm cư ngụ. Tôi biết lắm, ngày này, thi nhân và dịch giả Vũ Hoàng Chương cùng khá nhiều trí thức Sài Gòn cũ đang sống trong tột cùng thấp thỏm, chưa rõ trắng đen về thân phận của mình. Cái tết năm đó - năm Bính thìn 1976 - ông có bài Vịnh bức tranh gà lợn:
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành,
                                   Gà lợn, om sòm rối bức tranh.
                                   Rằng vách có tai, thơ có họa,
                                   Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh.
                                   Mắt gà huynh đệ bao lần quáng,
                                   Lòng lợn âm dương một tấc thành.
                                   Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn,
                                   Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.

Đã từng sống trong không khí cải cách ruộng đất đợt V hồi 1955 ở Khu IV, tôi thấu hiểu nỗi sợ đến khủng khiếp về một cái gì không ra ngô ra khoai, “Sáng chưa sáng hẳn tối không đành”, về sự chờ đợi trong nặng nề khắc khoải, phải đếm từng giây phút một cho bớt cô đơn lạnh lẽo mà Vũ Hoàng Chương từng sống. Tôi cũng đã chứng sống cái nỗi niềm rất khó bộc bạch: “Lòng lợn âm dương một tấc thành” của gia đình mình. Một tấc thành mà không biết tỏ cùng ai, vì chẳng biết “lòng ai đỏ mắt ai xanh” (một tấm lòng đỏ và một con mắt xanh đối với người nghệ sĩ mới cần thiết làm sao!) nên nhìn đâu cũng lấm lét, làm gì cũng ngó trước ngó sau: “Rằng vách có tai, thơ có họa/tai họa”. Đúng là những ngày ấy Vũ Hoàng Chương đang như Từ Thức ngay chính trên quê hương xứ sở của mình. Phải: “Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu / Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi”. Chỉ có ông với một mình ông.
         Cảm thán cho Vũ Hoàng Chương thì cũng chỉ là vô ích vì ông đã là một cánh hạc vàng đi mất đến ba mươi năm có lẻ rồi. Chi bằng hãy bắt chước ông,  vắt óc trước bài thơ của chàng Thôi Hiệu để “thôi xao” ra những vần dịch mới. Tôi đã gắng làm như thế, cũng xin coi là một bài thơ tặng những người bạn xa - rất xa ở Mỹ ở Âu - trong đó có Đặng Tiến:

Hạc vàng người trước cưỡi đi rồi,
Lầu trống còn tên Hoàng Hạc thôi.
Một thuở hạc vàng không trở lại,
Nghìn năm mây trắng vẫn đang trôi.
Hán Dương cây đứng soi sông sáng,
Anh Vũ cỏ non biếc bãi bồi.
Chiều tối quê hương nhìn chẳng thấy,
Trên sông khói sóng dạ bồi hồi.
                                          Hà Nội 21-1-2007
con chim cất tiếng hót
chỉ khi đậu trên cành
và tiếng hót chỉ cất
cho bầu trời luôn xanh
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

hsg

Hoàng hạc  lâu trong hoàng hôn

Lầu Hoàng Hạc - dịch Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu

 Hạc vàng ai cưỡi đi đâu mất?
       Hoàng Hạc lầu trơ đứng mãi đây 
 Hạc vàng một đi không trở lại
     Mây trắng ngàn năm vẫn cứ bay
         Hán Dương cây sáng bờ sông tạnh
 Anh Vũ bãi thơm biếc cỏ dày
      Chiều xuống quê nhà đâu tá nhỉ?
      Trên sông khói sóng nát lòng ai !
Aum mani padme' hum!
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

khách

Thiềng Đức đã viết:
-Copy từ w.hst về...
--------------------
-LÝ BẠCH tiển MẠNH HẠO NHIÊN
Do có một số ít Thi hữu nhầm lẫn bài này với bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu rất nổi tiếng mà có giai thoại là Lý Bạch, sau khi đọc bài HHL của TH, có ý kiến là sẽ không viết thơ về HHL vì TH viết quá hay rồi.

Tựa trên do Ngô Tất Tố dịch như sau:
Bạn từ Lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói(1) Châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời...
(1) Tháng ba, nhiều sương khói.

Nguyên văn bài thơ của Lý Bạch.
HOÀNG HẠC LÂU tống MẠNH HẠO NHIÊN chi quảng lăng
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viển ảnh bích không tận
Duy kiến Trường giang thiên tề lưu.

THIỀNG ĐỨC xin dịch
Bạn thân rời bước từ Lầu Hạc
Tháng ba sương khói khắp Dương Châu
Bóng buồm xa khuất mờ nhân ảnh
Bên trời chỉ thấy dòng sông sâu...

-TĐ học lỏm bỏm Hán Nôm nên chỉ viết theo các bài dịch nghĩa.
----------------------
-Nếu cháu Đlh thấy có nguyên tác thì xin bổ sung giúp...
Hihi Khách cũng xin dịch lại như sau, xin các cụ đại xá

Tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng tại lầu Hoàng Hạc
tác giả: Lý Bạch
dịch bậy: khách

"Bạn cũ rời lầu Hạc lên đường
Tháng hoa khói nước đi châu Dương
Buồm đơn xa khuất bầu trời biếc
Chỉ thấy ngàn năm dòng sông Trường"


Thêm một phát, có gì mấy cụ bỏ quá cho

TẢO PHÁT BẠCH ĐẾ THÀNH – LÝ BẠCH


Triêu từ Bạch Đế thái vân gian
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trú
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.


Dịch:

Sớm rời Bạch Đế giữa sương mây
Ngàn dặm Giang Lăng tới một ngày
Đôi bờ tiếng vượn kêu chẳng dứt
Nhẹ thuyền lướt lướt trập trùng non.
Thế nhân bất giải Thanh Thiên ý
Không sử thân tâm bán dạ sầu
              (Kích Nhưỡng thi)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hà Như

./.
Đã xoá
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tiểu hài nhi

có câu dịch là diệt. Chưa tính đến chuyện ngôn ngữ khác nhau thì từ ngữ cũng mang nhưng sắc thái ý nghĩa khác nhau, mỗi người khi dịch cũng lồng vào trong đó chút tâm sự của mình. Tác giả để lại những vần thơ bất hủ, đời sau mấy ai thoả mãn với bản dịch hay chưa? Văn mình vợ người mà. Có lẽ yêu thích thì cố gắng hiểu bài thơ nguyên bản nhỉ?

Tiểu hài nhi đọc cũng thấy buồn buồn, chém gió mấy câu góp vui với các thúc bá huynh đệ tỷ muội.

Người xưa cưỡi hạc vàng đi mất
Hoàng Hạc lâu hiu hắt còn đây
Một đi hạc bỏ chốn này
Ngàn năm mây trắng còn bay bay hoài
Hán Dương tạnh cây soi sông mát
Anh Vũ bồi hương ngát cỏ xanh
Quê đâu khuất bóng tịch dương
Trên sông khói sóng buồn vương vấn lòng
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 6 trang (55 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [2] [3] [4] [5] [6] ›Trang sau »Trang cuối