Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [84] [85] [86] [87] [88] [89] [90] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

Thời Xuân thu, bình dân quật khởi mới chỉ là thiểu số, tới Chiến quốc thì quí tộc, thế khanh lần lượt nhượng vị cho các du sĩ văn học. Phong khí tư tưởng tự do đi đôi với tình thế chiến tranh đã tạo nên những hiện tượng sử sĩ hoành nghị, và bố y khanh tướng, (áo vải lên khanh tướng).

Trước đấy, thế lực bọn thế khanh quí tộc đã bị lung lay vì những tư tưởng Khổng, Mặc. Bây giờ lại thêm tự do kinh tế khiến phần tử trí thức không còn phải sống bám quí tộc nữa, càng làm cho khí thế phần tử trí thức to lớn hơn.

Thời Chiến quốc, các ông vua vì đều có chung một chính sách đối nội: tước trừ thế lực quí tộc, đối ngoại thì hùng cường với các nước khác, cho nên phải dựa vào các lực tân hưng, bằng cách chiêu hiền nạp sĩ, chỉnh đốn học thuật. Nhờ vậy mà các học thuyết dấy lên, trăm hoa đua nở. Sinh thời, Khổng Tử thất bại với 72 ông vua, thì ở Chiến quốc các người chịu tư tưởng của ông nhất nhất đều được trọng dụng. Tỉ dụ như: thầy Tử Hạ được Nguỵ Văn Hầu bái kiến. Lỗ Mục Công dùng Tử Tư và Công Nghi Thể. Hàn quốc dùng Thân Bất Hại. Tề Uy Vương trọng đãi Tôn Tẫn, Sô (Trâu?) Kỵ v.v.. Thời Chiến quốc có thể gọi là thời kỳ của phần tử trí thức bình dân.

Phần tử trí thức đời Tần
Sáu nước suy tàn hấp hối chờ Tần thôn tính. Tình hình chính trị nhu yếu một quyền lực chặt chẽ thống nhất. Dĩ nhiên, không khí “đua nhau lên tiếng” của chư tử trên lãnh vực tư tưởng trở nên một vật chướng ngại to tát cho công cuộc kiến lập quyền lực kia. Chính các học gia cũng hô hào thống nhất tư tưởng. Nhóm Lã Bất Vi mở đầu vận động này. Môn khách trí thức nhà họ Lã thảo luận và trước tác cuốn Lã thị Xuân thu. Sách Lã thị Xuân thu tung hợp nhiều phái tư tưởng khác nhau, gồm 26 thiên pha trộn nào Pháp gia, Mặc gia, Nho gia, Đạo gia v.v. Tỉ dụ: Thiên “Quý sinh” và “Vô tư” gốc ở Nho gia, thiên “Thượng hiền”, “Kiệm táng” gốc ở Mặc học v.v..

Nhưng sách Lã thị Xuân thu không được Tần Thuỷ Hoàng ưa. Một phần vì Lã thị Xuân thu chưa đáp ứng đúng với nhu yếu chính trị mới. Một phần vì Tần Thuỷ Hoàng thù hận Lã bất Vi. Về sau Tần Thuỷ Hoàng hưởng ứng tư tưởng Hàn Phi, bèn giải tán học phái họ Lã, đầy Lã bất Vi sang Thục, tại đây Lã bất Vi uống thuốc độc tự tử.

Hàn Phi là một nhà tư tưởng thuộc phái Pháp gia. Tư tưởng Hàn Phi chịu ảnh hưởng của pháp thuật của Thân Bất Hại, Thương Ưởng, lý luận và khí chất của Tuân Tử, hành động của Lão. Lão học kết hợp với pháp thuật liền biến chất mà thành một thứ hư vô chủ nghĩa. Hàn Phi chủ trương:

a- Không nói chuyện nhân nghĩa, không nghe lời bọn học giả.
b- Lấy pháp để răn dạy, lấy lại làm thầy, lấy chém đầu làm dũng.
c- Lấy công dụng và kinh nghiệm làm tiêu chuẩn chân lý.
d- Chống lại thuyết chuộng hiền của Nho, Mặc, coi Nho, hiệp, thương, công như bọn du thực.
e- Đốt thi thư để làm sáng pháp lệnh, đề cao nông chiến.

Chủ trương của Hàn Phi được Tần Thuỷ Hoàng áp dụng đã khiến cho phần tử trí thức gặp một phen khốn đốn. Mặc dầu Tần Thuỷ Hoàng nghe Lý Tư giết Hàn Phi, nhưng chính sách Hàn Phi vẫn tiếp tục.

Sự kiện đốt sách chôn nho chính là kết quả tất nhiên của xung đột giữa phần tử trí thức với chính sách Hàn Phi đem thi hành bằng vũ lực.

Các nhà nho bị buộc phải từ bỏ lý luận và đọc sách. Muốn học thì đến thụ huấn ở bọn lại, muốn đọc sách chỉ độc có hai loại sách bói toán. Nho phái liền ẩn lý luận Dịch vào sách bói toán để phát huy tư tưởng.

Phần tử trí thức lật đổ nhà Tần
Đối đãi với phần tử trí thức, Tần Thuỷ Hoàng dùng hai chính sách:
1- Tiêu diệt bằng vũ lực và
2- Tiêu diệt bằng dụ dỗ.

Tiêu diệt tư tưởng bằng vũ lực dĩ nhiên là một điều không thể làm được. Tiêu diệt phần tử trí thức bằng dụ dỗ thì chỉ đem lại hiệu quả phần nào thôi. Đa số phần tử trí thức không bị lay chuyển bởi Danh, Lợi, Uy như vua Tần vẫn lầm tưởng.

Dưới triều Tần, trí thức tản mạn vào đồng ruộng, núi rừng để truyền bá tư tưởng phản Tần. Từng nhóm, từng nhóm nổi lên như: Phạm Tăng, Hoàn Sở, Sương Hải Quân, Hoàng Thạch Công, Trương Nhĩ, Trần Dư, Điền Hoành, Khoái Thông v.v..

Những vận động tư tưởng chuyển thành đấu tranh vật chất nhóm lên bằng mũi chuỳ của Trương Lương, rồi đến Trần Thiệp khởi sự.

Phần tử trí thức giao thời Tần-Hán
Cuối Chiến quốc phần tử trí thức tụ tập ở nước Tần, giúp cho Tần kiêm tính thiên hạ, Tần thi hành bạo chính, trí thức thoái về dân gian vận động chống Tần.

Như vậy trí thức đời Tần chia làm hai phái:
- Phái nắm chính quyền.
- Phái dựng thế lực bên ngoài chống chính quyền.

Vận động phản Tần mạnh lên thì phần tử trí thức tại triều cũng bắt đầu tan rã. Sự tan rã này phân định làm ba loại:
- Giao động nên nghĩ cách tự tư, tự lợi như bọn phương sĩ Lư Sinh, Từ Phúc lừa tiền bỏ trốn.
- Do tranh chấp quyền thế bị đào thải như bọn Lý Tư.
- Hưởng ứng Cách mạng như nhóm Tôn thúc Thông, Trương Lương, Tiêu Hà.

Các thế lực trí thức chống chính quyền tuy rằng có sự chia rẽ giữa Nho đạo và đạo Hoàng Lão, nhưng chỉ là sự chia rẽ trên học thuật thôi, không đưa dẫn đến chia rẽ chính trị phản Tần.

Vận động phản Tần đã ghi một thành tích tuyệt đích cho lịch sử đấu tranh của phần tử trí thức bình dân là: từ khanh tướng áo vải chuyển lên Hoàng đế áo vải.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Phần tử trí thức đời Tây Hán

Lưu Bang vốn không phải là người đọc sách. Lưu Bang đoạt thủ chính quyền nhờ biết dựa vào phần tử trí thức. Phần tử trí thức nỗ lực chẳng phải vì Lưu Bang mà vì nghĩa vụ diệt bạo Tần. Bởi vậy giữa Lưu Bang và phần tử trí thức vẫn có bức tường ngăn cách khó phá thông.

Ngay sau khi nhà Tần bị tiêu diệt, Hán cao Tổ đã tỏ thái độ bất dung trí thức. Thấy thế Nguỵ Báo từ khước bái yết Cao tổ, Trương Lương đi ẩn, nguyện bỏ dân gian sự để rong chơi (nguyện khứ dân gian sự, tòng xích tùng tử du).

Sở dĩ phần tử trí thức tiêu cực phản đối, là tại chính quyền Hán nhất nhất rập theo chính sách của chế độ Tần triều. Phần tử trí thức ghét chính trị Tần chứ không ghét tập đoàn giang hồ Lưu Bang….. Thêm một nguyên nhân nữa là phần tử trí thức vẫn hoài niệm phong độ Chiến quốc, phóng khoáng, lãng mạn.

Thời Tây Hán, trí thức tham gia chính trị phải tuân theo một pháp chế chặt chẽ, khuôn mức không giống thời Chiến quốc, trí thức áo lá, nón rách đến diện kiến quốc vương dùng biện thuyết mà đoạt tướng ấn Công Khanh.

Dĩ nhiên đem nhu yếu phóng túng tự do riêng tư để chống lại nhu yếu chính trị đại thể, đương nhiên phần tử trí thức không thể thắng Hán triều. Khi Hán Vũ Đế đại định thiên hạ, thì phần tử trí thức từ bỏ vận động vãn hồi tình trạng tư tưởng tự do thời Chiến quốc. Người trí thức muốn xuất chính phải bước từ huyện học lên tới Quốc lập đại học. Tốt nghiệp học viên phải trở về quê hương bản quán đảm nhiệm một tiểu chức nơi nha môn, dần dần tạo nhiều thành tích mới được đề bạt lên trung ương. Phần tử trí thức thời Tây Hán, đại bộ phận xuất hiện từ nông dân thuần phác, nên phong thái thường đơn hậu. Ở Chiến quốc học giả vẫn tự coi mình ngang với thánh nhân. Ở Tây Hán thì đại (địa?) vị học giả xuống thấp. Theo với quyền lực thống nhất pháp, thống nhất chế, học thuật cũng cần thiết một vị sư biểu. Do đó, Khổng Tử được thần thánh hoá và đưa lên độc tôn.

Phần tử trí thức thời Đông Hán
Vương Mãng tranh thiên hạ rồi Lưu Tú dựng lại Hán thất gọi là Đông Hán hay Hậu Hán.
Khoảng thời gian giữa Tây Hán, phần tử trí thức chớm khuynh hướng quần tụ. Một đại sư có tới mấy trăm môn đệ. Thái học sinh ban đầu chỉ ước chừng 50 người, dần dần tăng lên 200 rồi 3000, cuối Đông Hán con số lên gần 30.000.

Bản thân Thái học thành hẳn một xã hội riêng biệt (Vương Mãng, Lưu Tú đều thuộc nhóm Thái học sinh). Vì ở tiếp cận với trung ương chính phủ nên Thái học là tập đoàn có thế lực, tiếng nói của nhóm Thái học hướng dẫn dư luận toàn quốc, ảnh hưởng nhiều đến chính trị. Địa vị người học lại dần dần nâng cao. Nhưng thế lực tập đoàn Thái học cũng làm cho bộ mặt và tình hình của của phần tử trí thức Đông Hán khác hẳn với Tây Hán.

Thời đại Tây Hán, học vấn vốn vẫn là vũ khí nhiều khả năng nhất của bình dân muốn xuất chính. Tập đoàn Thái học thành hình thì những người bình dân thông qua học vấn để xuất chính trước đây nay đã trở nên quý tộc. Thái học biến ra xã hội con ông cháu cha, tạo thành tình trạng đảng cố môn đệ. Tập đoàn Thái học trên chính trị, xa rời quyền lợi bình dân, chuyên chú vào những âm mưu tranh chấp đảng nhóm, không biết dựa vào thế lực chính trị mà tranh thủ xã hội. Trên học thuật tư tưởng, Thái học nhân vì tập nhiễm xã hội đô thị nên mất hết phong thái đôn hậu chất phác, bỏ hẳn chủ trương lấy chí dụng làm cơ sở cho học vấn, để vùi đầu trong tư tưởng hoa mỹ, tận hưởng thú vị nghệ thuật. Tóm lại, bản chất tập đoàn Thái học sinh giống như tinh thần câu ca dao Việt:

Học trò đèn sách hôm mai,
Ngày sau thi đỗ nên trai mới hào,
Làm nên quan thấp, quan cao,
Làm nên võng tía, võng đào nghênh ngang

của hình thức thư sinh quý tộc, không còn phong độ “kiếm bạt nỗ trương” (rút kiếm, giương cung) thời Chiến Quốc nữa.

Do tính chất môn phiệt của tập đoàn trí thức Thái học mà phần tử trí thức bị phân hoá, nhiều lực lượng trí thức bình dân rộ lên và trưởng thành đòi quật đổ bọn trí thức thống trị. Đồng thời trong triều đình, thế lực hoạn quan mỗi ngày mỗi lớn chèn ép tiếng nói Thái học

Xung đột giữa tập đoàn quý tộc trí thức Thái học với hoạn quan, xung đột giữa lực lượng trí thức mới dậy với bọn trí thức tại quyền, sự tan rã của quyền lực trung ương và sự bành trướng của quyền lực địa phương - đó là tất cả cục thế loạn ly thời kỳ mở vào Tam Quốc phân tranh.

Trí thức tại triều bị hoạn quan quật ngã
Đời vua Hoàn Đế, bọn hoạn quan giết chết Lương Ký. Nhân cơ hội hoạn quan ngoại thích đánh nhau, nhóm trí thức tại triều liền được triệu tập để tiêu trừ hoạn quan. Cầm đầu vận động là các vị Đại thần Hoàng Huỳnh, Trần Phồn. Lực lượng cơ sở gồm thanh niên đô thị và tập đoàn Thái học sinh. Đường lối, chính sách là đòi hỏi thanh lọc.

Những danh sĩ thời đó phụ giúp có: Chu Mục, Lưu Hựu, Tuân Dục, Sài Diễm, Vương Hoàng, Phạm Khang. Bọn hoạn quan trước sức tấn công của nhóm trí thức triều thần, bị bắt và bị giết khá nhiều.

Nhưng chưa được bao lâu, thế lực hoạn quan phản công ngay. Nhờ vụ Lý Ưng, hoạn quan xoay chuyển hẳn tình thế, vua Hoàn Đế hạ lệnh tầm nã tập đoàn Thái Học để cho hoạn quan tha hô mà giết. Sang triều vua Linh Đế thì phe triều thần trí thức quỵ hẳn.

Vương Doãn một điển hình
Vương Doãn điển hình cho cái gì?
Cho tính chất đã thiếu khả năng lãnh đạo của nhóm trí thức tại quyền. Chúng ta đều đã biết rõ nguyên nhân loạn có hai mặt:
-Thứ nhất: Chính trị chuyên chế bị hoạn quan ngoại thích lũng đoạn.
-Thứ hai: Tệ hại ngay trên bản thân văn hoá và phần tử trí thức.

Thế lực hoạn quan và ngoại thích khi đã tràn ngập Hoàng Triều, nó liền một tay nắm trọn guồng máy chính quyền bằng cách đan kết một cái lưới bè nhóm, ân huệ, tư tình, hôn phối. Thành phần cai trị mỗi ngày thêm ác hoá. Công Khanh, Đại Thần dần dần chỉ còn là lực lượng hậu bị của hoạn quan ngoại thích. Phần tử trí thức trong triều nếu không chạy theo xu phụng hoạn quan ngoại thích tất bị loại trừ. Triều thần trí thức chống lại nhưng không nổi.

Sở dĩ phần tử trí thức tại quyền thất bại, để hoạn quan ngoại thích lăng áp là tại trí thức đã tự mình phiệt duyệt hoá, chuyên chế hoá, đem cả sinh hoạt, học vấn, quan niệm tâm lý lẫn khí chất sô vào con đường thật nguy hiểm:

Thoát ly dân chúng, thoát ly xã hội.
Hưởng thụ bằng đại vị ăn trên ngồi chốc.

Không làm chính trị đại thể mà chỉ làm chính trị âm mưu.
Thân xác trí thức tại quyền cuối Đông Hán đầy những tệ bệnh nào là:

Bệnh chỉ khoẻ nói quân tử tiểu nhân, mà căn bản không biết phải giải quyết vấn đề.
Bệnh học phiệt, tự cho mình là những người khác thường.
Bệnh hư văn, lễ nghi phiền toái.
Bệnh danh tiết, làm việc chỉ vì trung nghĩa, lối trung nghĩa của luân lý “gia thiên hạ”.
Bệnh gàn dở kiêu căng.
Bệnh danh sĩ hỗn hợp gàn dở kiêu căng với danh tiết.

Vương Doãn là một nhân vật điển hình, điển hình cho phần tử trí thức tại quyền đang hấp hối vì Ông ta mang gần đủ những thứ bệnh nói trên.

Chúng ta hãy cùng đọc lại hồi thứ chín (9) trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa để nhận xét hành động của Vương Doãn qua những sự việc:

-Kế liên hoàn, Doãn dùng cái danh lão phu để lạy hết Đổng Trác và Lã Bố. Mục đích chỉ để hoàn thành một mưu mô chẳng lấy gì làm đẹp cho lắm.
-Giết xong Đổng Trác, vào chính quyền rồi, Vương Doãn như người say rượu lóng ngóng. Vương Doãn đã phạm hai lỗi cực lớn:

1) Chém Sái Ung chỉ vì Sái Ung khóc Đổng Trác.
2) Đẩy bọn Lý Thôi, Quách Dĩ đến bước cùng, khiến cho người Khương Hồ dầy đạp, đầy đoạ dân chúng. Kết quả việc làm của Vương Doãn là thay tình trạng quân phiệt bằng tình trạng kiêu binh.

Trung nghĩa hão, nên lúc thất bại Doãn lưu lại một lời kỳ thú “Hà tất đa ngôn, ngã Vương Doãn kim nhật hữu tử nhi dĩ”. Lời này cụ Phan Kế Bính dịch sang Việt ngữ còn lý thú hơn: “Tao chỉ còn cái xác tao đây, chúng bay muốn làm gì thì làm".

Nguỵ trí thức cùng loại Vương Doãn
Từ Xuân Thu, Chiến Quốc nhiệm vụ của người trí thức đã được đặt định hết sức minh bạch:
Đem tâm huyết cống hiến, giáo hoá dân chúng.
Phấn đấu cho lợi ích của bình dân.
Đoàn kết dân chúng.
Phấn đấu cho đạo đức, tư chất bản thân chống với những áp đảo tiền bạc, vũ lực của bọn quý tộc, của chính quyền.
Dùng học vấn làm công cụ nâng cao hạnh phúc dân chúng.

Những nhiệm vụ ấy được nhân cách hoá và trờ thành phong độ của tất cả những người trí thức. Nó gói tròn bằng ba chữ cơ bản: Nho, Hiệp -chung đúc bởi tư tưởng Khổng, Mặc - và Ẩn của Đạo học.

Nho lấy tu dưỡng bản thân yên trăm họ (quân tử tu kỷ dĩ an bách tính) làm trách nhiệm tâm; lấy không lo, không mê hoặc, không sợ (bất ưu, bất hoặc, bất cụ) làm tự tôn tâm, lấy trang nhã, cung kính, khiêm nhường (trang cung khiêm nhượng) làm thái độ xử thế.
Hiệp là thái độ mềm nhưng không nhũn nát, cứng nhưng không giòn gẫy, không khinh mạn người thế cô, không sợ sệt kẻ cường bạo.

Nguỵ trí thức là thế nào?
Nguỵ trí thức có nhiều hạng. Hoặc là bọn người chỉ hấp thụ ít nhiều học vấn nhưng lại thiếu tu dưỡng nhân cách. Hoặc là bọn người chỉ chăm chú câu nệ tu dưỡng chữ nhân chữ đức mà bỏ mất học vấn hữu ích. Hoặc là bọn người chỉ biết đem học vấn bán ra nuôi miệng, nuôi dục vọng vị kỷ. Hoặc là bọn người chỉ biết văn chương phú lục mà không có tư tưởng chính trị.

Hồi tiền Tam Quốc, mặt nguỵ trí thức xuất hiện rất nhiều, phần lớn đều là những kẻ tách xa đại chúng để a dua với tập đoàn thống trị, từ bỏ phong độ tu kỷ an bách tính, bám vào hàng ngũ thống trị, lại thêm tật tự coi mình là quý tộc. Trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa ghi nhận nguỵ trí thức như bọn: Dương Bưu, Dương Mặc, Phàn Trù, Chu Tuấn, Cảnh Vũ, Quan Thuần, Vương Kỳ, Chu Hoán v.v… Nhưng có mấy mặt điển hình nhất là Vương Doãn, Sái Ung và Lý Túc. Vương Doãn thuộc vào hạng Nho cũng dở mà Hiệp cũng dở. Sái Ung thuộc vào hạng Hiệp mù quáng nhiều cảm tình tri kỷ nhưng thiếu quan điểm quần chúng. Lý Túc thuộc vào hạng chẳng Hiệp cũng chẳng Nho, chỉ biết biện bác vặt, xui dại, xui khôn, thầy cò. Lý Túc hết khuyên Lã Bố giết Đinh Nguyên lại dụ Đổng Trác vào Tràng An cho Vương Doãn sát hại. Nhưng lúc ra chỉ huy ba quân thì tài biện bác vẫn không đủ sức cáng đáng trách nhiệm nữa, dĩ chí để Ngưu Phụ cướp mất trại, di luỵ đến thân.

Nói chung, mặc dầu mỗi giai đoạn lịch sử đều có những sắc thái riêng biệt, nhưng trên căn bản ta có thể bảo Nguỵ trí thức là bọn người cắn chặt vào quyền thống trị cũ, chế độ cũ, sinh hoạt cũ, gặp tình hình biến chuyển mới hoàn toàn bị cạn ý thức, không ngoi lên được ngoài những vùng vẫy vô ích trước khi chìm nghỉm.

Văn hoá biên duyên xung kích - Loạn Khương Hồ và kiêu binh
Đổng Trác tuy bị giết hại nhưng thủ hạ vây cánh quân đội của Trác còn đông đặc tại triều đình. Bọn chúng vừa mất chủ vừa lo thân nên chúng tác loạn cướp bóc tứ tung trong khi chính quyền mới lại không có một chính lệnh nào để làm an lòng chúng, thành ra Kinh đô thiếu an ninh, dân chúng cực khổ. Chính quyền mới chỉ chú ý đến lực lượng của Ngưu Phụ đóng ở Thiểm huyện, nên sai Lã Bố tiến đánh. Sở dĩ Vương Doãn chú ý Ngưu Phụ có lẽ không vì nhu cầu chính trị hay quân sự mà chỉ vì Ngưu Phụ là con rể Đổng Trác, cái tâm lý môn phiệt tôn tộc xưa nay vẫn vậy. Thực ra lực lượng Ngưu Phụ đâu có đáng sợ bằng mối loạn ngay trong lòng ruột, xem việc Ngưu Phụ cùng Hồ xích Nhi chôn dấu vàng bạc rồi bỏ đi thì đủ biết.

Đến khi Lã Bố chống không nổi bọn Lý Thôi, Quách Dĩ, chạy về Tràng An thì quân giặc trong ngoài đông nghịt, chẳng khác mây che mưa phủ, vây kín thành trì. Số phận Vương Doãn, Lã Bố đã được quyết định.

Tràng An lọt vào tay Lý Thôi, Quách Dĩ, với những thủ đoạn kiêu binh bắt giết, hãm hiếp và bức vua phong tước cho chúng thực cao, toàn Hầu, Tướng.
Cảm nỗi cơ cực, nàng Sái văn Cơ, con Sái Ung, làm một bài thơ tả cảnh loạn ly, với nhiều câu rất xác thực như:

Trảm lục vô tiết di
Thi hài tương trưởng cự
Mã biên huyền nam đầu
Mã hậu tải phụ nữ
Can tỳ vi lạn nhục
………………….
Dục tử bất khả đắc
Dục sinh vô nhất khả.
Tạm dịch:
Chém giết chẳng chừa ai
Thây chất chồng chất đống
Cổ ngựa treo đầu trai
Lưng ngựa thân gái trói
Ruột gan thối nhầy nhụa
………………………
Muốn chết, chết chẳng được
Muốn sống, sống không xong.

Trong bài thơ của Sái văn Cơ còn một câu:
Lai binh giai Hồ, Khương (quân lính toàn rợ Hồ, Khương)

Câu thơ đó chứng minh rằng: Quân đội Tây Lương của Đổng Trác, sau này của Thôi, Dĩ, phần lớn lẫn lộn các dị tộc nhân Trung Quốc loạn, mượn thế tràn vào.

Người Khương bây giờ hãy còn ở mức kinh tế du mục, căn cứ tại miền Đông tỉnh Cam Túc bây giờ. Thời Chiến quốc từng hỗn nhập với người nước Tần mà tràn vào bờ phía Tây sông Hoàng Hà. Thời Tây Hán người Khương bị đánh đuổi chạy ngược lên phía Tây. Cuối triều Vương Mãng, thừa cơ Trung Quốc loạn lạc, người Khương lại xâm lấn, lần này họ vượt qua sông, nhưng bị văn hoá Trung Quốc quá khoẻ đồng hoá mất. Tuy thế, người Khương đã luôn luôn tham dự các vận động gây rối loạn do tâm lý ưa cướp bóc của những dân du mục chưa thuần tính với nông nghiệp.

Người Hồ nguyên là giống Hung nô, phân chia làm Đông vực Hồ và Tây vực Hồ. Cả hai đều ở phía Bắc Trung Quốc. Những cuộc tràn lấn của các người Hồ, Khương đợt này qua đợt khác tạo thành một thời kỳ đen tối cho lịch sử Trung quốc sau này: thời kỳ “Ngũ hồ loạn hoa”.

Như vậy chứng tỏ rằng việc quân Tây Lương của Đổng Trác phạm Tràng An không phải chỉ giản dị là vấn đề chính trị nội bộ. Nó còn bao hàm các vấn đề sâu rộng hơn như vấn đề Dân tộc và Văn Hoá. Văn Hoá biên duyên nhân cơ hội trung tâm rối loạn nên quật khởi xung kích.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

6
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
- 5 -
QUÁ TRÌNH TIÊU, TRƯỞNG CỦA CÁC LỰC LƯỢNG




Việc Lý Thôi, Quách Dĩ hoành hành ở Tràng An là nhát dao cuối cùng chém gãy gục hẳn chính quyền trung ương, Thiên tử nhà Hán bất quá chỉ còn mang giá trị như một đồ vật tượng trưng, một ấn ngọc tỉ biết nói biết đi, biết ăn biết khóc mà thôi. Chính quyền trung ương sụp đổ, đương nhiên quyền lực để mưu đồ thiên hạ chuyển qua tay các lực lượng địa phương. Cái thế “Rồng tranh hổ đấu” lúc bấy giờ kịch liệt gay go nhất tại những địa phương: U, Tinh, Ký, Thanh, Duyện, Dự, Từ cùng các châu Kinh, châu Dương phía Bắc.

Tình thế châu U
Sự tiêu diệt khuynh loát lẫn nhau giữa các lực lượng khởi từ châu U.
Cuối triều Linh Đế, châu U thuộc quyền cai trị của quan châu mục Lưu Ngu. Ngu vốn dòng tôn thất nhà Hán, tâm tính nhân hậu, trăm họ yêu mến, nhưng thiếu tài lược cần thiết cho lúc loạn. Tại đây có một vị quân quan tên gọi Công tôn Toản tay nắm binh quyền, hoài bão nhiều cao vọng, Toản từng rình rập ngôi vị Lưu Ngu. Ngặt vì chính trị trật tự chưa đảo lộn nên Toản phải gián chịu nép. Lúc Đổng Trác chuyên quyền bỏ vua này lập vua khác, Hiến Đế do Đổng Trác đưa lên, bị phe chống Đổng Trác không thừa nhận. Viên Thiệu bèn cùng Ký châu mục Hàn Phức liên hợp định suy tôn Lưu Ngu làm Hoàng Đế. Lưu Ngu phần sợ thành bù nhìn vì thiếu thực lực, phần sợ phá hoại nghĩa vua tôi nên cương quyết chối từ. Chối từ xong, Lưu Ngu mật phái người tâm phúc đến Tràng An triều kiến Hiến Đế. Tiếp xúc với bộ hạ của Lưu Ngu giữa lúc đang bị Đổng Trác làm khổ, Hiến Đế như người bệnh lâu ngày trông thấy thuốc, mừng rỡ viết chiếu chỉ, giấu đút giao cho con Ngu là Lưu Hoà hiện làm quan tại triều đem đi cầu viện. Để tránh tai mắt của Đổng Trác, Hoà không dám vượt ải Hàm Cốc, phải vòng phía đông qua Thương huyện, nên Hoà bị quân Viên Thuật bắt gặp ở Nam Dương, nơi mà Thuật vừa đoạt lại từ tay Tôn Kiên. Thấy có cơ hội làm ăn lớn, Thuật bèn giữ Lưu Hoà rồi sai người đến báo cho Lưu Ngu biết, và ước hẹn Ngu đem quân đến Tây Thượng hợp với quân Thuật ứng lời chiếu về Tràng An. Công Tôn Toản hay tin rất lo sợ cho sí đồ của mình, một mặt xui Lưu Ngu đừng gởi quân đến Tây Thượng, mặt khác thông với Thuật nói Lưu Ngu không muốn ai chia sẻ công lớn. Thuật giận giam Lưu Hoà. Khi Ngu gửi quân, Công tôn Toản chẹn đường cướp binh. Cơ hội nghênh giá của Lưu Ngu tiêu tan. Cơ hội liên kết giữa Viên Thuật với Ngu cũng lỡ chỉ vì một chút tiểu xảo của Công tôn Toản. Toàn bộ sự việc trên tuy nhỏ, nhưng có liên quan tới Đế vị cho nên ảnh hưởng không phải là không to tát vào tình thế chính trị Tam Quốc.

Hậu quả của hành động mua giây thắt cổ
Toản thực hiện được dã tâm của mình lấy làm đắc ý, liền dựa trên danh nghĩa thảo tội Đổng Trác mang quân đánh Ký Châu[1]. Ký Châu đặt trong tình trạng nguy cấp. Ai ngờ việc Toản làm lại mở đường cho Viên Thiệu xơi ngon Ký Châu. Hàn Phức thấy Ký Châu bị Toản uy hiếp, vừa lúc Đổng Trác thiên đô chạy, Thiệu kéo quân về, Phức nghe lời Thiệu thuyết phục, nhường Ký Châu cho Thiệu. Thế là Toản chiếm đất chẳng được, còn rước thêm con thú dữ về cạnh nách. Viện Thiệu sợ Toản, Thuật liên minh nên quyết tiêu diệt thế lực Toản.

Lực lượng Tào Tháo trưởng thành
Tranh chấp sơ khởi hết sức phức tạp, nên chính sách của mỗi thế lực đều mang hai mặt:
Một mặt liên hợp. Một mặt đấu tranh.
Bởi vậy ta mới thấy những hiện tượng: Tào Tháo liên kết với Viên Thiệu, Lưu Bị dung Lã Bố, Viên Thiệu hợp tác với Lưu Bị, Tào Tháo giúp Lưu Bị đánh Lã Bố, v.v. Những hiện tượng ấy hoàn toàn xuất phát từ nhu yếu chính trị, chứ không phải do cảm tình cá nhân như tinh thần Tam Quốc Chí diễn nghĩa diễn tả.

Trong tình trạng rối ren, Tào Tháo chỉ có hai bàn tay trắng với chút ít lực lượng chẳng đáng kể. Thế mà thế lực Tào Tháo lớn như thổi. Sở dĩ Tháo mạnh là nhờ những tư tưởng rất thực tiễn của Tháo. Sau thời kỳ say sưa với khủng bố, làm dũng sĩ mưu sát hại Đồng Trác không xong, kế sách cùng Liên quân Đông đánh dấn Đổng Trác không được nghe, đơn thương độc mã, một mình Tào Tháo vác quân đuổi theo quân Trác, bị phục binh Lã Bố, Từ Vinh theo kế Lý Nho đánh suýt bỏ mạng. Tào Tháo tỉnh ngộ. Áp dụng chính sách từ gần đến xa, từ nhỏ đến lớn, gần tre ẩn nắng, gần mía bẻ cây, Tháo biến tất cả mọi hoàn cảnh nghịch hay thuận thành lợi thế cho mình. Ý thức chính trị của Tháo chuyển từ lãng mạn sang thực tế thật nhanh và thật sắc bén.

Đổng Trác chết, Tào Tháo nhờ cậy Viên Thiệu tiến cử xin vua Hiến Đế phong cho mình làm Thái Thú Đông Quận. Thiệu vin cớ Tháo đã bình định được giặc giã ở Duyện Châu mà xin.
Năm Hiến Đế thứ ba, quân Khăn Vàng ở Thanh Châu đại tấn công Duyện Châu. Việc này La quán Trung tiên sinh kể như sau:
Đám giặc ở Thanh Châu nổi dậy, tụ quân vài mươi vạn khởi loạn, cướp bóc của dân. Thái bộc Chu Tuấn xin tiến cử một người đi dẹp giặc.
Thôi, Dĩ hỏi ai? Tuấn nói:
Muốn phá giặc Sơn Đông, phi Tào Tháo không xong.
Lý Thôi hỏi:
Bây giờ Tào Tháo ở đâu?
Chu Tuấn thưa:
Hiện đang làm Thái thú Đông quận, có nhiều quân sĩ, giá sai người này đi đánh giặc thì không mấy bữa giặc tan.
Lý Thôi mừng lắm, ngay đêm ấy thảo tờ chiếu cho người mang ra Đông quận sai Tào Tháo cùng với tướng Tế Bắc là Pháo Tín đi đánh giặc.
Tháo vâng chiếu, hợp với Pháo Tín, cùng tiến quân đánh giặc ở Thọ Dương.

Sở dĩ nói sai phái với phong chức vì Tam Quốc Chí diễn nghĩa vẫn chú trọng đạo đức lý luận chính thống. Thật ra lúc ấy Trung ương chẳng có chút quyền nào với địa phương hết.

Việc đi đánh dẹp Duyện Châu là chuyện riêng giữa Pháo Tín với Tào Tháo. Quân Hoàng Cân lúc tấn công Duyện Châu đã giết chết ngay viên thứ sử châu này là Lưu Đại. Pháo Tín, võ tướng đất Duyện vốn vẫn hâm mộ Tào Tháo nên tự mang quân đến liên kết với Tào Tháo, đồng thời đem Duyện Châu cho họ Tào.

Dẹp loạn ở Duyện Châu xong, nhờ chính sách cải biên, lực lượng quân sự Tào Tháo tăng lên hơn 30 vạn người. Thêm bàn đạp châu Duyện làm Tào Tháo mạnh như cơn sóng cả.
Khái quát thực trạng đấu tranh và liên hợp giữa các lực lượng

Nói về đất Kinh Châu, hồi này do Thứ sử tên Lưu Biểu nắm giữ. Kinh Châu tuy lớn, nhưng Lưu Biểu vô tài nên không mạnh. Kinh Châu lại tiếp cận với Nam Dương, địa bàn của Viên Thuật. Lúc đó lực lượng Tôn Kiên là một lực lượng không có căn cứ, tạm đóng ở huyện Lỗ Sơn tại Hà Nam. Viên Thuật vì muốn dòm ngó Kinh Châu, liên kết với Kiên bằng cách vận động cho Tôn Kiên được phong làm Thứ sử Dự Châu, để uy hiếp Kinh Châu.
Mưu đồ của Thuật đã tạo nên minh ước Viên Thiệu-Lưu Biểu.
- Nói về đất Từ Châu, địa thế tiếp cận với Duyện Châu, nơi mà thế lực Tào Tháo đang lên như vũ bão, Duyện Châu với Từ Châu không thể không thôn tính nhau.
- Nói về đất Thanh Châu, bấy giờ thuộc Thứ sử Điền Khải cai trị. Điền Khải là người của Công Tôn Toản.

Thế đấu tranh phân ra hai điều tuyến:
- Viên Thiệu tại Ký Châu, Lưu Biểu tại Kinh Châu, Tào Tháo tại Duyện Châu đứng trên một điều tuyến.
- Công Tôn Toản (con người có thực quyền) tại U Châu, Viên Thuật tại Nam Dương, Tôn Kiên tại Dự Châu, Đào Khiêm tại Từ Châu đứng trên một điều tuyến.
- Còn Lưu Bị chưa đáng kể vào đâu, vẫn coi như gia tướng của Công Tôn Toản.
Hai tập đoàn đấu tranh. Tập đoàn Thuật, Toản thất bại. Công Tôn Toản tiến binh đánh Viên Thiệu, Toản thua. Viên Thuật đẩy Tôn Kiên công kích Lưu Biểu, tuy chiến thắng nhưng vì Tôn Kiên dùng binh quá khinh suất nên bị quân Biểu bắn chết tại trận. Thừa thế, Lưu Biểu dồn quân cắt đứt đường tiếp tế của Thuật.

Công Tôn Toản phát động Lưu Bị hợp cùng Đào Khiêm đánh vào Tây Bắc Sơn Đông để làm khốn Viên Thiệu, Viên Thiệu bèn liên kết với Tào Tháo đẩy lui được địch quân.
Mặt khác Viên Thuật cũng tự mình đem quân đến địa phương Trần Lưu hòng đánh vỗ lưng Tào Tháo, nhưng việc không thành, Viên Thuật chạy trốn lên mãi quận Cửu Giang trong đất Dương Châu (nay thuộc huyện Thọ Xuân tỉnh An Huy). Tại đây Thuật giết ông Thứ Sử Dương Châu mà chiếm lấy đất này làm căn cứ.

Chiến cục Tào Tháo và Đào Khiêm
Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể cuộc chiến tranh Đào Khiêm, Tào Tháo rằng: Tào Tháo bình định Duyện Châu xong liền cho luyện binh, thu tướng, nạp hiền, phát triển thế lực. Khi uy danh đã lừng lẫy, Tháo sai Ung Thiệu về quê đón bố là Tào Tung. Tung hay tin Tào Tháo, mới cùng Tào Đức đem theo hơn một trăm gia nhân với nhiều của cải về Duyện Châu. Dọc đường đi qua Từ Châu, Tào được quan Thái thú Từ Châu là Đào Khiêm, xưa nay vẫn muốn làm quen thân với Tào Tháo nên thân hành ra đón. Khiêm mở tiệc khoản đãi Tung mấy ngày liền. Lúc Tung đi, Khiêm sai Trương Khải đem năm trăm bộ binh hộ tống. Không ngờ Trương Khải vốn là dư đảng Khăn Vàng, thấy Tào Tung có nhiều tiền bạc, thói xưa lại nổi dậy, Khải giết sạch toàn gia Tào Tung lấy hết của cải rồi trốn về Hoài Nam.

Tháo nghe tin khóc lăn xuống đất, nghiến răng mà nói: “Đào Khiêm hỡi! Dám thả cho quân giết bố tao. Thù này mày với tao không đội trời chung được. Nay ta khởi hết đại quân sang giết sạch cả Từ Châu mới hả được giận này”.
Liền sai Tuân Úc, Trình Dục lĩnh ba vạn quân ở lại giữ Nhân Thành, Phạm Huyện, Đông A, còn bao nhiêu quân kéo cả đến Từ Châu, sai Hạ hầu Đôn, Vu Cấm, Điển Vi làm tiên phong. Tháo hạ lệnh:
“Hễ đánh được thành trì nào, bao nhiêu dân trong thành giết nhẵn để báo thù cho cha”[2]

Diễn tả hồi này bằng giọng điệu trên đây, tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa muốn cho nhân vật Tào Tháo theo ý ông càng linh hoạt, đầy đủ đức tính đáng gờm. Chẳng những Tháo đại gian mà còn đại ác nữa.

Sự thật cái chết của Tào Tung không có chứng cớ, thủ phạm rõ rệt. Chiến tranh giữa Từ và Duyện hoàn toàn thuộc chính sách ra sức phát triển lực lượng của Tào Tháo. Những trận đánh gay go quyết liệt làm cho đổ máu nhiều chứ không phải Tào Tháo ra lệnh giết nhân dân mà báo thù cho cha. Tào Tháo không phải là người kém chính trị như vậy. Nếu có chuyện báo thù chăng nữa chẳng qua cũng chỉ là thủ đoạn mượn danh nghĩa để che đậy mưu đồ phát triển của Tháo mà thôi.

Lưu Huyền Đức gặp cơ hội đầu tiên
Tào Tháo khởi đại binh đánh Đào Khiêm, mặc dù phía Đào Khiêm có Lưu Bị, Viên Thuật, nhưng cả Khiêm lẫn Lưu Bị và Viên Thuật đều không phải là những mặt đủ khả năng đối địch với Tào Tháo. Tào Tháo chắc chắn nuốt trôi Từ Châu, nếu không có Lã Bố xuất hiện ngăn trở.

Số là: “Lã Bố từ khi gặp loạn Lý Thôi, Quách Dĩ, trốn ra cửa Vũ Quan, định đi theo Viên Thuật, Thuật ghét Bố hay phản phúc không dùng. Bố lại đến với Viên Thiệu, được Thiệu dung nạp, Thiệu cùng Bố đánh tan Trương Yên ở Trường Sơn. Từ đấy, Bố lấy làm đắc chí, khinh nhờn những Tướng sĩ của Thiệu, Thiệu giận muốn giết. Bố lại bỏ sang với Trương Dương. Lý Thôi, Quách Dĩ biết, đòi Trương Dương phải giết Lã Bố. Bố liền bỏ Dương sang ở với Trương Mạc.

Giữa lúc ấy thì em Trương Mạc là Trương Siêu đưa Trần Cung đến ra mắt Trương Mạc. Cung bảo Mạc rằng:
Nay thiên hạ bị chia xé, anh hùng nổi dậy, ông có đất ngàn dặm sao lại chịu ở dưới quyền người khác, há chẳng hèn lắm sao? Nay Tào Tháo đánh mặt Đông, Duyện Châu bỏ trống. Lã Bố là dũng sĩ đời nay, giá ông cùng với Lã Bố đánh lấy Duyện Châu thì bá nghiệp có thể làm nên được.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Trương Mạc cả mừng liền sai Lã Bố ra phá Duyện Châu, rồi chiếm cả Bộc Dương. Chỉ có ba xứ Nhân Thành, Đông A, Phạm Huyện may nhờ Tuân Úc, Trình Dục lập kế cố giữ được, các xứ kia đều bị phá vỡ cả. Tào Nhân đánh nhau mãi, nhưng không đương nổi, vì thế phải đi cấp báo với Tào Tháo.
Tháo giật mình khi nghe tin và nói rằng:
- Nếu Duyện Châu mất ta sẽ không còn chỗ để về nữa. Phải kíp lo toan ngay[3].
Tổng kết chiến tranh Tào Tháo-Đào Khiêm thì chỉ riêng Lưu Bị là có lợi, vì Tào Tháo định thôn tính Từ Châu nên Lưu Bị mới vào được đất này.
Vì Lã Bố đánh Duyện Châu, Tào Tháo phải rút nên Lưu Bị mới bỏ được cảnh ăn nhờ ở đậu, có đất Tiểu Bái làm vốn khởi nghiệp. Vốn ấy không bao lâu đã sinh số lợi khá lớn là toàn thể Từ Châu.
Về phần Táo Tháo, việc Lã Bố đánh Duyện Châu thực có quan hệ mất còn, sống chết của Tào Tháo. Giả thử đại bản doanh của Tào Tháo bị Lã Bố phá vỡ hoặc chủ lực quân Tháo về cứu bị Lã Bố đánh tan thì Tào Tháo chắc mất hẳn đất đứng. May nhờ ba huyện cố thủ nên Tào Tháo mới có căn cứ đương đầu.

Lã Bố thua
Nguyên nhân nào khiến cho Lã Bố thua Tào Tháo? Tam Quốc Chí diễn nghĩa mượn lời Tào Tháo bảo rằng: Lã Bố là đồ vô mưu. Hai chữ vô mưu ở đây mang ý nghĩa thuần tuý quân sự. Câu trên đây Tam Quốc Chí đã chịu ảnh hưởng của Tam Quốc Chí Nguỵ Vũ Đế ký ghi: Tào Tháo thấy Lã Bố đồn binh tại Bộc Dương mới nói: “Lã Bố một sớm chiếm lãnh hẳn một châu, thế mà không biết chặn Đông Bình, cắt đứt Thái Sơn, Khang Phụ để chẹn ta, lại đóng quân ở Bộc Dương, Lã Bố chỉ là đồ vô dụng”. Tôi không chối cãi tính chất vô mưu và vô dụng của Lã Bố. Nhưng trong trận này, kế hoạch quân sự của Lã Bố rất chính xác. Bởi vì Lã Bố vào đất mới chiếm, cơ sở chính trị chưa thể củng cố ngay, nếu chủ lực Tào Tháo tồn tại, thì Lã Bố không đủ khả năng làm cuộc chiến tranh lâu dài với Tháo. Trung tâm hoạt động của Lã Bố lúc này là bằng mọi cách tiêu diệt chủ lực quân Tào. Trần Cung mới bầy cho Bố mẹo nội gián nhà họ Điền đưa thư cho Tào Tháo hẹn đến cướp thành.

Quả nhiên Tào Tháo mắc mẹo, trận Bộc Dương thành làm cho chủ lực Tào Tháo hao tổn khá nhiều. Tháo bèn dùng chính sách lâu dài đấu tranh với Lã Bố. Hai bên giữ nhau ròng rã sáu tháng. Lã Bố bắt đầu nao núng, lại thêm nạn đói kém vì sâu bọ phá hoại, giá thóc đang từ 30 tiền một hộc vọt lên năm vạn tiền. Binh sĩ đói khát. Quân Tào Tháo nhờ có cơ sở chính trị nên phân tán tự canh, tự tác kiếm được lương ăn. Quân Lã Bố đói quá sinh loạn bỏ trốn. Lã Bố thấy tình trạng nguy ngập đưa vợ con chạy. Trương Siêu tự vận chết. Trương Mạc về đầu hàng Viên Thiệu.

Một điều tuyến nứt rạn
Giữa lúc cuộc chiến tranh Lã Bố, Tào Tháo kết thúc, thì bên Từ Châu, Đào Khiêm lâm bệnh nặng. Khiêm sai My Chúc đến Tiểu Bái mời Lưu Bị về để nhường Từ Châu cho Lưu Bị. Lưu Bị trong những ngày cai trị Tiểu Bái đã ra công kiến lập uy thế chính trị cho mình cho nên khi nhận ấn Châu mục Từ Châu, Lưu Bị không vấp trở ngại nào. Vừa kịp Lữ Bố thua chạy đến Từ Châu xin nương nhờ, Lưu Bị thu dụng Lã Bố cho ra trấn giữ Tiểu Bái.

Có địa bàn vững chắc rồi, nhưng lực lượng họ Lưu không phát triển, rút cục còn bị đánh bật khỏi Từ Châu là vì:
Thứ nhất: Lưu Bị không có một chính sách nào mới ngoài chủ trương dựa vào đám triều thần để duy trì trật tự cũ.
Thứ hai: Lưu Bị thiếu người tài giỏi điều khiển chính trị, quân sự cùng nhiều mặt khác, đồng thời Lưu Bị chỉ giỏi sử đãi cán bộ nhưng rất kém mặt trị sự.
Thứ ba: Từ Châu sang tay Lưu Bị liền bị du vào cái thế “Tứ diện thụ địch”. Trước hết là địch ở ngay trong tâm phúc. Lã Bố tại Tiểu Bái lúc nào cũng chờ cơ hội phản bội. Rồi đến hành động ngu xuẩn nóng vội của Viên Thuật mắc mưu gây mâu thuẫn nội bộ của Tào Tháo (Kế Tuân Úc).

Viên Thuật, Lưu Bị, Lã Bố mâu thuẫn, xung đột, điều tuyến chính trị do Viên Thuật gây dựng nay Viên Thuật tự tay phá hoại. Sự kiện này đã tạo cho Tào Tháo một cơ hội lớn để kiến trúc Đế nghiệp nhà Nguỵ, mở đầu bằng việc chia binh nghênh giá Hiến Đế. Ví thử Viên, Lưu không chia rẽ, hỏi làm sao Tháo có thể rảnh tay mà đem binh về tranh thủ quyền chính Trung ương mà không phải trả một tổn phí nào?
Khổng Dung chế độ “danh sĩ” đã hết - Tập đoàn Thái học sinh Đời Đông Hán các lãnh tụ tập đoàn Thái học sinh có uy quyền lớn đối với xã hội, đối với triều đình. Họ thường tự xưng tụng cũng như người thời bấy giờ xưng tụng họ làm:

Tam quân như Đậu Vũ, Lưu Thúc, Trần Phồn (những lãnh tụ tối cao)
Bát Tuấn (những vị anh hùng), Bát Cố (những người tài đức), Bát Cập (những người lãnh đạo, răn dạy dân) Bát Trù (những người nhiều tiền của cứu nhân độ thế).
Sở dĩ nhóm Thái Học Sinh được chính quyền kiêng nể là vì tư tưởng, luận đàm của họ có ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội.
Về sau, Thái Học Sinh càng ngày càng mang hình thái quý tộc, ảnh hưởng Thái Học Sinh giảm dần. Tuy vậy cái tinh thần Bát Tuấn, Bát Cập, Bát Cố, Bát Trù mà Thái Học Sinh nêu ra trong cuộc đấu tranh với hoạn quan, ngoại thích người đương thời vẫn chưa quên hẳn.

Khổng Dung
Khổng Dung là tiêu biểu cho cái ánh sáng sắp tàn của nhóm trí thức Thái học Đông Hán. Dung không nổi tiếng hay không có uy danh bằng chức tước quan lại, mà bằng hai chữ danh sĩ. Loại danh sĩ kiểu Khổng Dung gồm những người thị tài ngạo vật, tự cao thân giá, nghị luận thanh đàm. Nhờ mánh khoé tán tụng lẫn nhau, họ đã tự biến thành một mục tiêu đức vọng truyền thống cho người đời và gây cho bản thân họ một tiềm lực trong xã hội không nhỏ.

Lúc Tào Tháo chưa kiến lập được uy thế, nhờ ông Kiều Huyền dẫn Tháo đến yết kiến danh sĩ Hứa Thiệu. Hứa Thiệu gặp Tháo có phê bình một câu: “Tháo là người bề tôi cực giỏi nếu gặp thời trị nhưng Tháo sẽ là người cực gian hùng thời loạn.” Vì lời nói từ trong miệng Hứa Thiệu nên nó đã làm cho nhiều người chú ý đến Tào Tháo.
Khi Khổng Dung bị quân Khăn Vàng bao vây, Dung sai người đến cầu cứu Lưu Bị. Lưu Bị kinh ngạc nói rằng: “Khổng Bắc Hải mà cũng thèm biết đến Lưu Bị ư?”
Xem thế đủ biết tên tuổi đám nhân sĩ mạnh nhường nào. Một khi tâm lý chuộng thanh danh ấy chưa quét sạch thì bọn người kiểu Khổng Dung vẫn bám vào nó, dùng trí thức phản động để lũng đoạn xã hội. Bọn này còn lũng đoạn thì tiến hoá còn nhiều chướng ngại, xã hội lịch sử còn khó chuyển hình. Qua Khổng Dung chúng ta hãy phân tích, mổ xẻ tâm trạng và sinh hoạt của bọn danh sĩ cuối Đông Hán.

Nói trắng ra bọn danh sĩ phần lớn chỉ hoa hoè, hoa sói mà vô thực tài, nói nhiều hơn làm. Chẳng những họ không có tài cán cứu nước cứu dân, ngay cả trên tâm lý và hoài bão cũng không sạch sẽ gì, dễ a dua phản bội.
Danh sĩ Khổng Dung, thời gian làm Thái thú Bắc Hải nổi danh bằng sinh hoạt uống rượu tán dóc “toạ thượng khách thượng mãn, tôn trung tửu bất không”, bài binh bố trận trên bàn tiệc. Một năm mất mùa Tào Tháo cấm rượu, Khổng Dung phản đối. Dung lý luận: “Đức rượu tồn tại đã lâu. Trời có sao rượu, Đất có sao rượu, người truyền tụng Đức rượu. Vua Nghiêu dùng ngàn chum rượu để lập trật tự hoà bình. Khổng Tử không rượu lấy gì làm Thánh?”

Mỗi lần phải giải quyết vấn đề thực tế, mỗi lần đối chọi với khó khăn, Khổng Văn Cử đều thất bại và đều áp dụng một chính sách đào tẩu.
Chính sách Tào Tháo sử đãi bọn danh sĩ
Thấy thế lực bọn danh sĩ vẫn còn lớn, nên Tào Tháo phải dùng chính sách chính trị giải quyết.
Chinh sách sử đãi bọn danh sĩ là: một mặt co kéo thu dụng và giáo dục, một mặt tiêu trừ. Tào Tháo đã nhìn thấu suốt tính chất và nhược điểm của bọn người này.
Trước tiên, Tào Tháo đem quan chức câu nhử. Tháo thừa biết các danh sĩ thường lợi dụng hai chữ danh sĩ để làm cầu vào quan lộ. Quả nhiên hầu hết các danh sĩ xúm xít quanh miếng mồi đó treo nơi đầu móc câu của Tào Tháo.

Người mang tật quan nặng nhất là Khổng Dung. Kết cuộc Khổng Dung cũng như Dương Tu, Biên Nhượng bị Tào Tháo chặt cổ ráo. Các danh sĩ khác nhận chịu ép một bề nên hoá thành “ngự dụng phẩm” của Tháo.

Trong tranh đấu với thế lực danh sĩ, Tào Tháo đề ra hai đường lối chính trị tài mới:
1) Tuyển lựa nhân tài, tuyệt đối bãi bỏ lề lối môn phiệt, thế gia. Bằng biện pháp này Tào Tháo đập vỡ khối cấu kết ỷ thế lẫn nhau của môn phiệt và thế gia.
2) Dùng người theo tài năng, không quá chú trọng cao danh mỹ đức. Những người có tài thực tế trị quốc, dụng binh, dù trên sinh hoạt phạm điều lầm lỗi, nhất nhất đều được lưu dụng.
Lệnh Tào Tháo ra đã chấm dứt chế độ danh sĩ môn phiệt Đông Hán, mở chân trời mới cho phần tử trí thức.
Tào Mạnh Đức cần vương
(sai chư hầu bằng uy Thiên Tử)
Ở Long Trung, Gia Cát đối đáp Lưu Bị, nhận định thế lực Tào Tháo rằng: “Nay Tào Tháo có dân hàng trăm vạn, ăn hiếp Thiêu Tử để sai chư hầu, tranh phong với Tháo bây giờ thật khó”. Tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa vì cần cho câu chuyện kể được ly kỳ hấp dẫn, nên chỉ chú trọng đến mấy chữ: “hiếp Thiêu Tử dĩ lệnh chư hầu.” Người đọc sau này cũng bị Tam Quốc Chí diễn nghĩa lôi cuốn nên thường cho rằng: việc mượn uy Thiêu Tử là điều kiện thắng lợi lớn nhất của Tào Tháo. Tôi nghĩ phê phán như vậy là sai, là bị tư tưởng chính thống, bị tình cảm yêu ghét của tiểu thuyết chi phối.
Từ trước tới nay theo cổ truyền, với nền văn hoá nông nghiệp vĩ đại, vị Hoàng Đế ở Trung Quốc không quan hệ cho trăm họ nặng như mọi người vẫn tưởng đâu. Kinh Thi có câu:

Nhật xuất nhi tắc.
Nhật nhập nhi tức.
Tạc tỉnh nhi ẩm.
Đế lực hà hữu vu ngã tại.
Dịch:
Mặt trời lên thì làm.
Mặt trời lặn thì nghỉ
Đào giếng lấy nước uống.
Cầy ruộng lấy cơm ăn.
Oai Vua chẳng ăn thua gì đến ta.

Mạnh Tử nói:
“Quốc dĩ dân vi mệnh, dân dĩ thực vi tiên”, vai trò Hoàng Đế, Thiên Tử chỉ trọng yếu khi nào dân chúng thừa nhận đấy là tượng trưng, là đại biểu của dân tộc quốc gia trong cuộc đấu tranh đối ngoại, chống xâm lược mà thôi.
Với đấu tranh nội bộ, cá nhân vị Hoàng Đế chẳng là quái gì đối với dân chúng. Dân chúng cần người nào đem lại no ấm, yên bình, tiến bộ, thế là đủ rồi. Như vậy, những danh từ Hán thất chẳng qua chỉ là phiêu ngữ của mấy người có quyền lợi nêu ra. Không thể vì đấy mà bảo: Lòng dân còn tựa nhà Hán v.v..
Nói đến nhân tâm tư Hán, sao lúc Vương Mãng thất bại lại thấy nhiều người vì Mãng mà hy sinh?

Chúng ta không thể nhận thức chính cục lịch sử bằng đôi mắt của Ban Cố xưa coi lịch sử làm của riêng một nhà được nữa. Chúng ta hãy phê phán với tinh thần nhận lịch sử là công vật của toàn quốc dân. Nếu nhận định dùng nhãn quan Ban Cố nhìn thời đại Tam quốc thì chính trị Tam quốc sẽ mất đi ý nghĩa. Tóm lại lý luận: Hiếp Thiên Tử, sai chư hầu xem như quan kiện quyết định thắng lợi của Tào Tháo là một kiến giải hoàn toàn không chính xác. Sự thành công của Tào Tháo ở nơi Tháo có một đường lối đấu tranh chính trị sát thực tiễn, ở cái tài dùng binh của Tào Tháo chứ không phải tại hiếp Thiên tử, dĩ lệnh chư hầu. Điều khó khăn mà Khổng Minh nói đây là phải đương đầu với tài trí của Tào Tháo cùng mấy vạn dân theo Tào đó.

Nội tình việc đem vua về Hứa đô.
Tuy nhiên, danh vị Hoàng Đế không phải hoàn toàn không còn chỗ nào khả dĩ lợi dụng. Hoàng Đế vẫn có thể là phương tiện tốt cho một thủ đoạn chính trị.
Tào Tháo đánh bại Lã Bố, tái bình định Duyện Châu nhằm thời gian Hiến Đế lên ngôi đủ sáu năm. Mấy tháng sau, Hiến Đế trở về Lạc Dương, lực lượng Tào Tháo ở Hoài Dương cách Lạc Dương không bao xa. Hiến Đế trong tay bọn Lý Thôi, Quách Dĩ chẳng khác gì cá nằm trên thớt. Các cận thần của Hiến Đế mới bầy mưu cho Hiến đế vời Tào Tháo đem binh về triều. Sở dĩ có mưu kế này là vì trong triều đã quá loạn lạc, các thế lực xung đột giằng co bất phân thắng bại.

Tam quốc chí Lã Bố truyện chép: “Hán Hiến Đế lúc ở Hà Đông, từng hạ chiếu gọi Lã Bố đến giúp. Chiếc thân phiêu bạt, Lã Bố nhận chiếu thư mà vô kế khả thi”. Nhu yếu cầu ngoại viện của triều đình đã lên đến cực độ. Tào Tháo bình định xong Duyện Châu, đang cần bành trướng sang phía Tây Nam chiếm nốt Dự Châu, dòm dỏ Lạc Dương, thì mưu mời Tào Tháo của các quan trong triều khác gì mâm cỗ sẵn cho họ Tào vậy. Tào Tháo cân nhắc: “Ủng hộ Hiến đế lợi hơn đánh đổ Hiến Đế”, cho nên Tháo mới chọn lộ tuyến cần vương. Nhờ danh nghĩa cần vương, Tào Tháo vừa chiếm lĩnh Lạc Dương mà không mất công chiến trận máu đổ xương rơi. Tại Lạc Dương, Tháo gặp Đổng Chiêu. Chiêu bầy kế cho Tháo thiên vua Hán Đế về Hứa Đô cho gần căn cứ, rồi sau hãy tiêu diệt các lực lượng. Ngoài việc bầy mưu, Đổng Chiêu còn tự thân viết thư thuyết phục bọn Dương Phụng đừng cản trở việc rời đô, khi Phụng tỉnh ngộ thì quá muộn.

Rước Hiến Đế về Hứa Đô rồi, Tháo lần lượt đánh phá các phe đảng vẫn có thế lực xưa nay ở khu vực trung tâm như Hàn Tiêm, tàn quân Thôi - Dĩ, Dương Phụng để thực hiện công cuộc thống nhất toàn bộ chính trị, quân sự trong khu vực này. Chính trị họ Tào bây giờ ví như dòng sông lớn cuộn chẩy, mặc dầu có những xoáy nước nhưng sông lớn vẫn xuôi theo chiều của nó. Chỗ hơn người của Tào Tháo, là tầm nhận thức chính trị rộng rãi, đại cục. Do đó Tào Tháo mới được những tay hào kiệt loại Đổng Chiêu, mặc dù không phải là mưu thần sách sĩ của Tào Tháo mà cũng ra sức giúp đỡ Tháo.

Vụ chiếu chỉ đai áo
Ở Hứa Đô, trên danh nghĩa, Tháo làm Tể tướng nhà Hán, nhưng trên thực tế Tháo đã chiếm giữ một địa bàn quan trọng. Để ổn định Quốc gia, Tháo lập chính sách dập tắt hơi lửa tàn của hệ thống thống trị cũ là bọn bá quan triều thần. Mở đầu, Tào Tháo trục Dương Bưu và Triệu Phạm. Tào Tháo tổ chức cuộc đi săn Hứa Điền để dò xét phản ứng của từng người. Nhờ việc đi săn Hứa Điền mà Tào Tháo phát hiện được âm mưu do Đổng quốc Cữu cầm đầu. Tam quốc Chí diễn nghĩa viết nguyên nhân vụ đai áo chiếu như sau:

Về cung, nghĩ đến việc đi săn hôm ấy, vua tủi mà khóc bảo vợ là Phục Hoàng hậu rằng:
Ta từ khi lên ngôi đến giờ gặp nhiều gian hùng. Trước thì Đổng Trác, sau thì Lý Thôi, Quách Dĩ. Những điều khổ ải người ta chưa từng thấy bao giờ, ta và Hoàng hậu đều đã nếm trải cả. Đến nay gặp Tào Tháo, tưởng nó là bầy tôi xã tắc, không ngờ nó lộng quyền tự làm uy làm phúc. Ta trông thấy nó bao giờ là như chông gai cắm vào lưng bấy giờ. Hôm nay, nó ra nhận lời chúc mừng của các quan thật là vô lễ. Nay mai tất có vạ, vợ chồng ta chưa biết chết chỗ nào.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Phục Hoàng hậu nói:
Công khanh đầy triều, đều ăn lộc nhà Hán, chẳng lẽ lại không có ai cứu được quốc nạn sao?
Phục Hoàng hậu nói chưa dứt lời thì có một người ở ngoài bước vào tâu rằng:
Xin vua và Hoàng hậu đừng lo, tôi xin cử một người có thể cứu được nạn nước.
Vua trông ra thì là bố đẻ Phục Hoàng hậu là Phục Hoàn. Vua gạt nước mắt hỏi rằng:
Quốc trượng cũng biết giặc Tào Tháo nó chuyên quyền à?
Hoàn nói: Xem như việc bắn hươu ở Hứa Điền thì ai chẳng biết, chỉ vì cả triều văn võ phi là họ hàng Tào Tháo thì là đầy tớ của nó. Nếu không phải quốc thích thì ai chịu hết lòng đánh giặc. Lão thần không có quyền thế gì, khó làm nổi việc ấy, nhưng có Xa kỵ Tướng quân Đổng Thừa có thể tin cậy được.
Vua nói: Đổng Quốc cữu nhiều lần liều mình với nạn nước, ta vốn đã biết, nên mời vào trong cung để bàn việc lớn.

Hoàn nói: Tả hữu ở đây đều là tâm phúc của Tào Tháo, nếu việc tiết lộ sẽ xẩy ra vạ to.
Vua hỏi: Thế thì nên làm thế nào?
Hoàn nói: Tôi có một kế, Bệ hạ nên cho may một cái áo bào và làm một cái đai ngọc, mật ban cho Đổng Thừa, ở trong đai để tờ mật chiếu. Khi về thấy tờ chiếu, Thừa sẽ ngày đêm nghĩ kế thi hành, thế thì dù quỉ thần cũng không biết được.[4]
Đổng Thừa nhận chiếu chỉ Hiến Đế, về nhà rủ bọn Vương tử Phục, Sung Tập, Ngô Thạc, Mã Đằng, Lưu huyền Đức lập kế giết Tào Tháo.

Năm Kiến An thứ 5, Đổng Thừa bệnh, vua biết tin sai quan thái y Cát Bình đến chữa. Đổng Thừa nhân cơ hội rủ Cát Bình cộng tác, rồi cùng bọn Vương Tử Phục bàn dùng Cát Bình đầu độc Tào Tháo. Chẳng may người đầy tớ nhà Đổng Thừa phản bội, đem chuyện tố cáo với Tháo. Cát Bình bị bắt quả tang, Tào Tháo sai bắt luôn bọn Vương tử Phục, Đổng Thừa giết hết cùng với Đổng Phi. Kinh dịch có câu: “Quân bất mật tất thất thần, thần bất mật tất thất thân, cơ sự bí mật tất hại thành” (nghĩa là: vua không kín đáo thì hại bề tôi, bề tôi không kín đáo thì hại đến thân, làm việc không kín đáo tất thất bại), thật rất hợp cho hoàn cảnh bọn Thừa – Phục. Giết xong nhóm quần thần đối lập, Tào Tháo truyền lệnh rằng: “Từ nay về sau, những người ngoại thích và tôn tộc nhà vua không được phép ta mà tự tiện vào cung thì cứ chém”. Vụ này duy có Lưu Huyền Đức nhanh chân “chuồn” được. Vương nghiệp Hán từ sau cái chết của Đổng Thừa kể như không còn nữa. Vụ chiếu đai áo, Tam quốc chí diễn nghĩa sao chép mấy câu thơ khen Đổng Thừa:

Chớ kể thành hay bại.
Nghìn thu trung nghĩa bền.

Xét cho cùng, Đổng Thừa không xứng đáng với lời tán dương trên đây. Đổng Thừa bất quá chỉ là một đứa con hoang bệnh hoạn của mối tình giữa quân phiệt Đổng Trác với Hán triều đã què quặt. Với cái xuất xứ chính trị tàn phế ấy, việc làm của bọn Đổng Thừa mang thuần tính cách phản động. Có lẽ Lưu Huyền Đức cũng nhận thấy như thế mà bỏ trốn trước chăng?

Lưu Huyền Đức
Nhân một lần Tào Tháo dẫn Lưu Bị tới gặp Hiến Đế, Hiến Đế hỏi Lưu Bị: Tổ ngươi là ai? Lưu Bị tâu: tôi là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương, cháu xa đức Hiếu Cảnh Hoàng Đế, cháu Lưu Hùng và con Lưu Hoằng.
Vua lấy sổ tôn tộc ra kiểm xem thấy:

Hiếu Cảnh Hoàng Đế sinh mười bốn con, con thứ bẩy là Trung Sơn Tĩnh Vương, tên Lưu Thắng, Thắng sinh ra Lưu Chinh. Chinh sinh ra Lưu Ngang, Ngang sinh ra Lưu Lộc v.v.. và trải thêm hai chục lần sinh đẻ nữa đến Lưu Bị.
Vua so trong thế phả thì Lưu huyền Đức vào hàng chú, Vua mừng lắm mời vào Thiên điện làm lễ nhận họ. Vua bấy giờ nghĩ bụng rằng:
“Tào Tháo lộng quyền, việc nước không tự ta làm chủ. Nay người chú anh hùng, may ra ta có người giúp”.

Thân phận hậu duệ nhà Hán của Lưu Bị quả là mơ hồ. Sở dĩ Hiến Đế nhận ngay bằng chú và Lưu Bị cũng im lặng là vì cả hai đều có nhu yếu chính trị bên trong. Giả thử, Lã Bố bỏ họ Lã mà lấy họ Lưu, rồi cũng nói đại là con cháu Trung Sơn Tĩnh Vương thì Hiến Đế cũng chẳng ngần ngại gì gọi Bố bằng chú. Hai chữ Hoàng thúc trong đầu óc Hiến Đế không mang ý nghĩa máu mủ họ hàng nào hết.
Vậy nên luận về Lưu Bị, không thể xét trên cái lý lịch tôn thất, mà xét trên lý lịch “dệt chiếu, bán chiếu”.

Lưu Bị là một người lái buôn nơi thị tứ, gia sản trung bình. Tính tình Bị hào kiệt, từ thủa thiếu thời có nhiều bạn, phần lớn là loại thành thị buôn bán.
Nguyên nhân khiến Lưu Bị nhẩy vào vũ đài chính trị khởi từ việc hai đại thương gia Tô Song và Trương Thế Hoà (hay Trương Thế Bình) thuê Lưu Bị vũ trang hộ tống hàng hoá của họ chống lại quân Khăn Vàng. Ít lâu sau anh em Lưu Bị mới hưởng ứng việc mộ quân của Lưu Yên.

Tâm chất Lưu Bị khả dĩ thu gọn vào mấy điểm: “Không ưa đọc sách lắm, thích chó ngựa, khoái âm nhạc, ăn mặc quần áo đẹp, sính kết giao với các hào kiệt". Tóm lại Lưu Bị hoàn toàn mang tác phong một anh hùng thành thị, thương nhân tiểu tư sản.
Đem so sánh với Tào Tháo về học vấn, Tháo vượt xa Lưu Bị. Tào Tháo quyền trí, làm thơ, viết sách quân sự, Lưu Bị không. Tuy thế Lưu Bị chẳng phải người thiếu sở trường. Sở trường của ông ta là: Chịu đựng, nhẫn nại, khoan hậu, khiêm hư, biết dùng người, dùng người đúng chỗ, yêu mến cán bộ, về cái học thực tế kể ra Lưu Huyền Đức cũng chẳng kém Tào Tháo bao nhiêu.

Tào Tháo dựa vào quyền trí mà tranh thủ địa vị. Lưu Bị dựa vào cảm tình quần chúng mà tranh thủ địa vị. Vốn là người hồ hải, tang bồng, nên Bị nhận thức được tầm quan trọng của quần chúng và cán bộ quan hệ với sự nghiệp chính trị, vì vậy ngay cả lúc lưu ly, phiêu bạt, Lưu Bị không bao giờ quên săn sóc đến đội ngũ, đến dân chúng. Người dân Tân Dã có câu hát ca tụng đức tính yêu dân của Lưu Bị như sau:

Tân Dã mục
Lưu Hoàng Thúc
Từ khi đến đây
Dân được sung túc.

Ông thường nói: “Làm việc lớn, phải cần người, nay người về với ta nỡ nào lại bỏ”. Nhờ đức tính yêu người mà Lưu Bị dầu năm bẩy phen thất điên bát đảo, các cán bộ ly tán đều tìm cách trở về với ông.

Cuộc đời chính trị của Lưu Bị có hai quan niệm trọng đại đáng kể, đã làm cho ông giác ngộ thay đổi quan niệm chính trị và thay đổi hẳn thân thế sự nghiệp ông.
Quan kiện thứ nhất: ông xin Tào Tháo cho đem quân đi chặn đánh Viên Thuật để tránh vạ chu diệt. Đầu đuôi là: Lưu Bị sau khi ký vào tờ chiếu đánh giặc Tháo, mấy ngày sau Tháo sai người vời đến, tiếng rằng uống rượu thưởng mai, nhưng thực ra Tào Tháo muốn dò xét hoạt động của nhóm triều thần. Đàm luận với Tào Tháo xong, về nhà, Lưu Bị biết chắc âm mưu Đổng Thừa chẳng chóng thì chầy cũng vỡ lở, ông nghĩ ngay kế thoát thân, liền thưa cùng Tào Tháo:

Nếu Thuật sang với Thiệu, tất phải qua Từ Châu, tôi xin lĩnh một cánh quân đi đón đường đánh chắc bắt được.
Tào Tháo cười nói:
Để ngày mai tâu vua rồi sẽ khởi binh.
Hôm sau Huyền Đức vào gặp vua, Tào Tháo sai Huyền Đức đốc suất năm vạn quân sĩ, lại sai Chu Linh, Lộ Chiêu cùng đi.
Huyền Đức về nhà trọ, nửa đêm thu xếp khí giới và ngựa chiến, đeo ấn tướng quân đốc thúc để đi cho chóng. Quan, Trương hỏi rằng: “Sao phen này anh đi vội vàng vậy”. Lưu Bị nói: “Ta ở Hứa Đô như chim lồng cá lưới, chuyến này đi như cá vào bể lớn, chim lên mây xanh, không bị giam hãm trong lồng trong lưới nữa”. Nói xong, thúc quân mã đi cho mau.

Bấy giờ ở Hứa Đô, Quách Gia và Trình Dục đi khám xét tiền lương về nghe thấy Tào Tháo sai Lưu Bị đem binh sang Từ Châu vội vàng bẩm rằng: “Sao Thừa tướng lại sai Lưu Bị đi đốc binh?” Đời sau có thơ rằng:
Gióng ngựa dục quân, lòng vội vã
Nỗi lo canh cánh, chiếu trong đai
Hổ tung cũi sắt về rừng rậm
Rồng phá then vàng ra bể khơi.
Thơ đó chẳng đúng với tâm trạng và hoàn cảnh:
Ra đi thì sự đã liều
Mưa mai không biết, nắng chiều không hay

của Lưu Bị chút nào. Chuyến đi hấp tấp này mục đích để giữ cho thủ cấp khỏi rơi chứ đâu phải tâm trạng hổ về rừng rậm, rồng về biển khơi. Từ nay Lưu Bị bỏ hẳn đường lối dựa vào các triều thần cũ mà gây uy thế chính trị, đồng thời Lưu Bị cũng kiểm soát lại khả năng của mình, ông thấy cần phải đứng về phía lực lượng trí thức bình dân đang trưởng thành.
Quan kiện thứ hai: gặp gỡ Gia Cát Khổng Minh. Trốn khỏi Hứa Đô bị Tào Tháo đuổi đánh, thua, Lưu Bị sang nương nhờ Viên Thiệu, Thiệu thất trận, Huyền Đức bỏ đi với Lưu Biểu. Sái Mạo tướng của Lưu Biểu lập kế đuổi Huyền Đức, Huyền Đức qua Nam Dương gặp Khổng Minh. Khổng Minh bày kế:
Đây là địa đồ 54 châu ở Tây Xuyên. Tướng quân muốn thành Bá nghiệp thì phải nhường thiên thời cho Tào Tháo ở phía Bắc, nhường địa lợi cho Tôn Quyền ở phía Nam, còn Tướng quân thì nắm vững lấy nhân hoà. Trước hãy chiếm Kinh Châu làm căn bản, sau đến lấy Tây Xuyên dựng cơ đồ, hình thành cái thế chân vạc, sau mới tính đến Trung nguyên được.

Lời nói trên đây mở đường vào cuộc đấu tranh Tam quốc, toàn bộ sự nghiệp, chính lược, chiến lược của Lưu Bị cũng theo cuộc đối sách ở Long Trung mà chuyển thành.
Hai người đàn bà có ảnh hưởng đến đời chính trị của Lưu Bị
Cái tài ăn nói duyên dáng của Gia Cát Khổng Minh không những chỉ ở những cuộc du thuyết hoặc trên bàn ngoại giao, nó còn được sử dụng tài tình để kéo về cho Lưu Bị hai bà vợ, ảnh hưởng đến chính cục nước Thục.
Hai người đàn bà ấy là Tôn phu nhân (Tam quốc chí diễn nghĩa có kể tỉ mỉ) và Mục Hoàng Hậu (Tam quốc chí diễn nghĩa không nhắc đến).
Tôn phu nhân là em khác mẹ của Tôn Quyền. Trong chuyện không chú ý đến nhan sắc, mà chỉ tả nàng với những cử chỉ cân quắc anh hùng.
Đặc điểm của cuộc hôn phối giữa Tôn Phu Nhân và Lưu Bị là chính trị chứ không phải là tình ái.

Tam quốc chí diễn nghĩa, La Quán Trung kể:
Qua vài hôm, quân do thám về báo:
Trong thành Kinh Châu cắm nhiều cờ trắng, ngoài thành mới xây một nấm mồ mới, quân sĩ đều mặc đồ tang.
Du ngạc nhiên hỏi:
Ai chết thế?
Quân do thám đáp:
Cam Phu nhân mới chết, bên ấy đang sửa soạn ma chay.
Du bảo Lỗ Túc rằng:
Kế ta nhất định thành công! Phen này quyết làm cho Lưu Bị phải bó tay chịu trói. Kinh Châu lấy lại dễ như trở bàn tay.
Túc hỏi: Kế ra làm sao?

Du đáp: Lưu Bị chết vợ, tất nhiên phải lấy vợ khác. Chúa công có cô em gái hùng dũng lắm, luôn có vài trăm thị tỳ cắp gươm hầu bên cạnh, trong phòng lại bầy la liệt đủ thứ vũ khí, ngay đàn ông cũng không giỏi bằng. Ta dâng thư lên Chúa công, rồi cho người sang Kinh Châu làm mối, rủ Lưu Bị sang đính hôn rồi lừa hắn đến Nam Từ, không gả người cho mà giam lại. Đoạn sai người đến đòi Kinh Châu đánh đổi Lưu Bị.

Rồi qua những hồi thứ 54, 55, 56 La Quán Trung nói đến các kế sách mà Khổng Minh dùng phá Chu Du trong công cuộc gả bán như sau: Phao tin cưới để Ngô Quốc Thái xen vào, Lưu Bị giả vờ khóc lóc, Lưu Bị nói khích Tôn phu nhân, đón vợ chồng Lưu Bị ở đầu sông. Đó chẳng qua là câu chuyện được tiểu thuyết hoá cho ly kỳ để nâng cao thú vị.
Sự thật, Lưu Bị làm rể Đông Ngô hoàn toàn do sự thoả thuận của Tôn Quyền. Về phần Tôn phu nhân nàng cũng vui lòng nhận cuộc gả bán vì chính trị chứ không vì yêu thương. Còn phần Lưu Huyền Đức thì dĩ nhiên anh chàng bằng lòng rồi bởi vì Lưu Bị vẫn ưa lấy thêm vợ. Chính trị ở đây đã tạo nên một hỷ kịch chứ không phải một bi kịch.
Tôn phu nhân là người đàn bà cực thông minh, nàng hiểu rõ quan hệ Ngô Thục, nên hiến thân cho Lưu Bị. Cho nên khi nước Ngô cần nàng, nàng vẫn sẵn sàng về với Tổ quốc. (Xem lại hồi 61, Triệu Vân chặn sông đoạt A Đẩu).

Do chính trị, nên Tôn phu nhân tuy cùng nằm chung giường với Lưu Bị nhưng mộng hai người vẫn khác nhau. Tôn phu nhân đem thân làm dâu một nơi xa quê hàng ngàn dặm là nàng đã tự giao mình cho một sứ mạng chính trị, đem đất Thục về cho Ngô.
Khổng Minh rõ sự thế ấy lắm nên thường nói: “Mối lo sát nách là Tôn phu nhân gây biến động”. Bởi vậy ông luôn luôn căn dặn Triệu Vân, Pháp Chính và Trương Phi đề phòng.
Sau khi thất bại với mưu toan mang A Đẩu về Ngô làm con tin, Tam Quốc chí diễn nghĩa không nói gì đến cuộc đời của Tôn phu nhân nữa. Nhưng theo truyền thoại thì lúc nghe tin Lưu Huyền Đức chết ở trận Bạch Đế, Tôn phu nhân vật vã khóc mấy ngày rồi tự trầm chết cho vẹn toàn nghĩa vợ chồng. Lối xử sự của Tôn phu nhân đáng kể là một kỳ nữ.

°°°
Mục Hoàng hậu là con nhà họ Ngô. Họ này rời bỏ quê quán theo Lưu Yên vào Thục. Chuyện đầu cuối như sau:
Cuối Hán, thời vua Linh Đế, thiên hạ loạn ly, danh thần Hán là Lưu Yên muốn yên thân nên dâng sớ xin vua cho đi làm thái thú quận Giao Chỉ. Nhưng sau nghe thầy số nói có khí tượng Thiên Tử ở Ích Châu, nên Lưu Yên đổi ý xin chuyển sang đất Thục làm Ích Châu mục.

Đi theo Lưu Yên có toàn bộ tôn tộc nhà họ Ngô. Họ này có cô gái rất mực xinh đẹp, thông tuệ khác thường, thêm nữa được thầy tướng ca tụng không ngớt về quí tướng của nàng. Lưu Yên mới hỏi con gái họ Ngô cho con trai mình là Lưu Mạo.
Lưu Mạo tính khí điên điên khùng khùng không xứng với Ngô thị, nên dân chúng đương thời thường ví cặp vợ chồng này như phượng hoàng với quạ đen.

Ít lâu sau, âm mưu hùng cứ của Lưu Yên bị lộ, Hoàng Đế bèn sai con út của Lưu Yên là Lưu Chương về khuyên răn cha. Lưu Chương đến nơi thì vừa vặn Trung Nguyên loạn lớn, Hiến Đế lên ngôi và Đổng Trác nắm quyền. Lưu Yên bèn giữ con ở lại Ích Châu. Cùng lúc đó, con lớn của Lưu Yên là Lưu Phạm thông mưu với Mã Đằng phản Hán nên bị triều đình giết chết. Lại một việc khác xẩy đến là kinh đô Ích Châu bị trời ra tai cháy lớn, Lưu Yên buồn phiền thành bệnh mà chết. Truyền thoại nói rằng: lúc cháy, Lưu Mạo nhát sợ trốn vào góc nhà còn Ngô thị dùng kiếm lệnh của chồng đứng chỉ huy quan quân chữa cháy rất có trật tự. Sau vụ này Lưu Mạo bị mọi người chế diễu, nên mắc cỡ mà điên thật.

Chức Thứ sử vì thế mà lọt vào tay Lưu Chương.
Đến lúc Tào Tháo về Trung nguyên nắm quyền, Lưu Chương dâng biểu về và được Hán triều phong cho làm Trấn Uy tướng quân, còn Lưu Mạo làm Bình Khấu tướng quân.
Công việc trong quân phủ của Lưu Mạo đều do một tay Ngô thị quán xuyến. Nhiều lần Lưu Chương định cướp luôn chức của Lưu Mạo, nhưng e Ngô thị, Lưu Chương đành thôi.
Về sau Lưu Mạo chết, Lưu Chương tin lời đoán của thầy tướng nên tỏ ý muốn đón Ngô thị sang phủ làm vợ lẽ. Ngô thị dùng Đạo đức Khổng Mạnh để phá bỏ ý tưởng của Lưu Chương, Lưu Chương cũng sợ người đời chê cười hại cho uy tín sự nghiệp nên không dám cưỡng.

Ba năm qua, Lưu Bị vào Thục, Lưu Chương ra hàng. Lúc này Ngô thị tuổi đã trên ba mươi, nhưng nhan sắc vẫn còn lộng lẫy lắm. Lưu Bị trông thấy đã mê tít cung mây, Bị đem tâm sự trình bầy với Gia Cát Khổng Minh, nhờ Gia Cát đi hỏi. Ngô thị ban đầu từ chối, sau nhờ cái lưỡi lý luận của Khổng Minh, Ngô thị mới ưng chịu.
Lấy Ngô thị rồi, Lưu Bị xưng Đế phong Ngô thị làm Hoàng hậu. Đến đây lời thầy tướng mới nghiệm.

Ảnh hưởng của Ngô thị vào sinh hoạt chính trị của Thục là việc: Ngô thị mến Lưu Thiện nên vận động cho Lưu Thiện kế vị Lưu Bị. Nếu không có Ngô thị thì ngôi đế Thục về tay Lưu Vĩnh như ý Lưu Bị vẫn muốn từ trước, và rất có thể chính trị nước Thục đã đổi khác hẳn.

____________________
Chú thích:
[1] Trong Tam Quốc chí diễn nghĩa, việc Toản đánh Ký Châu là do chính Viên Thiệu sai, rồi lật lọng đánh Công tôn Toản
[2] Tam Quốc Chí diễn nghĩa hồi thứ mười
[3] Tam Quốc Chí diễn nghĩa hồi thứ mười một, bản dịch của Phan Kế Bính
[4] Tam quốc chí diễn nghĩa hồi thứ 20. Bản dịch: Phan kế Bính
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

7
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
- 6 -
CHIẾN TRANH VIÊN TÀO


(Trận Quan Độ)


Sách Tam Quốc Chí Nguỵ Vũ Đế bản ký chép:

Đời vua Hoàn Đế, sao Hoàng tinh mọc sáng giữa ranh giới hai nước Tống, Sở. Ân Quỳ, một nhà thiên văn ở đất Liêu Đông đoán rằng: năm mươi năm về sau tất sẽ có chân nhân khởi nghiệp tại vùng Lương Bái, sức mạnh như sấm sét. Quả nhiên đúng 50 năm, thì Tào phá Viên Thiệu, thế lớn chẳng ai bằng.

Những lời ghi chép trên đây chứng tỏ đương thời rất coi trọng cuộc chiến tranh Viên Thiệu-Tào Tháo, dân đoán đó là một trận đánh quyết định cục diện chính trị lúc bấy giờ.
Tháo cướp đoạt chính quyền Trung Ương, chiếm lãnh toàn bộ khu vực Trung nguyên, các lực lượng đối lập đều bị đè bẹp chỉ duy Viên Thiệu là kẻ địch lớn của Tháo mà thôi. Viên Thiệu chẳng những đất rộng binh cường, danh vọng trong xã hội lại rất cao nữa.
Có thể nói, trước trận Quan Độ, thiên hạ còn trong tay Viên Thiệu. Nhưng sau trận Quan Độ, thiên hạ chuyển về tay Tào Tháo.

Sự thất bại của Viên Thiệu được hậu thế nhìn nhận như thế nào? Trước đó người ta thấy nhiều luồng dư luận khác nhau, hết thẩy đều chê Thiệu, hoặc nhẹ hơn thì ngậm ngùi đổ thừa cho số phận. Đặc biệt Tam Quốc Chí diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung cũng muốn tạo tính điển hình cho một nhân vật tiểu thuyết nên Viên Thiệu đã phải chịu những phê phán cực nghiêm khắc. Qua ngọn bút La Quán Trung, Viên Thiệu không khác gì một con khỉ, càng trèo cao càng khiến cho người ta trông thấy cái đít đỏ của nó.
Viên Thiệu dưới mắt La Quán Trung

Viên Thiệu là một nhà chính trị bất tài, múa rối và ngu xuẩn. Viên Thiệu không có lấy một đức tính nào tốt cần thiết cho địa vị lãnh đạo đoạt Ký Châu, Thiệu chỉ nhằm vơ vét của cải mà không biết thu dụng những tài năng. Tuân Úc, người mưu sĩ lỗi lạc của Tào Tháo, đã từng ở bên cạnh Thiệu. Vì trông rõ tác phong thấp hèn của Thiệu nên sớm bỏ sang bên Tào Tháo. Trong một cuộc đàm thoại với Tào Tháo, Úc nhận thấy Thiệu như sau:

Ngoài mặt thì bao dung nhưng lòng lại đố kỵ.
Do dự không quyết đoán để hỏng việc về sau.
Trị quân lỏng lẻo, chấp lệnh không nghiêm, quân nhiều mà vô dụng.
Cậy là kẻ quyền uy, chuộng hư danh nên chỉ có những kẻ hẹp hòi, thấy lợi thì giúp phụng.

Đại kế chính trị của Viên Thiệu lẽ ra là phải nghênh giá Hiến Đế tại Nghiệp quận. Bằng căn cứ rộng lớn, quân số trăm vạn, nếu Thiệu biết nghe lời Thư Thụ, sớm mượn ngay danh nghĩa Thiên Tử sai khiến khắp chư hầu thì đâu đến nỗi gia phá mạng vong. Thư Thụ khuyên Thiệu: “Ví như không biết tính sớm, tất có kẻ làm trước ta, quyền chỉ đến từng cơ hội. Tướng Công cần phải làm tấn tốc”. Nhưng Thiệu cứ dùng dằng, đến lúc Tào Tháo nhanh chân Thiệu mới quyết định thì đã muộn.

Về quân sự, Viên Thiệu hoàn toàn dốt nát. Chiến dịch Quan Độ, trên tương quan lực lượng, binh Thiệu ở ưu thế tuyệt đối, quân số gấp mười binh Tào, lương thảo đầy đủ hơn Tháo bội phần. Thế mà chỉ vì 5,000 kỳ binh của Tào Tháo, khiến toàn bộ lực lượng Thiệu tan tác như hoa rơi, bình vỡ. Trước hết Tào Tháo giải quyết hai võ tướng ưu tú của Thiệu là Nhan Lương, Văn Xú sau rồi mới dẫn binh tới Quan Độ. Ở Quan Độ, Tháo phân hoá hàng ngũ Thiệu, phân thế lực Thiệu rồi đánh tấp vào chỗ yếu nhất là kho lương Ô Sào. Thiệu thua trận là tại Thiệu không biết nghe lời Điền Phong chủ trương chiến tranh lâu dài với Tháo.

Nhưng cái nguyên nhân to tát nhất tạo ra thất bại ê chề của Thiệu dưới mắt tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa là:

Thiệu không có tư cách lãnh tụ để sử dụng nhân tài và ứng phó biến chuyển.
Mưu sĩ Điền Phong ở Quan Độ nói với Thiệu rằng: “Tào Tháo tài dùng binh, quân lực Tào tuy ít ta chớ nên khinh địch, chẳng bằng hãy giữ thế lâu dài. Tướng quân hiện có bờ cõi chắc chắn, dân chúng bốn châu đông đúc, bên ngoài nên kết nạp anh hùng, bên trong nên phát động nông chiến. Kéo dài chiến tranh để làm giảm nhuệ khí quân Tào rồi ta phân kỳ binh, tìm chỗ yếu mà đánh. Tào mà cứu bên tả thì ta đánh riết bên hữu, Tào cứu phía hữu thì ta đánh riết phía tả, khiến địch quân vất vả khó nhọc. Chắc trong vòng hai năm phần thắng phải về tay ta.

Ngoài ra Viên Thiệu thêm tật kiêu. Trước thời cục nguy ngập, bao giờ Thiệu cũng cho chỉ có mình cứu nổi tình thế. Tự kiêu, tự đại, tự mãn. Thiệu trở thành con người không thèm nghĩ điều hay lẽ phải. Mỗi ngày mỗi ngu tối, Thiệu như người sa chân xuống vũng lầy.

Lật lại chiến dịch Quan Độ - Xét lại trường hợp Viên Thiệu
Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa mọi người thường nghĩ giống nhau trên một điểm: “Chê trách Viên Thiệu đất lớn, binh mạnh mà không sớm biết giành thiên hạ, ngay khi Tào Tháo còn chưa bình định xong Hà Nam, lại ngồi nhìn Tào Tháo phá Đào Khiêm, hạ Lã Bố, thâu tóm Lưu Bị, đánh đuổi Viên Thuật, chiếm quyền Lạc Dương rồi mới phát động chiến tranh với Tháo là một đường lối chính trị “trông đợi” đại bại.

Ông Mao tôn Cương bình luận chiến tranh Viên, Tào viết:
- Lúc Tháo đang đánh Lã Bố, Thiệu có thể đánh úp Hứa Đô mà không đánh là một điều lầm lỡ. Lúc Tháo đang đánh Lưu Bị, Thiệu cũng có thể giốc lực đánh úp Hứa Đô mà Thiệu cũng không làm là hai điều lỡ. Lã Bố thua rồi, Lưu Bị chạy rồi Thiệu mới đánh Tào thì đã muộn quá lắm. Quân đội ở Quan Độ lẽ ra Thiệu phải chia hai mặt, một chống ở tiền tuyến, một đánh thẳng vào hậu phương của Tào Tháo mà Thiệu không làm là ba điều lỡ.

Sự thực, biến cố chính trị không có tính cách một chiều như những lời phê phán kể trên.
Nói đến chiến tranh thì trước hết phải ổn định được nội bộ, phải có một phương an toàn, giàu mạnh đã. Phê phán chiến tranh Viên, Tào ta đừng nên quên những mối lo nội bộ của mỗi bên. Chiếu theo niên lịch nhà Hán thì Viên Thiệu mãi tới năm Kiến An thứ 4 tháng 3 mới giải quyết xong Công tôn Toản, trong khi Tào Tháo đánh bại Lã Bố từ mùa đông năm Kiến An thứ 3. Đến mùa xuân năm Kiến An thứ 4 quan Thái Thú đất Hà Nội là Trương Dương bị bộ hạ là Trương Xú giết chết.

Trương Xú lại bị Khuê Cố hại, Cố quy thuận Viên Thiệu. Tào Tháo liền khởi binh đánh Khuê Cố, tháng tám năm ấy Tào Tháo tiến binh đến Lê Dương đồng thời chia quân phòng thủ Quan Độ, thế lực lan rộng đến Hà Bắc.

Bên Viên Thiệu, sau khi diệt Công tôn Toản, Thiệu bèn phái con trưởng là Viên Đàm giữ Thanh Châu, con thứ là Viên Hy giữ U Châu, và cháu ngoại là Cao Cán giữ Tinh Châu. Bố trí như vậy không đến nỗi chậm.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

- Còn bảo Viên Thiệu ngồi chờ Tào Tháo vào Trung Ương dùng Thiên Tử sai chư hầu thì không đúng. Bởi vì, ngay khi Tào Tháo thiên Hiến Đế về Hứa Đô, Thiệu đã từng đem quân lực uy hiếp Tháo buộc phải đưa vua tới Yên Thành, thành này thuộc phạm vi thế lực Thiệu. Thiệu vốn vẫn chủ trương không nhận Hiến Đế. Hành động này chứng tỏ Thiệu không phải là con người chậm chạp xoay chuyển lập trường để ứng phó với tình hình thực tiễn. Tháo dĩ nhiên không nghe, lẽ ra chiến tranh Viên Thiệu bùng nổ ngay từ lúc ấy, nhưng nội bộ Thiệu lủng củng ở vùng Hà Bắc nên Thiệu đành bỏ qua để cho Tào Tháo thắng mình một bước. Hơn nữa nghênh giá hay không nghênh giá chẳng có liên quan chi đến sự thất bại của Viên Thiệu là mấy. Vậy không thể trách Thiệu là thất sách trên vấn đề tranh thủ “oai vua” được.

Bên Tào Tháo, thời gian đó không phải đã hoàn toàn rảnh tay, mối lo của Tào Tháo là bọn Trương Tú ở Nhương huyện. Địa thế Trương Tú mặc dầu phía Nam có thể liên kết với Lưu Biểu nhờ tiếp tế, nhưng Trương Tú nghe lời Giả Hủ đầu hàng Tào Tháo. Sở dĩ Giả Hủ khuyên Tú theo Tào vì hai lẽ:

Thế của Tú khó thắng nổi Tào, Viên Thiệu thì ở xa, Lưu Biểu thì chỉ muốn nhàn không muốn động.

Hủ cũng như các phần tử trí thức tiến bộ khác, bênh vực sự an toàn của đại cục, đấu tranh cho khuynh hướng thống nhất.

Trương Tú về với Tào Tháo tháng mưới một năm Kiến An thứ 4 thì tháng 12 Tào Tháo tiến binh tới Quan Độ. Nhưng vì Trương Tú lại nổi dậy, thành thử việc chiến tranh với Viên Thiệu đành phải dời sang một ngày khác. Giữa lúc Thiệu Tháo bắt đầu gay go, Trương Tú dấy binh, Tào Tháo tấn công Tú thì Viên Thiệu cũng ngọ nguậy. Lưu Bị nhanh chân xin Tháo cho đi đánh Viên Thuật, chẹn không cho Thuật liên minh với Thiệu.
Viên Thuật bấy giờ ở Hoài Nam, vì hoang dâm vô độ, khiến cho dân cùng tài tận, tự biết khó lòng đứng vững nên có ý đầu hàng Viên Thiệu. Tháo được tin liền phái Lưu Bị đem binh đi phá cuộc liên minh này. Lưu Bị thi hành xong sứ mạng, hiểu rằng không thể quay về với Tháo, liền đấy âm mưu chiếu chỉ bị lộ. Lưu Bị liền giết quan Thái thú Từ Châu là Xa Trụ rồi dồn quân đến Tiểu Bái, ra mặt chống Tào Tháo. Tháo sai Lưu Đại và Vương Trung đánh Bị đều bị Huyền Đức đánh bại.

Tháo sợ Lưu Huyền Đức mọc vây mọc cánh bèn quyết định động chinh diệt Lưu Bị. Việc này sách Tam Quốc Chí Nguỵ Vũ Đế bản ký chép như sau:

Các Tướng nói: Người tranh thiên hạ với Ngài (chỉ Tào Tháo) là Viên Thiệu, nay Thiệu mới đến mà bỏ sang Đông, nhỡ Thiệu đánh vào phía sau thì làm thế nào? Tháo nói: Lưu Bị là nhân kiệt, Viên Thiệu tuy có đại chí nhưng xét việc chậm chắc không động ngay đâu.

Thiên Viên Thiệu truyện kể: “khi Tào Tháo đánh Lưu Bị, Điền Phong khuyên Viên Thiệu đánh úp phía sau Tháo. Thiệu nói: “Con ta mắc bệnh không lòng nào tính việc can qua”. Điền Phong ra ngoài lấy gậy đập xuống đất than rằng: “Chỉ vì đứa trẻ mà lỡ việc lớn”.
Những ghi chép trên đây chẳng qua chỉ là những lời phụ hội. Tháo giỏi dùng binh, hậu phương quyết nhiên không bỏ ngỏ, hơn nữa binh lực dồi dào, Tháo chắc đã giữ cẩn thận. Thêm nữa, căn cứ của Thiệu ở mãi tận Hà Bắc, muốn đánh úp Hứa Xương, trước phải vượt qua sông Hoàng Hà, khỏi Hoàng Hà còn phải đi hàng mấy trăm dặm nữa. Không thể chỉ trong vòng mười ngày mà có thể khắc phục nổi khoảng hành quân dài như thế. Bảo đem khinh binh mà đánh ư? Chống sao lại với lực lượng phòng thủ của Tào ở Hứa Đô. Còn lực lượng Lưu Bị thì rất có hạn, không đủ khả năng khiến chế quân Tào lâu được. Cho nên sự mong mỏi chính của Lưu Bị chỉ là chờ cho Viên Tào đánh nhau, rồi đứng đằng sau quấy rối mà thủ lợi. Cả Thiệu lẫn Tháo đều rõ điều này. Tháo sở dĩ tấn công Lưu Bị cũng là tại đã biết tinh tướng Lưu Bị. Tào Tháo không sợ chạm trán riêng với Lưu Bị, nhưng Tháo sợ Lưu Bị sẽ phá rối hậu phương giữa lúc chiến tranh với Thiệu bùng nổ.

Đụng độ, tự nhiên người thua là Lưu Bị, Lưu Bị chạy sang nương nhờ Viên Thiệu.
Ngoài ra có một yếu tố khác, nhiều người đọc Tam Quốc không lưu ý là: Tập đoàn vũ trang ở vùng núi Thái Sơn do Tang Bá cầm đầu. Bá trước kia phục tùng Lã Bố. Tháo đánh bại Lã Bố, chiêu hàng Tang Bá, rồi giao cho Tang Bá cai quản hai châu Thanh, Từ. Ở đây, Tang Bá có đủ lực để khiến chế Viên Thiệu cho nên Tào Tháo không sợ Thiệu tấn công mình từ mặt Bắc Sơn Đông, Tang Bá cũng có thể làm loạn ngay trong đất Hà Bắc của Thiệu.

Đến lúc vấn đề bình định nội bộ đã tạm xong. Thế là đã đến giờ phút tử chiến giữa Thiệu và Tào Tháo, vì tình trạng dằng co không cho kéo dài hơn được nữa, chiến tranh Viên Tào bùng nổ thực sự. Mở đầu là:

Tháng hai năm Kiến An thứ 5, Viên Thiệu phái Nhan Lương tấn công Bạch Hà thành thuộc Đông Quận của quan Thái Thú Lưu Diện còn Thiệu tự mình mang đại binh tới Lạc Dương. Tháng 4, Tào Tháo thống lĩnh binh đội đi cứu Lưu Diện, Tuân Du thấy Thiệu quân nhiều nên khuyên Tháo chuyển quân về hướng Tây thẳng đường Diên Tân giả vờ úp hậu phương của Thiệu. Quả nhiên Thiệu chia quân chống giữ mặt Tây. Tháo rút binh thật mau. Mặt khác lại sai Trương Liêu cùng Quan Công chặn đánh chém chết Nhan Lương. Tiếp luôn việc Thiệu qua sông. Lưu Bị cùng Văn Xú sang trước, Xú cũng bị Quan Công chém chết. Nhan Lương, Văn Xú hai danh tướng của Thiệu thất trận, làm cho thanh thế quân Tào vượt hẳn quân Thiệu. Tuy nhiên quân chủ lực của Viên Thiệu vẫn chưa hề hấn gì, cho nên thắng phụ còn phải đợi cuộc quyết chiến.

Tào Tháo thắng Nhan Lương, Văn Xú rồi, hồi binh về Quan Độ. Viên Thiệu tiến quân vào Dương Vũ, hai bên cầm cự nhau chẵn hai mươi tháng. Sau Viên Thiệu mới từ từ tiến binh, tựa vào các cồn cát mà đóng trại, suốt dọc từ Đông sang Tây trùng điệp ước mười mấy dặm. Tào Tháo chia quân chống giữ. Xuất binh quyết chiến thì thế của Tào Tháo hoàn toàn bất lợi. Viên Thiệu ồ ạt tấn công Quan Độ, trên đất đắp luỹ, dưới sâu đào hầm. Thế trận Tào mười phần nguy cấp. Phòng thủ mặc dầu quân Tào Tháo còn đủ sức, nhưng lương thực đã cạn khó lòng giữ lâu đươc. Tào Tháo tính cách thoái về Hứa Đô, viết thư cho Tuân Úc thương nghị. Vấn đề thoái rút bây giờ thật trăm khó ngàn khó, chỉ hơi động bước là quân tình nao núng ngay và Thiệu sẽ đổ ra truy kích. Tuân Úc mới phúc đáp: “Ngài đem thế rất yếu đương đầu với thế rất mạnh, nếu không chế ngự nổi địch thì địch sẽ trùm lớp ta. Bây giờ chính là giờ phút phải dùng kỳ binh, xin đừng chậm trễ”.

Ý Tuân Úc là phải quyết chiến. Tình hình đã chống lại bất cứ một sự thoái rút nào. Không thoái rút được thì phải mạo hiểm. Mạo hiểm không có nghĩa là liều lĩnh, phiêu lưu, lao đầu vào chỗ chết mà phải tìm nhược điểm của địch mà đánh. Nhược điểm đó là vấn đề vận tải binh lương. Viên Thiệu có ước chừng hơn ngàn cỗ xe phụ trách việc này. Tào Tháo cho quân gắng sức đánh phá. Mặc dầu đốt khá nhiều, nhưng cũng không làm nổi quân Thiệu nao núng. Về sau mỗi lần đi tải lương, Thiệu đều có sai Thuần vu Quỳnh đi hộ tống, khiến cho kế hoạch đốt xe lương không thực hiện hiệu quả như trước. Tháo rất lo thì may thay:

Căn cứ sách Tam Quốc Chí thì Viên Thiệu có một mưu sĩ tên là Hứa Du, tính nết cực tham tiền, Thiệu không thoả mãn được Du, Du chạy sang bên Tào, mang tin tức và bày mưu cho Tháo đánh Thuần vu Quỳnh ở chính kho chứa lương của quân Thiệu là Ô Sào.
Tháo, Tuấn Du, Giả Hủ tin theo bởi vì không còn đường nào khác hơn là nghe kế Hứa Du. Tháo liền tự mình dẫn năm ngàn bộ binh, người ngựa ngậm tăm đi đường tắt mà đến chỗ Thuần vu Quỳnh, Quỳnh thấy ít quân bèn xông ra bày thành trận thế tác chiến. Tháo hạ lệnh đánh gấp, giết chết Thuần vu Quỳnh. Ván bài Ô Sào đúng là ván bài cạn láng trong đời chính trị của Tào Tháo vậy.

Sách Tam Quốc Chí Nguỵ Vũ Đế bản ký viết:
Trương Cáp nghe tin Tào Tháo công hãm Thuần vu Quỳnh nên chạy vào khuyên Thiệu nên đem ngay đại binh cứu Quỳnh. Nhưng mưu sĩ Quách Đồ gạt đi nói: “Cứu Quỳnh không bằng đánh thẳng vào chính doanh Tào Tháo”. Trương Cáp cãi nói: “Doanh trại Tào Tháo kiên cố, đánh chắc không xong”.

Viên Thiệu nghe lời Quách Đồ, không nghe Trương Cáp nên chỉ sai ít kỵ binh đến cứu Thuần vu Quỳnh và sai Trương Cáp, Cao Lãm lãnh đại binh tấn công doanh trại Tào Tháo. Quả nhiên doanh Tào không phá nổi, mà Thuần vu Quỳnh thì bị giết chết.
Quách Đồ thấy kế mình hỏng, xấu hổ nói với Thiệu rằng: “Trương Cáp nghe tin thất trận mừng lắm”. Cáp biết Đồ dèm mình cốt để che lỗi, lo sợ Thiệu sẽ vì lời Quách Đồ mà giết hại mình nên đem quân bản bộ tìm Tào Tháo đầu hàng.

Cũng ở trong một cuốn sách, mà chép chuyện trái ngược hẳn nhau, vậy thì những chuyện kể về Trương Cáp hàng Tháo cũng như về vụ cướp phá kho binh lương Ô Sào không có gì chứng thực là đúng cả.

Lấy lý luận mà suy, ta thấy rằng:
Nơi Thuần vu Quỳnh đóng trại, tức Ô Sào, chỉ cách xa đại doanh Viên Thiệu chừng 40 dặm. Nếu cứu mà kịp thì Viên Thiệu đâu đến nỗi quá ngu ngốc lại không cứu? Vả lại lực lượng Tào Tháo chỉ có 5.000 người, trong khi đó Thuần vu Quỳnh đã có 10.000. Lại thêm 5.000 kỵ binh mà Thiệu cho tiếp viện về sau, cộng tất cả là 15.000 người, so sánh gấp ba quân Tào. Còn một điều khác nữa là, quân Thiệu đâu phải ít, Thiệu có thừa khả năng vừa đánh doanh trại Tào, vừa cứu viện Ô Sào. Những sử liệu về trận Ô Sào rất lơ mơ nên sau này người ta không rõ sự thật Ô Sào thất thủ ra sao. Tuy nhiên, theo suy luận ta có thể quyết đoán rằng: “Ô Sào đã thua rất nhanh, nhanh hơn cả thời gian quân Thiệu vượt 40 dặm đến cứu viện. Lý do nào cho Tháo mức nhanh đó không rõ, kế Hứa Du hay một lối hành quân chớp nhoáng của Tháo? Sở dĩ Tháo chỉ dùng 5.000 quân vì dùng nhiều để (dễ?) lộ, lúc tin tức đến với Thiệu thì Ô Sào đã giải quyết xong. Việc sai Cao Lãm, Trương Cáp nhằm thẳng ngay trại Tào tấn công bất quá chỉ là đòn gỡ gượng ép mà thôi.

Lực lượng Viên Thiệu bị tiêu diệt ra sao?
Thuần vu Quỳnh bị giết rồi, Trương Cáp đầu hàng rồi. Căn cứ theo Tam Quốc Chí thì: Quân Viên Thiệu vì thế mà vỡ. Viên Thiệu và Viên Đàm bỏ quân mà chạy, Tào Tháo toàn thắng. Lý lẽ của sự bại đó đại khái là: Quân Viên Thiệu đồn trú lâu ngày nên nhuệ khí tiêu tán, lòng quân giao động nên đến nỗi chỉ vài trận nhỏ đã khiến cho Thiệu không gượng dậy nổi nữa.

Tào Tháo dùng kỳ binh đánh Thuần vu Quỳnh thật là cuộc hành quân vô cùng táo bạo. Tuy nhiên, dù sao trận Ô Sào cũng không chứng tỏ tài ba chiến lược của Tào Tháo được. Tài ba ấy chỉ nổi bật lên ở chỗ Tào Tháo dám đương đầu lâu dài với Viên Thiệu, để chờ nhuệ khí bên Thiệu nhụt đi. Tháo quả biết đến ruột gan Thiệu. Thắng bại trong chiến tranh tuỳ thuộc phía nào đứng vững lâu nhất.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Sách Tam Quốc Chí, chương Viên Thiệu truyện viết:
“Viên Thiệu khi chưa xuất binh, Điền Phong đã khuyên rằng: chia binh làm nhiều cánh, thừa chỗ yếu, chỗ trống, đánh tả, đánh hữu, sẽ khiến cho quân đội mệt nhọc mà dân chúng chẳng an cư. Chi bằng buộc Tào Tháo phải quyết phân thắng phụ trong một trận lớn”.

Viên Thiệu không nghe. Đến khi Nhan Lương, Văn Xú bị giết, Thư Thụ lại tâu với Thiệu: “Quân Bắc nhiều nhưng không giỏi bằng quân Nam. Quân Nam thiếu lương, tài lực không sung túc bằng quân Bắc. Thế tất quân Nam có nhu cầu tốc chiến, tốc quyết, ta sẽ không cho địch thoả mãn nhu cầu ấy bằng cách áp dụng kế hoạch chiến tranh lâu dài”.
Viên Thiệu cũng không nghe.

Đọc đoạn trên Viên Thiệu rõ ràng là một anh chẳng biết thưởng thức kế sách quân cơ bao giờ. Đáng đánh mau, không đánh. Đáng đánh lâu dài lại không lâu dài.

Điểm này thật oan cho Thiệu, vì sách đã xuyên tạc. Đành rằng kế Điền Phong, Thiệu không dùng. Nhưng còn kế Thư Thụ thì Thiệu đâu có bỏ. Bằng cớ là: Thiệu với Tháo dàn quân từ tháng tư mà mãi đến tháng tám mới thực sự đánh nhau. Có lần Tào Tháo đã muốn rút quân vì hết lương ăn, cái thư Tháo viết cho Úc chính là kết quả của chiến lược lâu dài Thiệu đã áp dụng.

Thiệu thua bởi tại Tháo kiên cố quá. Khả năng kiên cố của Tháo, Thiệu lại không biết dốc toàn lực đánh quyết liệt mà chỉ đánh “rỉa” nên thua vậy.
Viên Thiệu thua, tình thế xoay chuyển hẳn. Trước đây Bắc khoẻ Nam yếu, bây giờ Bắc yếu Nam khoẻ.

Nhưng Thiệu cũng chưa đến nỗi yếu đến mức để Tháo có thể quét sạch một cách dễ dàng. Bởi vì sau khi thoát khỏi Quan Độ, mặc dầu bị Tào Tháo truy đuổi ráo riết, nhiều Quận Huyện tại vùng Ký Châu hàng Tào, nhưng Thiệu chỉ ít ngày sau đã chấn chỉnh đội ngũ để giành các Châu Quận bị chiếm, khiến Tào Tháo phải chùn không dám tiến vào sâu nữa.

Tháo vốn vẫn tinh lắm về vấn đề thôn tính, nay phải chùn, đủ rõ quân Thiệu còn khoẻ lắm.
Nhưng tại sao lực lượng Thiệu về sau bị hoàn toàn tiêu diệt?
Lực lượng Thiệu bị tiêu diệt không vì thất bại quân sự mà hoàn toàn do tranh chấp chính trị nội bộ gây nên.

Sự tình như kể sau đây:
“Tào Tháo không tiến sâu lên Hà Bắc nữa, bèn hồi binh về Hứa Đô. Trên đường về vòng đánh xuống để giải quyết ung nhọt Lưu Bị. Bị phải chạy nương nhờ Lưu Biểu.
Mùa xuân năm Kiến An thứ 7, Tào Tháo lại xuất binh đến Quan Độ, đến tháng 5 thì Viên Thiệu bị bạo bệnh chết. Các thủ hạ của Thiệu chia làm hai phe. Phe ủng hộ Viên Thượng, phe ủng hộ Viên Đàm. Anh em họ Viên liên tục tương tranh. Tào Tháo định lợi dụng tấn công, nhưng lần này cũng uổng công vì anh em họ Viên lại đoàn kết. Năm Kiến An thứ 8, Tào Tháo tạm gác việc đánh Hà Bắc, trở về Hứa Đô và thu xếp chinh Nam phen nữa, đánh thẳng vào căn cứ của Lưu Biểu.

Viên Đàm, Viên Thượng thấy Tháo rút rồi lại quay ra đánh nhau. Kết cục Thượng thắng Đàm. Đàm sai người cầu cứu với Tào Tháo. Tháo mới nhân cơ hội hiếm có này, quay binh trực chỉ Hà Bắc đánh Viên Thượng tại Nghiệp thành. Lúc này vào năm Kiến An thứ 9, đánh từ tháng hai đến tháng chín thì Thượng thua, bỏ thành chạy vào rừng. Viên Đàm nhờ Tháo chiếm lại Đông Quận thuộc Ký Châu làm bàn đạp tấn công Viên Thượng. Thượng lại phải chạy đến nương nhờ Viên Hy.

Năm Kiến An thứ 10, Tào Tháo tìm cớ triệt hạ Viên Đàm rồi tiến lên giải quyết nốt căn cứ của Viên Hy. Hy, Thượng thua, lên ẩn náu với bộ lạc Ô Hoàn. Đương đầu với Ô Hoàn mãi không xong, vì quân Ô Hoàn là Sơn Tặc với chiến thuật Du kích đánh rừng khiến Tào Tháo thiệt hại vô kể. Sau nhờ kế hoạch Điền Trù, quân Ô Hoàn mới chịu thua. Thượng và Hy lại đào tẩu lên Liêu Đông ở với Thái Thú Công Tôn Khang. Các mưu sĩ của Tháo khuyên Tháo đánh Liêu Đông, Tháo cười mà rằng: quân ta đã mệt mỏi phải cho nghỉ ngơi, chờ Khang với anh em họ Viên thanh toán nhau lúc đó ta ra tay chắc dễ dàng. Quả nhiên ít lâu sau, Khang cho người về gửi biếu Tháo hai chiếc thủ cấp của Viên Thượng và Viên Hy. Đến đây vấn đề họ Viên và Hà Bắc mới giải quyết hẳn.

Điền Trù
Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa, độc giả thường lưu ý đến Hứa Chử, Điển Vi, Mã Đại, Bàng Đức chỉ vì Hứa Chử xoay trần đánh Mã Siêu, Điển Vi liều mình cứu Tào Tháo. Mã Đại vâng lệnh cẩm nang chém Nguỵ Diên, Bàng Đức quyết tử chiến với Quan Vũ. Nhưng hầu hết đều quên một nhân vật: Điền Trù. Trong khi Điền Trù lại là người mang những ảnh hưởng to tát đến chính trị Tam Quốc chẳng kém gì Tào Tháo, Khổng Minh, Lưu Bị, Tư Mã Ý hay Đặng Ngải, Chung Hội.

Sở dĩ Điền Trù bị bỏ quên là tại độc giả chú trọng nhiều đến những âm mưu chính trị, những mưu mẹo chiến trận mà không ngó ngàng mấy đến những đại kế của thời đại. Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa ai cũng nặng về tâm lý truyền kỳ hơn là tìm hiểu lịch sử.
Điền Trù tuy không đánh trận chém tướng như Quan Vũ, Triệu Vân, Mã Siêu, tuy không bỏ vua lập vua, bàn mưu tính kế như Tào Tháo, Khổng Minh, Giả Hủ, Tuân Úc. Nhưng ông vẫn đáng kể là một trong những người trọng yếu nhất của thời đại Tam Quốc.
Trù nguyên quán Bắc Bình, sinh nhằm cuối đời Hán. Ông rất chăm đọc sách, luyện kiếm. Năm đầu Bình Nguyên, Điền Trù mới 24 tuổi, Đổng Trác ăn hiếp vua Hiến Đế ở Tràng An, thiên hạ loạn lạc, ông ra giúp việc cho Lưu Ngu. Ít lâu sau Điền Trù được vời về Tràng An làm việc. Khi trở lại quê nhà thì tình trạng đã đổi thay, Công Tôn Toản làm phản, chiếm địa vị của Lưu Ngu. Trù chống lại Toản, nhất định không chịu cộng tác. Cảm thấy khó yên thân với Toản, Điền Trù đem theo hơn trăm gia nhân chạy ẩn lên vùng núi Từ Vô. Tại đây ông lập kế hoạch khai phá đất hoang. Dân chúng quy tụ mỗi ngày mỗi đông.

Rút kinh nghiệm cuộc khai phá này, Điền Trù phát hiện ra chính sách đồn điền để phát triển thế lực Trung Quốc ở các vùng biên duyên.
Vùng ông khai phá người đương thời gọi là tiên cảnh, ở đấy xã hội sống hoàn toàn trật tự, lễ nghĩa và sung túc.

Viên Thiệu sai người đến vời, Trù từ chối. Thiệu chết, Viên Thượng lại vời, Trù vẫn khước từ. Đến lúc Tào Tháo Bắc chinh Ô Hoàn liền cho triệu, thì ông nhận lời ngay. Môn nhân hỏi ông rằng: “Cớ sao lần trước cha con họ Viên mời ông không nhận, nay lại ra giúp Tào Tháo?” Điền Trù đáp: “Đó là điều mà có giải thích ra các ông cũng chưa ý thức ngay được”. Sau khi đàm luận với Tháo, Trù được Tháo coi như làm cố vấn. Cố vấn cho họ Tào, Điền Trù lập lại kế lớn là:
Khuyên Tào Tháo đánh Ô Hoàn từ mạn Lư Long.
Áp dụng chính sách đồn điền.
Tào Tháo nghe, quả nhiên thắng lợi to.

Chính sách đồn điền là gì? Ngược dòng sử, quay về đời Tây Chu, ta thấy Tây Chu vốn là một bộ tộc nông canh đã đánh bại Ân triều và mở rộng bờ cõi. Tây Chu sở dĩ thắng lợi là nhờ ở một chính sách nông nghiệp tiến bộ. Tây Chu tổ chức nhiều tập đoàn vũ trang đi giồng cấy để vừa tấn công vừa chiếm đất cư ngụ, khai điền phá mương, vừa mở rộng thế lực quân sự, vừa phát triển thế lực chính trị và văn hoá. Vừa đánh nhau vừa tự cung tự cấp. Điền Trù đặt tên cho chính sách ấy là chính sách đồn điền. Kèm theo nhiều kinh nghiệm cùng hiểu biết của ông về địa lý, Điền Trù đã đem lại cho Tào Tháo một kế hoạch phá Ô Hoàn rất tinh vi.

Kế hoạch của Điền Trù đã giải quyết cho Tào Tháo hai nỗi khó khăn:
Thứ nhất: tiêu diệt lối đánh du kích của dân tộc du mục sơn dã Ô Hoàn luôn luôn làm tổn hại lớn cho lực lượng Tào Tháo. Tháo y theo kế hoạch, cũng cho tổ chức những tập đoàn võ trang khẩn thực, mang nhiệm vụ đồn trú thường kỳ, một mặt đánh giặc, một mặt vỡ hoang xây dựng kinh tế nông nghiệp tiêu diệt du mục. Đi đến đâu, các tập đoàn võ trang khẩn thực đều vượt đất thành làng, đắp hào đắp luỹ án ngữ ngay các cứ điểm quân sự để dồn quân Ô Hoàn vào thế bất lợi.

Thứ hai: Giải quyết vấn đề lương thực cho quân Tào chống lại với tình trạng kinh tế nông nghiệp theo chế độ bộ khúc, sản phẩm của loạn ly liên tiếp lúc bấy giờ.
Thấy công lao Điền Trù to tát, Tào Tháo muốn phong tước cho ông, ông không nhận, xin trở về nơi “thế ngoại đào nguyên” của ông để vui thú tiêu dao. Ông mất năm 46 tuổi. Sau này nhà thơ Đào uyên Minh có nhắc đến ông trong 2 câu:

Văn hữu Điền tử xuân
Tiết nghĩa vi sĩ hùng.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

8
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
- 7 -
TRẬN XÍCH BÍCH


Trận Xích Bích là một quan kiện chính trị liên hệ tới vấn đề chia cắt và thống nhất. Giả sử Tào Tháo thắng hoặc không có trận này thì thiên hạ đã thống nhất ngay mà không chia ba.

Nói đến trận Xích Bích, trước hết phải tìm hiểu hình thế của ba lực lượng chủ động: Lưu Bị, Tôn Quyền, Tào Tháo.

Lưu Bị là người có chí lớn, đầu óc lãnh tụ, thà làm đầu gà còn hơn làm đít trâu. Cho nên nhiều dịp Tào Tháo muốn thu dụng Bị, Bị đều từ chối. Không những thế, Lưu Bị trải qua một thời gian lập đức, định chuyển sang giai đoạn lập công, bèn cấu kết với Đổng Thừa, định dùng âm mưu chính trị cung đình quật ngã Tào Tháo. Thua, Bị xin tá túc bên Viên Thiệu rồi Lưu Biểu. Thế của Bị sau vụ Đổng Thừa là một mất một còn với Tháo, chứ không thể dung tha nhau được nữa, dù yếu, dù mạnh, Lưu Bị cũng phải chống Tào Tháo đến cùng.

Phần Tôn Quyền ta cần phải liên hệ Quyền với Tôn Sách để nhận định.
Tôn Sách liên kết với Viên Thuật. Thấy Tôn Sách gan dạ, anh hùng, Thuật trao lại bộ hạ cũ của Kiên cho Sách. Sách nhiều lần lập công lớn cho Thuật. Nhưng Thuật là người không sáng suốt, thưởng phạt bất minh, thiếu khả năng dùng người, quên lời đã hứa cùng Tôn Sách khiến Tôn Sách thất vọng. Sách nghĩ bụng, nếu cứ ở với Thuật, rồi ra không có ngày mở mặt nên tính kế xin Thuật phái mình đi bình định Giang Đông. Căn cứ địa lý thời hậu Hán thì Giang Đông thuộc Dương Châu. Các quan thứ sử Dương Châu vẫn đồn thú tại Thọ Xuân (tức Thọ Huyện tỉnh An Huy ngày nay). Thời gian này Thọ Xuân bị Viên Thuật chiếm giữ, thứ sử Dương Châu là Lưu Giao phải rời về Khúc A. Tuy quân lực thua sút Lưu Giao vẫn cầm cự dằng dai với Thuật.

Lúc Tôn Sách vượt sông sang, tình thế chuyển ngay, Sách có thiện chí xông xáo đánh bại Lưu Giao. Toàn giải đất Giang Đông dọc theo bờ sông rơi vào tay Tôn Sách, Tôn Sách chụp cơ hội bỏ ngay Viên Thuật.

Tào Tháo bấy giờ chưa đủ lực nuốt Giang Đông, lại nhân có mâu thuẫn với Viên Thuật, Tháo mới ve vãn Tôn Sách bằng cách dâng biểu xin vua phong cho Tôn Sách làm Ngô Hầu, xưng hiệu Thảo Nghịch tường quân.

Năm Kiến An đệ ngũ, đang khi chiến tranh Viên Tào gay go, hai bên cầm cự nhau, Tôn Sách nẩy ra ý định xuất quân qua sông vượt lên miền bắc; chưa kịp chuẩn bị xong thì Sách bị bắn chết.

Đầu đuôi câu chuyện bắn lén như sau: Tôn Sách qua Giang Đông, có quan Thái thú Ngô quận tên là Hứa Cống mật biểu về trào nói: Tôn Sách kiêu dũng, không nên để y ở ngoài, sẽ thành hậu hoạ. Sách bản ý hằng mong muốn lập giang sơn riêng, nay nghe tin Hứa Cống muốn phá kế mình, nổi giận giết phăng Cống. Các môn khách của Cống thề phục thù, họ lẩn quất trong đám dân, gặp cơ hội Tôn Sách đi săn, mải đuổi thú, Sách đơn phương, độc mã lạc vào ngay ổ phục kích của môn khách nhà họ Hứa nên bị tên độc.

Ý định xuất binh của Sách, Tam Quốc Chí bản truyện cho rằng: Sách muốn đánh úp Hứa Đô nghênh giá Hiến Đế.

Tam Quốc Chí đã nói sai. Ta có thể tìm nhiều lý lẽ để chứng minh sự sai lầm của Tam Quốc Chí bản truyện. Trước hết, Tào Tháo tinh thông binh sự, không đời nào lại bỏ trống hậu phương. Thứ nữa, Giang Đông với Hứa Đô so với Hà Bắc xa gấp 5, 6 lần, liệu quân Tôn Sách có tới nơi không, chứ chưa nói đến thắng hay bại. Tôn Sách giỏi quân sự chắc chẳng mán xá đến thế. Ngoài ra, giành giựt một ông Thiên Tử trong tình trạng chính trị vũ trang đấu tranh lúc ấy thật quả không cần thiết cho lắm.

Vậy tại sao Tôn Sách lại có ý định xuất binh? Độc giả Tam Quốc Chí phần lớn thường bỏ sót điểm này.

Nguyên lai, Trần Khuê, một vị quan cai trị cao cấp, trước sau quy phục Trung ương, ghét bọn Lã Bố, e khó bình định, nên vội vã đến dụ thuyết Lã Bố để phá hoại sự liên kết Bố-Thuật. Mặt khác Khuê sai con là Trần Đăng yết kiến Tào Tháo, nói Lã Bố hữu dõng vô mưu, phản phúc vô thường, nên tìm cách nhử Bố vào bẫy. Gặp Trần Đăng, Tháo rất hài lòng, bèn phong cho Trần Đăng làm Thái Thú Quảng Lăng. Tháo còn nắm tay Đăng mà rằng: “Tôi giao hết cả miền Đông cho ông đó”. Ý nói Đăng hãy thâu thập bộ hạ chờ cơ làm nội ứng cho mình. Quả nhiên, cha con Khuê Đăng giúp được Tháo tiêu diệt Lã Bố. Tháo xin vua phong cho Đăng làm chức Phục Ba Tướng Quân.

Có lực lượng, danh nghĩa rồi, Trần Đăng mới dòm ngó đất Giang Đông của Tôn Sách, Tôn Sách 2, 3 lần chinh phạt Đăng đều thất bại vì chiến lược du kích của Đăng. Lần này, Tôn Sách gắng sửa soạn kỹ càng để quyết tiêu diệt địch, kẻ cứng cổ đó. Như vậy rõ ràng là Tôn Sách xuất binh đánh Trần Đăng chứ không phải đánh thẳng vào vị trí của Tháo. Việc chưa xong, Sách lâm nạn!

Đến đây, đời chính trị của Tào Tháo phạm phải một thất sách to lớn là khi Tôn Sách tử nạn, Tháo lại điều động Trần Đăng đi nhậm chức Thái thú Đông Thành, thành thử Tháo đã nhổ hộ cho Giang Đông cái răng đau nhức. Đến nỗi về sau thua trận Xích Bích, Tháo phải nói:
Ân hận đã không nghe lời Trần Nguyên Long!

Cái thất sách ấy là do Tào Tháo muốn, vì sợ khả năng chính trị đấu tranh khôn khéo dẻo dai của Trần Đăng có địa bàn Đông Ngô thì còn nguy hơn Tôn Quyền, hay là một thất sách thật sự, khó lòng mà đoán biết được.

Tôn Sách mất, Tôn Quyền kế vị. Công việc trước mắt của Tôn Quyền là: Chỉnh đốn các vùng Giang, Triết, Hoãn, Chương, chiếm đất của Hoàng Tổ mở mang sang các vùng Đông Nam tỉnh Hồ Bắc, miền Tây đến Hán Khẩu tiếp giáp Gia Lăng và Tương Dương. Trong lúc Tôn Quyền tiến hành mạnh mẽ công cuộc thống nhất khu vực mình thì Tào Tháo khởi binh đánh Lưu Biểu. Bản chất Lưu Biểu là một văn nhân nhu nhược, giữa thời nhiễu nhương mà Biểu chỉ muốn ngồi yên nhìn thành bại, mong làm kẻ bắt cá. Chủ trương bất động, cơ hội ăn sẵn không thể lâu dài được.

Tháng 7 năm Kiến An thứ 13, Tào Tháo chinh phạt phía nam, vây Kinh Châu, Lưu Biểu lo phiền lâm bệnh chết. Con trai lớn của Lưu Biểu là Lưu Kỳ bị âm mưu ngoại thích truất phế, tống ra trấn giữ Giang Hạ. Em Kỳ là Lưu Tông lên thay. Lưu Tông cùng bọn tay sai không có khả năng chống lại quân Tào nên đầu hàng vô điều kiện ngay khi binh Tào tới Tân Dã. Lưu Bị lúc ấy đóng binh tại Phàn Thành bên bờ sông Tương Dương, phải vượt qua sông bỏ chạy về phía Tây Nam.

Việc này sách Tam Quốc Chí Tiên Chủ truyện chép: “Lưu Bị bỏ đi, Gia Cát Lượng khuyên Lưu Bị sửa soạn công kích Lưu Tông để chiếm Kinh Châu, Lưu Bị nói “Ta không nỡ”.
Chép thế có phần tiểu thuyết hoá khó xác thực. Đành rằng đương thời Tương Dương rối loạn, khắc phục Lưu Tông có thể dễ dàng, nhưng đại binh Tào Tháo rầm rập kéo đến thì sao? Gia Cát Lượng thường cẩn thận, không lẽ lại đi làm chuyện phiêu lưu để rồi không có đất mà chôn ư?

Lâm vào cái cảnh “trời chiều, đường tận”, Lưu Bị mang theo lực lượng của mình cùng với một số dân chúng tị nạn lếch thếch chạy đến Hạ Khẩu nhờ vả Lưu Kỳ sau khi vừa thoát Đương Dương Trường Bản.

Nếu tình trạng này kéo dài, chắc Lưu Bị phải chết. Bất ngờ xuất hiện sự chuyển hướng của Giang Đông. Tôn Quyền cùng Lưu Bị liên minh, Bị như cây khô gặp nước.
So sánh tư cách chính trị giữa Tôn Quyền và Lưu Bị, Tào Tháo gờm Lưu Bị hơn Tôn Quyền. Huyền Đức tuy nhiên bao lần chiến bao lần bại, nhưng Tháo lúc nào cũng lưu ý Lưu Bị hơn bọn Viên Thiệu, Lã Bố, Tôn Sách, Tôn Quyền một bậc. La Quán Trung miêu tả tâm lý Tào Tháo đối với Lưu Bị như sau: Tháo và Huyền Đức cùng ngồi dựa vào bao lơn ngắm mai. Tháo hỏi: “Sứ quân có biết Rồng nó biến hoá như thế nào không?”
Huyền Đức nói: “Tôi chưa được tường”

Tháo nói: “Rồng lúc thì to, lúc thì nhỏ, lúc thì bay lúc thì nấp. Lúc to thì nổi mây phun mù, lúc nhỏ thì thu hình nép cánh, khi bay ra thì liệng trong trời đất, khi ẩn thì nấp ở dưới sông. Nay đang mùa xuân, Rồng gặp thời biến hoá cũng như lúc người ta đắc chí, tung hoành bốn bể. Rồng ví như anh hùng trong đời. Huyền Đức lâu nay đã đi khắp bốn phương, bao nhiêu anh hùng đời nay hẳn đã biết cả, xin thử nói cho nghe.”
Huyền Đức thưa: “Bị này mắt thịt, biết đâu được anh hùng?”
Tháo nói: “Huyền Đức không nên nhún mình quá”
Huyền Đức nói: “Bị này được nhờ ơn Thừa tướng làm quan trong triều, anh hùng trong thiên hạ thực quả không biết”.

Tháo nói: “Đã đành không biết mặt, nhưng cũng nghe tiếng chứ.”
Huyền Đức nói: “Viên Thuật ở Hoài Nam, binh lương nhiều có thể gọi là anh hùng được.”
Tháo cười: “Xương khô trong mả, chỉ nay mai là ta bắt được”.
Huyền Đức lại nói: “Anh của Viên Thuật là Viên Thiệu ở Hà Bắc, bốn đời làm Tam Công có nhiều đầy tớ cũ, hiện nay như con hổ dữ hùng cứ ở Ký Châu, bộ hạ nhiều tay tài giỏi, có thể cho là anh hùng được.”
Tháo lại cười nói: “Viên Thiệu ngoài mặt mạnh bạo, trong bụng nhút nhát, thích mưu mẹo mà không quyết đoán, làm việc lớn lại lo đến bản thân, thấy lợi nhỏ thì quên mình thì sao gọi là anh hùng?”

Huyền Đức lại nói: “Có một người nổi tiếng trong đám kẻ tuấn kiệt, uy khắp cả chín châu là Lưu Cảnh Thăng có thể cho là anh hùng?”
Tháo lại cười: “Lưu Biểu có hư danh nhưng không có thực tài, không phải anh hùng.”
Huyền Đức lại nói: “Có một người sức lực đương khoẻ, đứng đầu xứ Giang Đông là Tôn Bá Phù, hẳn là anh hùng.”
Tháo nói: “Tôn Sách nhờ có danh tiếng của bố, không phải anh hùng.”
Huyền Đức hỏi: “Lưu quý Ngọc ở Ích Châu có phải là anh hùng không?”
Tháo cười: “Lưu Chương tuy là tôn thất, nhưng chỉ là con chó giữ nhà, sao gọi là anh hùng được.”

Huyền Đức lại nói: “Thế bọn Trương Tú, Trương Lỗ và Hàn Toại thì thế nào?”
Tháo vỗ tay cười to: “Lũ tiểu nhân nhung nhúc ấy thì nói lên làm gì”.
Huyền Đức nói: “Ngoài những người ấy ra, Bị thực không biết ai nữa”.
Tháo nói: “Anh hùng là người trong bụng có chí lớn, có mưu cao, có tài bao bọc được cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia.”
Huyền Đức mới hỏi: “Ai có thể xứng đáng được như thế?”
Tào Tháo lấy tay trỏ Huyền Đức rồi lại trỏ vào mình mà nói rằng: “Anh hùng trong thiên hạ bây giờ chỉ có sứ quân và Tháo mà thôi.” Huyền Đức nghe nói giật nẩy mình, cái thìa, đôi đũa đương cầm ở tay rơi cả xuống đất.
Đánh giá Tôn Quyền quá thấp, đồng thời không dự liệu được trí mưu quyền biến thiên tài của Gia Cát Lượng nên Tào Tháo ghi lên trang sử hoạt động chính trị của Tháo một vết đen quá lớn và quá sâu vì thua quân ở Xích Bích.
Lưu Biểu chết, tin đến Giang Đông. Lỗ Túc liền nói với Tôn Quyền:
- Kinh Châu là trọng địa, xin chúa công cho tôi đi viếng tang nhân tiện dò xét tình hình. Nếu Lưu Bị và Lưu Biểu không có hiềm khích gì với nhau thì ta cùng họ liên kết, nhược bằng họ bất hoà, tôi sẽ có chủ ý khác.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Tôn Quyền bằng lòng.
Lỗ Túc liền ngược Giang Tây tới Hán khẩu thì nhận được tin Tào Tháo đang tiến quân hướng về phía Kinh châu. Lỗ Túc vội vã đi gấp ngày đêm, mới đến Nam quận đã có người phi báo là Lưu Tông hàng Tào rồi và Lưu Bị phải chạy về Nam. Lỗ Túc liền tắt đường nghênh đón Lưu Bị ở Trường Bản. Gặp Bị, Túc khuyên Bị nên liên hợp với Tôn Quyền. Gia Cát Lượng nói: "Sự gấp, tôi xin đi cầu cứu Tôn tướng quân". Gia Cát Lượng rời Hán khẩu đi gặp Tôn Quyền tại Cửu giang.
Lúc này bên Tôn Quyền đang có cuộc tranh luận gay go để quyết định chiến hay hàng. Theo tài liệu sử thì phe chủ hàng chiếm đa số trong hội nghị. Phe chủ hàng lập luận:
I- Tào Tháo khoác danh là tướng nhà Hán, nếu kháng cự thì khác gì phản kháng Trung ương.
II- Tào Tháo nắm trọn trong tay lực lượng thuỷ binh của Kinh châu thêm bộ binh rất mạnh, thế núi sông hiểm trở của Giang đông không còn khả năng làm trở ngại binh Tào nữa.
III- Quân Tào đông gấp mười quân Ngô.
Chủ trương chiến đấu của Lỗ Túc bị phe chủ hàng tới tấp đập vụn. Tôn Quyền chưa biết quyết định ra sao thì Gia Cát Lượng đến nơi. Ấy là: Chỉ bởi con thuyền Gia Cát chạy. Khiến cho tướng sĩ giặc Tào tan.
Sự hiện diện của Khổng Minh ở hội nghị Giang đông, La Quán Trung miêu tả linh động trong hội "Thiệt chiến quần nho" như sau:
Túc dẫn Khổng Minh đến dưới trướng, đã thấy bọn Trương Chiêu, Cố Ung toàn ban văn võ trên hai chục người, mũ cao đai rộng, y phục chỉnh tề ngồi có thứ tự rồi. Khổng Minh chào hỏi từng người, thông tính danh đâu đấy, rồi đến ngồi trên ghế tân khách.
Bọn Trương Chiêu thấy Khổng Minh hình dung sáng sủa, mặt mũi khôi ngô biết người này tất là đi thuyết khách. Trương Chiêu mới gợi trước rằng:
- Chiêu tôi là một kẻ học trò ngu hèn bên Giang đông, lâu nay vẫn được nghe tiếng tiên sinh nằm khểnh trong Long Trung, ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị, lời ấy chẳng biết thực hư?
Khổng Minh đáp:
Phải, Lượng tôi cũng có hợm mình mà ví như thế.

Chiêu lại nói:
Mới đây tôi nghe Lưu Dự châu 3 lần cầu đến tiên sinh ở trong lều tranh, may được tiên sinh như cá gặp nước, những toan thu sạch cả Kinh Tương, nay chỉ có một buổi sáng mà về tay Tào Tháo hết chẳng biết thế là ý làm sao?
Khổng Minh nghĩ thầm rằng: Trương Chiêu là một tay mưu sĩ bậc nhất của Tôn Quyền, nếu mình không áp đảo được hắn thì sao thuyết phục Tôn Quyền? Bèn đáp rằng: Kể lấy đất Hán Thượng, tôi coi dễ như trở bàn tay, hiềm vì chủ ta là Lưu Dự Châu, muốn làm điều nhân nghĩa, không nỡ cướp cơ nghiệp của người đồng tông, cho nên nhất định không lấy. Lưu Tông là một đứa trẻ thơ tin nghe lời nịnh, bí mật hàng Tào cho nên mới để cho Tào Tháo ngông cuồng. Nay chủ ta đóng quân ở Giang Hạ sẽ có kế khác, những kẻ tầm thường hiểu sao được.

Chiêu nói: Nếu thế thì tiên sinh lời nói không đi đôi với việc làm rồi. Tiên sinh đã ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị mà Quản Trọng ngày xưa giúp Hoàn Công bá được chư hầu, định được thiên hạ; Nhạc Nghị ngày xưa giúp nước Yên đương suy yếu mà hạ được hơn bẩy mươi thành nước Tề. Hai người ấy thật có tài tế thế. Tiên sinh thì trước ở trong lều tranh, chỉ cười phong cợt nguyệt, xếp gối ngồi cao, nay đã theo Lưu Dự châu thì phải nên vì dân mà mưu lợi, bỏ điều hại, dẹp trừ kẻ loạn tặc mới phải chớ. Vả tôi xem Lưu Dự Châu khi chưa được tiên sinh thì còn tung hoành đây đó, chiếm giữ thành trì, nay được tiên sinh ai cũng mong, đến đứa trẻ lên ba cũng phải cho đó là hổ sinh cánh, nhà Hán sắp sửa lại hưng, họ Tào sắp đổ. Cựu thần trong triều đình, ẩn sĩ trong rừng rú, ai cũng chờ xem, tưởng tiên sinh với Lưu Dự Châu sắp xua tan mây mù trên trời, để thiên hạ lại được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng, cứu vớt dân ra khỏi cơn nước lửa, giúp đỡ thiên hạ yên ổn làm ăn, chính là lúc này vậy. Ai ngờ từ khi tiên sinh về với Dự Châu mục, quân Tào mới đến đã quẳng giáp buông gươm, trông thấy bóng là chạy. Trên không báo được ơn Lưu Biểu để yên thứ dân, dưới lại chẳng giúp được con côi giữ lấy bờ cõi, lại bỏ Tân Dã chạy khỏi Phàn Thành, thua Đương Dương chạy ra Hạ Khẩu, chẳng có lấy chỗ dung thân. Thế chẳng hoá ra Dự Châu từ khi được tiên sinh lại không bằng trước ư? Quản Trọng, Nhạc Nghị chắc cũng như thế đó? Đó là mấy lời quê kệch xin tiên sinh đừng chấp.

Khổng Minh nghe xong cười ha hả mà rằng:
Cái chí khí của chim Bằng, các loài chim Sẻ há biết được sao? Ví như người bệnh nặng, trước hết phải cho uống nước cơm, nước cháo, thuốc thang, lúc nào phủ tạng điều hoà, thân thể hồi phục bấy giờ mới cho bổ bằng cá thịt. Trị bằng thuốc mạnh, thì gốc bệnh mới tiệt, còn yếu đã trị ngay bằng thuốc mạnh, bổ ngay bằng vị ngon thì khó lòng chữa khỏi được. Chủ ta, trước thua ở Nhữ Nam đến nhờ Lưu Biểu, quân không đầy một ngàn, tướng chỉ có Quan, Trương, Triệu chính là lúc đang nguy cập. Tân Dã là một huyện nhỏ, hẻo lánh, dân cư thưa thớt, lương thực ít ỏi, chủ ta chẳng qua đến nương nhờ tạm đó mà thôi, có phải muốn khư khư ngồi giữ cái xó ấy đâu? Trong hoàn cảnh quân sĩ không sẵn, thành quách không bền, quân không luyện tập, chạy ăn từng bữa, thế mà lửa cháy Bác Vọng, nước ngập Bạch Hà khiến bọn Hạ Hầu Đôn, Tào Nhân phải lòng run mật vỡ, thiết tưởng Quản Trọng, Nhạc Nghị dùng binh tất đã hơn gì. Đến như Lưu Tông hàng Tào Tháo, Dự Châu hoàn toàn không biết, vả lại không nỡ nhân lúc loạn mà cướp lấy cơ nghiệp người đồng tông. Thật là đại nhân, đại nghĩa. Còn trận thua ở Đương Dương, vì có vài vạn dân, già trẻ dìu dắt đi theo không nỡ bỏ nên mỗi ngày chỉ đi được 10 dặm, đành rằng chịu thua; không tưởng đến lấy Giang Lăng, cam chịu thất bại, ấy cũng là đại nhân đại nghĩa vậy. Còn như ít không địch được nhiều, thì được thua chỉ là việc thường thôi. Ngày xưa Cao Hoàng thua luôn với Hạng Vũ, sau chỉ một trận ở Cai Hạ là thành công, đó không phải là mẹo tài của Hàn Tín ư? Tín thờ Cao Tổ đã lâu, cũng không mấy khi thành; bởi vì kế lớn nhà nước, xã tắc an nguy đều đã có chủ trương. Không như cái lũ khoác lác hư danh, bịp bợm, ngồi một xó mà lý thuyết suông thì không ai bằng; đến lúc có việc thì trăm phần trăm chẳng được phần nào thật đáng cho thiên hạ chê cười.
Bị thuyết một hồi, Trương Chiêu không còn thở ra được câu nào nữa. Lại có một người cất tiếng hỏi rằng:

Nay Tào Tháo quân hàng trăm vạn, tướng ước ngàn viên, uy thế như rồng như hổ nuốt chửng Giang Đông, ông bảo sao?
Khổng Minh trông xem ai, thì là Ngu Phiên, Khổng Minh nói:
Tào Tháo thu quân rơm rác của Viên Thiệu, nhặt quân ô hợp của Lưu Biểu, dù có mấy trăm vạn cũng không đáng sợ gì hết.
Ngu Phiên cười mát.
Quân thua ở Đương Dương, kế cùng ở Hạ Khẩu, đi van xin cứu viện không xong còn nói không sợ, thật là khoác lác để bịp người đó thôi.
Khổng Minh đáp:
Lưu Dự Châu đem vài ngàn quân nhân nghĩa, địch sao lại được trăm vạn quân tàn bạo? Lui về giữ Hạ Khẩu là để chờ thời cơ đó. Nay Giang Đông, binh nhiều, lương đủ, lại có sông Trường Giang hiểm trở, thế mà còn xui chủ uốn gối hàng giặc, không nghĩ thiên hạ chê cười. Do đó mà suy thì Lưu Dự Châu thật không sợ gì giặc Tháo vậy.
Ngu Phiên chịu cứng.

Lại có người lên tiếng hỏi:
- Khổng Minh muốn uốn lưỡi Tô Tần, Trương Nghi, sang làm thuyết khách ở Giang đông này chăng?
Khổng Minh nhìn xem ai thì là Bộ Trắc bèn đáp rằng:
Bộ Tử Sơn chỉ biết Tô Tần, Trương Nghi là biện sĩ, chuyên nghề nói mép chứ chưa biết Tô Tần, Trương Nghi cũng là những trang hào kiệt. Tô Tần đeo ấn làm tướng sáu nước, Trương Nghi hai lần làm tướng nhà Tần đều có tài giúp người gây cơ nghiệp, đâu thèm so sánh với những kẻ hay sợ thế mạnh, lấn người yếu, tránh kiếm lẩn đao. Các người mới nghe thấy Tào Tháo phao tin đã vội xin hàng rồi, còn dám cười Tô Tần, Trương Nghi sao được.

Bộ Trắc im ngay không dám nói gì nữa.
Lại có một người hỏi rằng:
- Thế Khổng Minh cho Tào Tháo là thế nào?
Khổng Minh nhìn xem ai thì là Tiết Tung, bèn đáp:
Tào Tháo là giặc Hán, can gì phải hỏi.
Tung nói:
Ông lầm rồi, nhà Hán truyền ngôi kế thế mãi đến nay số trời sắp hết. Giờ thiên hạ chia ba, Tào Tháo đã nắm 2 phần rồi, nhân tâm ai cũng qui phục. Duy có Lưu Dự Châu không biết thiên thời, muốn gượng tranh với Tào Tháo, khác nào trứng chọi với đá sao chẳng thất bại.
Khổng Minh quát lên rằng:

Tiết văn Kính sao dám thở ra câu vô quân vô phụ ấy? người ta sinh ra ở đời phải lấy trung hiếu làm cốt, ông đã làm tôi nhà Hán, nếu kẻ nào phản nghịch phải thề giết nó đi mới là phải đạo. Nay tổ tôn Tào Tháo đời đời ăn lộc nhà Hán. Tháo đã không nghĩ báo ơn, lại mang lòng phản nghịch, thiên hạ đều oán ghét cả, ông lại dám đổ cho số trời, thật là con người vô quân vô phụ không xứng đáng bàn luận. Chớ có nói nữa.
Tiết Tung đỏ mày xây mặt câm miệng như hến. Lại một người hỏi rằng:
Tào Tháo tuy rằng mượn tiếng thiên tử để sai khiến chư hầu nhưng cũng còn là con cháu ông Tướng Quốc Tào Tham ngày xưa. Lưu Dự Châu vẫn tự xưng là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương nhưng không có bằng cớ, hiện mắt trông thấy chỉ là một người dệt chiếu, bán giầy, so sánh với Tào Tháo sao được.

Khổng Minh nhìn xem ai thì là Lục Tích liền cười nói rằng:
Ông có phải là người ăn cắp quýt ở trong bữa tiệc của Viên Thiệu đó không. Xin hãy ngồi nghe ta giảng giải cho: Tào Tháo đã là con cháu Tướng Quốc họ Tào, thì là đời đời làm tôi nhà Hán, nay dám chuyên quyền ngang ngược khinh nhờn cả vua, như thế hẳn không những là vô quân mà lại là khinh cả tổ tiên mình. Không những là loạn thần nhà Hán mà còn là đứa con bất hiếu của họ Tào nữa. Lưu Dự Châu đường đường một đấng tôn thất, đương kim hoàng đế hiện đã xét gia phả và phong tước cho, sao dám bảo là không có căn cứ. Và đức Cao Tổ ngày xưa xuất thân làm đình trưởng mà sau được thiên hạ thì dệt chiếu bán giầy có gì là nhục. Kiến thức ông như trẻ con, không nên ngồi nói chuyện với cao sĩ.

Lục Tích ngồi im thin thít.
Lại có người hỏi rằng:
- Khổng Minh chỉ được cái già mồm lấn lẽ, không phải là chính luận, không cần dài dòng làm gì. Hãy xin hỏi Khổng Minh đã học những sách gì. Khổng Minh nhìn xem ai thì là Nghiêm Tuấn liền đáp:
- Tìm từng chương, dò từng câu chỉ là bọn hủ nho mà thôi, sao có thể xây dựng được nước non cơ nghiệp? Vả như ngày xưa Y Doãn cầy ở đất Sằn, Tử Nha câu trên sông Vị, Trương Lương, Trần Bình, Đặng Vũ, Cảnh Cam đều có tài giúp vua, giúp nước cả, mà cũng không cần xem xét ngày thường học những sách vở gì. Có đâu lại bắt chước bọn thư sinh, bo bo sách vở, cãi đen bàn trắng, múa văn khua bút đó ư.
Nghiêm Tuấn cúi đầu tiu nghỉu ngồi im. Lại có một người lớn tiếng nói:
Ông chỉ được việc nói khoác là giỏi, vị tất đã có thực học, tôi chỉ sợ bọn nhà nho cười cho thôi.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [84] [85] [86] [87] [88] [89] [90] ... ›Trang sau »Trang cuối