Khổng Minh nhìn xem ai thì là Trình Đức Khu ở Nhữ Nam liền nói:
- Nho cũng có Nho quân tử, cũng có Nho tiểu nhân. Nho Quân tử thì trung vua yêu nước, giữ chính, ghét tà, chuyên làm những điều lợi ích chung, tiếng để đời sau. Còn như loại Nho tiểu nhân thì chỉ cặm cụi văn chương miệt mài nghiên bút; còn trẻ thì làm phú, đầu bạc thì đọc kinh, dưới bút dầu có nghìn lời, trong bụng không được một mẹo. Xem như Dương Hàng, văn chương có tiếng một đời mà khuất mình đi theo Vương Mãng rồi cũng đến đâm đầu xuống lầu mà chết. Thế gọi là Nho tiểu nhân, dẫu ngày làm nghìn câu thơ cũng có ích gì đâu.
Trình Đức Khu cũng ứ cổ nốt.
Chúng thấy Khổng Minh ứng đối như nước chẩy, cũng sợ mất vía. Lúc đó còn có hai người là Trương Ôn, Lạc Thống sắp vào muốn hỏi. Bỗng bên ngoài có một người chạy vào quát to lên rằng:
- Khổng Minh là bậc anh tài đời nay, các người lấy môi mép vặn người ta, đó không phải là kính khách. Đại quân của Tào Tháo đã đến bờ cõi, tìm kế chống giặc chẳng tìm, cứ ngồi đấu khẩu như thế ích gì?
Các tướng nhìn xem ai, thì là Hoàng Cái biểu tự Công Phúc.
Sau khi Gia Cát đè bẹp phe chủ hàng, Tôn Quyền lòng đã muốn đánh nhưng vẫn chưa quyết. Quyền cho người mời Chu Du lại thương nghị. Chu Du quyết định nghênh chiến. Du đề ra 3 điểm chiến mà Đông Ngô có khả năng thắng lợi.
1- Tào Tháo cần phải thực hiện một cuộc chiến tranh tốc quyết vì Mã Siêu, Hàn Toại vẫn là mối lo sau lưng của Tào Tháo.
2- Nhân dân Kinh Châu chưa hoàn toàn qui phục họ Tào.
3- Giữa mùa đông lương thảo khan hiếm, khí hậu cũng không hợp với quân Bắc phương.
Quyền thấy Chu Du cương quyết như thế mới cầm kiếm chém xuống đất ra lệnh cấm bàn chuyện đầu hàng.
Binh lực đương thời của hai bên rất so le. Bắc quân riêng lực lượng Tào Tháo đã có ngót hai mươi vạn, cộng thêm bẩy tám vạn quân Kinh Châu.
Bên Đông Ngô, quân Lưu Bị có một vạn, quân Lưu Kỳ một vạn, quân Chu Du, Trình Phổ chừng hai vạn, Lỗ Túc thâu thập được thêm một vạn. Như vậy là một chọi sáu!
Trận đánh lớn nhất xẩy ra ở huyện Gia Ngư, khu vực Xích Bích. Kết quả Tào Tháo đại bại phải rút lui và lưu Tào Nhân chống giữ ở Giang Lăng. Chu Du thừa thắng đánh tràn. Tào Nhân phải bỏ Giang Lăng mà chay. Cả một giải lưu vực trường giang mất hẳn tung tích Bắc quân. Hình thế Nam Bắc phân lập bắt đầu từ đó.
Trận Xích Bích phá vỡ tan tành kế hoạch thống nhất toàn quốc của Tào Tháo, ổn định địa vị Tôn Quyền ở Giang Nam, đồng thời cũng tạo cho Lưu Bị cơ hội lấy bàn đạp Kinh Châu tiến vào Ích Châu, từ chỗ vẫn đi nương nhờ người khác, đến chỗ có một thế lực riêng biệt lớn mạnh. Trận Xích Bích thực là then chốt cho sự hình thành của cái thế chia ba chân vạc.
Chu Du
Độc giả Tam quốc thường nhìn Chu Du là một nhân vật tuổi trẻ tài cao, nhưng tính khí bồng bột, hẹp hòi ghen ghét.
Lối nhìn đó là bởi ảnh hưởng của Tam Quốc Chí diễn nghĩa qua câu chuyện đấu khí giữa Chu Du và Gia Cát Lượng. Du thua, tức đến nỗi thổ máu mà chết, lúc sắp chết Du có than rằng: “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?”.
Thật ra Chu Du là con người rất có tu dưỡng, nhiều mưu trí và tính tình khiêm cung hoà nhã.
Tôn Quyền đặt ngôi vị Chu Du ở trên lão tướng Trình Phổ, Phổ không bằng lòng, thế mà Chu Du đã đem độ lượng và tài cán của mình khuất phục được Trình Phổ. Phê bình về Chu Du, Trình Phổ đã phải nói: Giao du với Chu Công Cẩn như uống rượu ngọt, say lúc nào không biết.
Nhưng chỉ có hai người thời đó đánh giá nổi Chu Công Cẩn là Tào Tháo và Khổng Minh. Cho nên ở trận Xích Bích cả Gia Cát Lượng và Tào Tháo đều ra sức tranh thủ Chu Du. Gia Cát thì vận dụng Lỗ Túc, Tào Tháo thì vận dụng Tưởng Cán.
Chu Du chết sớm, ảnh hưởng tai hại cho cục diện ba nước không nhỏ. Thiết tưởng Tôn Quyền có tiếc Chu Du mà nói: “Ta mất Chu Du thì nghiệp đế của ta cũng hỏng” thì cũng không lấy gì làm quá đáng.
Lỗ Túc
Lỗ Túc đáng kể như một nhân vật khả ái nhất Tam quốc.
Tử Kính tuy không có những biệt tài nổi bật như Cố Ung, Tưởng Uyển, Tuân Úc, nhưng ông cũng rất thông hiểu chính trị, ngoại giao, quân sự và rất cẩn trọng mỗi khi áp dụng định kiến của mình. Thêm nữa Lỗ Túc là người có phong độ, trung, dũng, trí, kiệm, có tu dưỡng nhân nghĩa lễ tín.
Căn cứ vào tình thế đương thời mà bàn thì chủ trương Ngô Thục liên minh của Lỗ Túc thật chính xác. Thâm ý trong đường lối liên minh với Thục của Lỗ Túc là: “Gây cho Tháo nhiều kẻ địch, để xây dựng thêm vây cánh cho Đông Ngô”. Bởi vì so sánh với lực lượng Nguỵ và lực lượng Đông Ngô thì Nguỵ thừa sức nuốt sống Đông Ngô, nếu không có những lực lượng khác khiên chế Nguỵ.
Thế chia ba chân vạc do Lỗ Túc đóng góp một phần cực to tát. Ông dám khuyên Tôn Quyền cho Lưu Bị mượn Kinh Châu để làm tư bản chính trị. Giả thử Tôn Quyền không nghe Lỗ Túc, đương nhiên không có nước Thục. Giả thử Lưu Bị không kiến tạo nổi Thục thì liệu Đông Ngô có đứng vững nổi với Nguỵ chăng?
Tôn Quyền phê bình Lỗ Túc nói:
- “Khuyên ta cho Huyền Đức mượn Kinh Châu là chỗ kém nhất của Tử Kính”. Nói như vậy, Quyền chỉ nghĩ đến cừu địch là Thục mà không kể chi đến Nguỵ, chỉ nghĩ đến bực bội trước mắt mà không tưởng đến hiểm hoạ xa.
Trí lực ngắn ngủi của Tôn Quyền cũng như mấy võ tướng Quan Vũ và Lã Mông đã gây thành đường lối ngoại giao đổ máu, trái ngược với lòng mong mỏi của Tử Kính, không ngừng dàn xếp để các cuộc quyết đấu giữa Ngô – Thục không xẩy ra.
Tại Đông Ngô, duy Chu Công Cẩn mới nhận nổi giá trị của Lỗ Túc, cho nên lúc Du sắp mất, Tôn Quyền hỏi Du, ai khả dĩ thay thế. Chu Du nói: “Lỗ Túc là người trung liệt, lâm sự không cẩu thả”. Đề nghị cho Lỗ Túc thay mình, chứng tỏ Chu Du cũng là người rất nhiệt thành với đường lối ngoại giao liên kết với Thục lắm. Riêng lời ấy đủ lột hết sắc thái con người Lỗ Tử Kính.
Cố Ung Bất cứ đường lối chính trị nào, hình thế chính trị nào đều liên hệ với một quyền lực thống trị thì mới mong lâu dài, bền vững.
Thời Tam quốc, Nguỵ, Ngô, Thục do đường lối chính trị khác nhau, hình thể chính trị khác nhau, nên quyền lực thống trị cũng sai biệt.
Nước Nguỵ quyền lực thống trị để bình định một tình trạng đã hỗn loạn đến cực độ nên phải áp dụng đạo hình danh của pháp gia, phải có những biện pháp mạnh, thủ đoạn nhiều trí thuật hơn từ ái nhân nghĩa.
Nước Thục vì dân tình hiểm ác, nên quyền lực thống trị tuy chủ trương nhân nghĩa nhưng cũng không thể không dùng đến đường lối mãnh liệt của pháp gia. Ở đây quyền lực thống trị mang tính chất “pháp đa nho thiểu”, “pháp nho kiêm dụng”. Nước Ngô nhờ địa lý phì nhiêu, dân tình khoan hậu, nhờ tâm lý nhất trí để chống đối với dị tộc của dân chúng, nên quyền lực thống trị ở đây chỉ cần một chính sách thi hành nhân ái, khoan hình giảm chính, tóm lại Đông Ngô thuần dụng đạo trị của nho gia để ổn định xã hội. Xã hội Đông Ngô bấy giờ so với các khu vực khác đáng gọi là thiên đường.
Công lệnh áp dụng trị đạo của nho gia ở Đông Ngô của ai?
Của Tôn Quyền?
Không đúng.
Của thừa tướng Cố Ung đó.
Lịch sử tuy không chú ý mấy đến ông, thậm chí còn xếp Cố Ung đừng hàng dưới Trương Chiêu một bậc. Chuyển sang diễn nghĩa thì những người như ông không có chuyện lạ gì để nhà văn miêu tả hấp dẫn thì lại càng bị lu mờ hơn.
Thực ra đối với Đông Ngô, Cố Ung là người có công lao lớn nhất. Sở dĩ ông gần như bị quên lãng là vì chức vị của ông là chức vị thủ tướng hành chính, trong khi đương thời Tam quốc chỉ trọng những tranh phong chính trị, quân sự.
Tôn Quyền tuy không có đại bản lĩnh, nhưng ở địa vị lãnh tụ. Sở trường của Quyền ở chỗ: Biết dụng người, biết tin và biết phân phối. Quyền rất nể Cố Ung, nhận thấy ở Ung một tài năng xuất chúng về nội chính nên giao phó trách nhiệm này cho Ung tới 19 năm trường.
Hoàng Vũ tứ niên, Cố Ung từ giã mẹ già đi nhận lãnh chức vụ, Quyền ra tận ngoài tiếp đón, rồi lại gọi Thái tử tới lậy chào, trong khi Trương Chiêu tuổi lớn, tiếng xa mà Chiêu không được Quyền dùng ở ngôi vị này. Tại sao?
Tại Quyền nhận thấy Chiêu khí lượng hẹp hòi hay câu nệ câu chấp, một lần Quyền và Chiêu xích mích. Trương Chiêu cáo ốm không đến chầu. Tôn Quyền hối hận đến tạ lỗi, Chiêu cũng không ra, đến nỗi Quyền phải sai người đốt nhà Chiêu mới chịu ra. Do đó nhiều lần, mọi người khuyên Quyền đặt Chiêu vào ngôi vị Thừa tướng Quyền đều lờ đi. Khi thừa tướng Tôn Thiệu chết, mọi người lại đề cập đến Trương Chiêu thì Quyền từ chối khéo: “Bây giờ đương lúc gay go, chức cao thì trách nhiệm thêm nặng, lão thần đã già không nên phiền nhiễu ông ta làm gì”.
Cố Ung đủ sở trường của Trương Chiêu, nhưng Ung hơn Chiêu ở điểm không có những sở đoản như Chiêu. Ung cương trực mà ý khí không loạn, nói thẳng, ưa điều hợp lý, mà vẫn giữ được thái độ khiêm nhượng, hoà nhã, luận đoán, kiến giải nhất nhất đều chính xác, đối xử với người rất chân thành.
Ở chức Thừa tướng, tất phải có phong độ đại thần, công bình, dung hợp, tầng trên điều chỉnh trăm quan, tầng dưới yêu mến bảo vệ trăm họ.
Những điều Trần Bình nói về trách nhiệm tể tướng, đại thần:
- “Trên thì phò thiên tử, điều hoà âm dương, thuận tứ thời, dưới thì nuôi vạn vật cho no đủ, sử dụng cho đúng mức, ngoài thì chấn áp tứ di, trong thì vỗ về trăm họ”. Cố Ung đều có cả.
Cố Ung bao giờ cũng dùng nhân chính. Lần Tôn Quyền đi khảo sát dân tình, Cố Ung đã thảo cho Quyền một tờ lệnh như sau:
- “Nạn binh đao đã lâu ngày, khiến cho dân gian bê trễ việc ruộng nương cày cấy, chồng con bố mẹ không đủ nuôi thương nhau, ta rất lấy làm buồn. Nay giặc đã tạm yên, bên ngoài không có gì lo ngại, vậy truyền cho dân chúng ai về nhà nấy mà nghỉ ngơi, tiếp tục canh nông, phụng dưỡng tôn tộc”.
Năm Xích Ô thứ ba, Cố Ung lại thay Tôn Quyền thảo chiếu lệnh:
- “Vua không có dân không lập, Dân không thóc gạo không sống. Gần đây dân bị phiền nhiễu vì binh dịch nên thóc không sinh sản nhiều. Thêm nạn quan tham lại nhũng chiếm đoạt của dân, khiến dân càng cùng khổ. Nay ra lệnh: bất cứ kẻ nào làm việc phi pháp đều gia tội nặng”.
Nhờ Cố Ung, Tôn Quyền chẳng còn phải lo gì đến hậu phương nữa.
Luận về Tôn Ngô
Cục thế Tam quốc, Tôn Ngô chiếm toàn bộ Giang đông. Địa bàn Giang đông hẹp hơn Nguỵ, tốt hơn Thục. Nhân tài Giang đông không thiếu. Thế mà thanh thế Giang đông không lúc nào vượt nổi khu vực mình, suốt bao nhiêu năm chỉ đứng địa vị cố thủ là cớ sao?
Trước hết, Giang đông ngoài đường lối chính trị thu hẹp trong khu vực, không có hiệu triệu chính trị đại thể. Khác với Thục, mỗi lần xuất sư phạt Nguỵ đều dùng danh nghĩa “Hán tặc bất lưỡng lập, vương nghiệp bất thiên an”.
Một lần Tôn Sách tính chuyện xuất binh phát triển thế lực quá giang lên miền Bắc, chẳng may việc chưa thu xếp xong Sách đã bị bộ hạ của Hứa Cống giết chết.
Lỡ cơ hội, từ đó về sau, chính trị Đông ngô rơi hẳn vào thế thủ. Thêm nữa thế thủ Đông Ngô phần lớn cũng tại người lãnh đạo, nó đã rõ ràng ngay lúc Tôn Sách giao phó quyền bính cho Tôn Quyền, Sách nói:
- “Vận dụng dân chúng Giang đông để quyết cơ chốn trận địa thì Quyền không bằng ta. Nhưng cử người hiền, dùng người tài khiến ai cũng tận tâm tận sức bảo vệ Giang đông thì ta không bằng Quyền”
Xét về nhà họ Tôn, riêng Tôn Sách rộng tầm mắt hơn cả. Tôn Quyền kém Tôn Sách rất xa, bản chất chính trị của con người Tôn Quyền là: “khuất thân nhẫn nhục, nhiệm tài đương kế”. Quyền chỉ biết thu vén tính toán hẹp hòi, không có cái phóng dật thiên tài của Khổng Minh và cái say sưa tàn bạo già dặn của Tào Mạnh Đức.
Đối ngoại, Tôn Quyền biết khuất thân nhẫn nhục nhưng đối với chính sự nội bộ, tâm tính Tôn Quyền lại khác hẳn, nó chỉ mang khí chất một thanh niên con nhà nuông, với tác phong bồng bột, khinh thị, kiêu căng thừa tự của Tôn Kiên, Tôn Sách. Cho nên Tôn Quyền chỉ vì nóng nẩy hờn dỗi mà bốn phen lập tự, tạo thành những rối ren phiền nhiễu không đâu.