Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [83] [84] [85] [86] [87] [88] [89] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

20. Kim Luân pháp vương
(Thần điêu hiệp lữ) - 75,8 điểm

Kim Luân pháp vương là đệ nhất quốc sư Mông Cổ và là nhân vật phản diện trung tâm trong Thần điêu hiệp lữ, nổi tiếng với món võ công rất lợi hại mang tên Ngũ luân, song bị khắc chế bởi Song kiếm hợp bích của Dương Quá và Tiểu Long Nữ.



Về sau, Kim Luân pháp vương đã luyện Long Tượng Bát Ngã Công - môn công phu bí truyền của phái Mật Tông ở Tây Tạng với quyết tâm tìm Dương Quá và Tiểu Long Nữ để báo thù rửa hận.

Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, Kim luân pháp vương chết mà chưa hoàn thành tâm nguyện là tìm truyền nhân cho bộ Long Tượng Bát Nhã Công.

19. Hồng Thất Công
(Anh hùng xạ điêu và Thần điêu hiệp lữ) - 76,2 điểm

Hồng Thất Công là bang chủ thứ mười tám của Cái Bang, tính ham ăn ham rượu, từng một lần vì mải ăn uống mà để một vị huynh đệ chết thảm.

Ông tức giận tự chặt một ngón tay của mình để trừng phạt, từ đó giang hồ gọi ông là Cửu chỉ thần cái.



Hồng Thất Công có võ công rất cao siêu, tại Hoa Sơn luận kiếm lần thứ nhất, ông là một trong Thiên hạ ngũ tuyệt, xưng tụng là Bắc Cái. Hai môn võ nổi tiếng của Hồng Thất Công là Giáng Long thập bát chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp.

18. Âu Dương Phong
(Anh hùng xạ điêu và Thần điêu hiệp lữ) - 76,5 điểm

Âu Dương Phong là chủ nhân núi Bạch Đà ở Tây Vực, là một kẻ độc ác, nhiều mưu mô thủ đoạn. Y võ công rất cao, thường dùng một cây gậy có thả hai con rắn độc ở đầu làm vũ khí.

Tuyệt kỹ của y là Cáp Mô công. Với khả năng chế ra các loại thuộc độc không ai giải được, Âu Dương Phong bị người trong giang hồ gọi là Lão Độc Vật.



17. Thiên Sơn đồng lão
(Thiên long bát bộ) - 77 điểm

Thiên Sơn Đồng Lão là sư tỷ của Vô Nhai Tử và là chủ nhân của Linh Thứu cung trên núi Thiên Sơn. Bà sử dụng một môn võ công mạnh mẽ để tăng sức mạnh của của mình, nhưng một trong các tác dụng phụ của nó là bà sẽ duy trì kích thước cơ thể hiện tại của mình bất kể tuổi tác.



Trong tiểu thuyết, Thiên Sơn đồng lão ở độ tuổi 90, song do bắt đầu tập luyện võ công đặc biệt từ nhỏ nên cơ thể vẫn là một đứa trẻ. Bà nổi tiếng là một người đáng sợ, và rất nhiều nhân sỹ võ lâm đã bị bà đầu độc và buộc phải thực hiện mệnh lệnh của bà.

16. Cưu Ma Trí
(Thiên long bát bộ) - 77,5 điểm

Cưu Ma Trí là một tăng lữ, Quốc sư của nước Thổ Phồn, hiệu xưng Đại Luân minh vương.

Lần đầu tiên xuất hiện ở nước Đại Lý, Cưu Ma Trí một mình đả bại hết cao thủ của Thiên Long Tự, bức các tăng nhân ở đây phải đốt Bí kíp Lục mạch thần kiếm. Cưu Ma Trí nổi tiếng các món võ Hoả Diệm Đao, tuyệt nghệ của Thiếu Lâm phái và tiểu vô tướng công.


Trả lời với trích dẫnTrả lời với trích dẫn  05-09-2014 11:51 PM#317
Hansy
Banned
Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
Tham gia ngày : Jan 2012
Bài gửi : 0
Thanks
5.759
Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts
CAO THỦ VÕ LÂM



15. Trương Tam Phong
(Ỷ thiên đồ long ký) – 77,6 điểm

Trương Tam Phong, tên thật là Trương Quân Bảo, là người sáng lập Võ Đang - môn phái võ thuật lớn ở Trung Quốc, bao gồm Thái cực Quyền kinh và Thái cực Kiếm pháp.

Thái cực Quyền kinh và Thái cực Kiếm pháp đã trở thành bảo vật của Võ Đang phái. Cũng bởi tính âm nhu mềm mại và dễ tập nên Thái cực quyền và Thái cực kiếm pháp giờ đã được phổ biến rộng rãi và có hàng triệu người đang ngày ngày luyện môn võ này.
Chấm điểm cao thủ võ lâm trong truyện Kim Dung



Ngoài ra, trước đó Trương Tam Phong còn sáng tạo ra 1 bộ võ học có tên là Cửu Tiêu Chân Kinh, gồm 9 chương tu luyện nội công, sử dụng cương nhu nhị kình (giống như Thái Cực) để hoá giải các thế đánh của đối phương và phản đòn, sức mạnh được sánh ngang Dịch Cân Kinh.

14. Vô Nhai Tử
(Thiên long bát bộ) - 78,5 điểm

Vô Nhai Tử là trưởng môn nhân thứ 2 của phái Tiêu Dao, võ nghệ cao cường, sở trường là Bắc minh thần công, lăng ba vi bộ, thiên sơn bát dương chưởng, tiểu vô tướng công.

13. Trương Vô Kỵ
(Ỷ thiên đồ long ký) - 79,2 điểm

Là nhân vật chính trong Ỷ thiên đồ long ký, Trương Vô Kỵ may mắn học được Cửu dương thần công và Càn khôn đại na nhi tâm pháp nên thống lĩnh được võ lâm.



Lương Triều Vỹ trong vai Trương Vô Kỵ trong Ỷ thiên đồ long ký 1986.
Ngoài ra Vô Kỵ còn học được Thất thương quyền của Tạ Tốn, Thái cực quyền và Thái cực kiếm của Trương Tam Phong, võ công ghi trên Thánh Hoả Lệnh của Ba Tư, trở thành một trong những nhân vật võ công cao cường bậc nhất trong tiểu thuyết Kim Dung.

12. Dương Quá
(Thần điêu hiệp lữ) - 80 điểm

Cũng như Trương Vô Kỵ, Dương Quá- nhân vật chính của Thần điêu hiệp lữ cũng là người may mắn, có duyên học được rất nhiều loại võ công lợi hại, trong đó có Ngọc Nữ Tâm Kinh, Song kiếm hợp bích (từ Tiểu Long Nữ), Toàn chân kiếm pháp, Cáp mô công (từ Âu Dương Phong), Đả cẩu bổng pháp (từ Hồng Thất Công), Đạn chỉ thần công và Ngọc tiêu kiếm pháp (từ Đông Tà Hoàng Dược Sư), Ảm nhiên tiêu hồn chưởng, Cửu âm chân kinh, Tam kiếm…



11. Quách Tĩnh
(Thần điêu hiệp lữ) - 80,2 điểm

Tuy chậm chạp, ngốc nghếch nhưng Quách Tĩnh là người chăm chỉ, chân thật, dũng cảm, hay làm việc nghĩa.

Võ công của Quách Tĩnh học được từ rất nhiều người, đầu tiên là từ Giang Nam Thất Quái. Được Mã Ngọc chân nhân truyền dạy bí quyết luyện nội công của phái Toàn Chân khi còn lưu lạc ở sa mạc Mông Cổ. Sau là học được từ Hồng Thất Công, môn Hàng Long Thập Bát Chưởng.


Quách Tĩnh - Huỳnh Nhất Hoa trong Thần điêu đại hiệp 1983.

Khi lên đảo Đào Hoa, gặp được Chu Bá Thông, Quách Tĩnh được ông truyền thụ hai môn võ lợi hại là Song Thủ Hổ Bác và bảy mươi hai lộ Không Minh Quyền, sau đó là Cửu Âm Chân Kinh.

Thành tích lớn nhất của Quách Tĩnh là đánh bại quân Mông Cổ, bảo vệ thành Tương Dương trước sự xâm lăng của người Mông Cổ vào năm 1258.

Khi quân Mông Cổ trở lại vào năm 1273, thành Tương Dương thất thủ, ngoài Quách Tương, những người còn lại trong gia đình Quách Tĩnh đã tự vẫn để tỏ lòng trung nghĩa với đất nước.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

NÓI CHUYỆN
TAM QUỐC
***
Vũ Tài Lục


https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh7p4Xh57XInmDqeu0052LIccBhj3cnMftrY2TGvqMAiUaOnTxTz7I-du2NTcTBJSqxz_CJk5X_EFxfBV9dhgG_U4se9mIwAKCiqiB_9_VUKtREv0fDKO_5kXLmnsMMlx1XM0BKJc8THMRpqNqlXiu4CMm3jdLEtFTo8MgGq9B9LgqfaflyGVIisbiOMw/w640-h312/50-1xxx.PNG

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Vũ Tài Lục
NÓI CHUYỆN TAM QUỐC


MỤC LỤC.

LỜI NÓI ĐẦU
NHỮNG VIỆC ĐI TRƯỚC TAM QUỐC
Giai cấp mới – Bình dân tham chính – Ai diệt lục quốc – Hạng Võ đi ngược chiều lịch sử - Lưu Bang biết được thế lớn – Lưu Bang bỏ thế lớn – Văn hoá xung kích và Tam quốc.

NHỮNG GIAI ĐOẠN CHỦ YẾU CỦA TAM QUỐC.
Giai đoạn tiền Tam quốc từ 184 đến 220 – Giai đoạn xây dựng chính thức thế chân vạc – Giai đoạn ba nước tiêu diệt lẫn nhau và nhà Tấn thông nhất – Địa lý thời hậu Hán.

MẦM LOẠN.
Hoạn quan – Ngoại thích – Xung đột giữa phần tử trí thức và hoạn quan - Ẩn dật và ra mặt chống đối – Loạn Khăn vàng – từ Hoàng cân, hoạn quan đến quân phiệt - quân phiệt Đổng Trác – Những nguyên nhân thất bại – Luận về chính quyền và cái chết của Đổng trác – Điêu Thuyền và cái chết của Đổng Trác.

PHẦN TỬ TRÍ THỨC.
Lý luận Vilfredo Pareto – Phần tử trí thức đời Xuân thu đời Chiến quốc – Phần tử trí thức giao thời Tần Hán – Phần tử trí thức đời Tây Hán – Phần tử trí thức tại triều bị hoạn quan quật ngã – Vương Doãn một điển hình Nguỵ trí thức cùng loại Vương Doãn – Văn hoá xung kích – Loạn Khương Hồ và kiêu binh.

QUÁ TRÌNH TIÊU TRƯỞNG CỦA CÁC LỰC LƯỢNG
Tình thế Châu U – Hậu quả của hành động mua giây thắt cổ - Lực lượng Tào Tháo trưởng thành – Khái quát thực trạng đấu tranh và liên hợp giữa các lực lượng – Chiến cục Tào Tháo và Đào Khiêm – Lưu Huyền Đức gặp cơ hội đầu tiên – Lã Bố thua – Một điều tuyến nứt rạn – Khổng Dung, chế độ danh sĩ đã hết – Tập đoàn Thái học sinh – Chính sách Tào Tháo sử đãi bọn danh sĩ – Tào Mạnh Đức cần vương – Nội tình việc đem vua về Hứa đô – Vụ chiếu chỉ đai áo Lưu huyền Đức – Hai người đàn bà có ảnh hưởng đến đời chính trị của Lưu Bị.

CHIẾN TRANH VIÊN TÀO.
Viên Thiệu dưới mắt La Quán Trung xét lại chiến dịch Quan Độ - Xét lại trường hợp Viên Thiệu – Lực lượng Viên Thiệu tiêu diệt ra sao – Điền Trù – Chính sách đồn điền là gì?

TRẬN XÍCH BÍCH.
Châu Du – Lỗ Túc - Cố Ung – Luận về Tôn Ngô – Mưu sĩ Tuân Úc – Luận về cái chết của Tuân văn Nhược – Tuân Úc, Nễ Hành, Trần Cung.

CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ ÍCH CHÂU VÀ KINH CHÂU
Lã Mông là người thế nào – Quan vân Trường – Bàn luận về cái đức của Quan vân Trường.

LUẬN VỀ TÀO THÁO.
Chính thống và đạo thống – Tào Tháo là con người như thế nào – Gian thần thoán đoạt – Thời đại và xã hội mà Tào Tháo sinh trưởng – Trước hết Tào Tháo có nhân nghĩa để mà vận dụng không – Nhưng đáng kể nhất vẫn là con người chính trị của Tào Tháo – Tâm lý chính trị của Tào Tháo – Bàn về công việc tranh đoạt chính quyền của Tào Tháo – Bàn về cách sử dụng quyền uy của Tào Tháo – Nghi án Lã Bá Xa và Lưu Phúc.

LUẬN VỀ GIA CÁT LƯỢNG.
Tập đoàn trí thức Phương Nam – Tam cố thảo lư – Thiên tài chính trị - thất bại Kinh châu lần thứ nhất – Ngoại giao trên hết – Tư tưởng và tài cán quân sự - Cái tài mượn của Khổng Minh – Bàn về những thất bại của Khổng Minh – Thất thủ Nhai đình – Nguỵ Diên tạo phản và tình hình Ba Thục.

TƯ MÃ Ý CHIẾM NGÔI NGUỴ
Ngón đòn trí mạng của Tư Mã Ý – Kỹ thuật đảo chính của Trotzky đã được Tư Mã Ý thực hiện cả ngàn năm trước.

KHƯƠNG DUY, ĐẶNG NGẢI VÀ CHUNG HỘI
Thất bại của thoả hiệp Chung Hội–Khương Duy – Nhu cầu thống nhất đã huỷ diệt mưu đồ của Đặng Ngải.

TIỀU CHU VÀ PHẦN TỬ TRÍ THỨC CUỐI TAM QUỐC
Phần tử trí thức rời bỏ nhiệm vụ khiến cho chính trị thất bại – Tranh chấp Nho đạo và Phật giáo – Huyền học phái hưng thịnh do tâm lý chán ghét chiến tranh.

TỔNG LUẬN
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

1
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
LỜI NÓI ĐẦU


Trong lịch sử, những thời kỳ quá độ đều là thời kỳ cực trọng yếu, ảnh hưởng lớn mạnh đến động hướng của Quốc gia, Dân tộc và Xã hội. Thời kỳ Tam-quốc là một thời kỳ quá độ, cũng như Hán Sở tranh hùng là thời kỳ quá độ từ Tần qua nhà Hán, Xuân thu Chiến quốc là thời kỳ quá độ từ Chu qua Tần.

Thời kỳ quá độ thì bao giờ tranh chấp cũng rất khốc liệt và chính trị tính thật cao. Vì thế ông Kim Thánh Thán mới đề trong nguyên tự của bộ Tam quốc mấy chữ: Tam quốc giả nãi cổ kim tranh thiên hạ chi nhất đại kỳ cục (Tam quốc là một cuộc tranh chấp chính trị kỳ diệu) Do tính chất điển hình văn hoá Trung quốc, do tính chất kỳ diệu của tranh chấp chính trị, thêm vào đấy bút pháp thần kỳ của nhà văn La Quán Trung, pho chuyện Tam quốc chí đã trở thành một tác phẩm văn học phổ biến nhất của Trung quốc. Các giai tầng xã hội kể từ phần tử trí thức, đến quí tộc, thường dân, nông dân, từ vị tuổi tác đến đàn bà con trẻ chẳng ai là không biết tên Lưu Bị, Tào Tháo, Khổng Minh. Không những Tam quốc chí diễn nghĩa phổ biến trong nhân dân Trung quốc, nó còn phổ biến trong dân gian các nước chịu ảnh hưởng văn hoá Trung quốc nữa.

Thứ nhất là người Việt chúng ta, nói Tam quốc và “nhấm nháp” thú vị Tam quốc hầu như rất quen với tất cả và thuộc đủ tầng lớp. Các trẻ em ta vui chơi thường hát vè rằng: “Bồ cu bồ các Tha rác lên cây, Gió đánh lung lay, Là vua Cao tổ. Những người mặt rỗ, Là ông Tiêu hà, Nước chảy qua đường, Là dượng Tào Tháo Đánh bạc cố áo, Là anh Trần Bình. Nhà văn Nam Cao tả trong một đoản thiên tiểu thuyết của ông, hình tượng điển hình nhất để nói lên cái “thú vị chi cực” của Tam quốc đối với người Việt. Có người xem xong một đoạn Tam quốc, khoái quá anh ta đã vỗ đùi đánh đét mà chửi đổng một câu” Tiên sư cái thằng Tào Tháo!” để tỏ lòng phục tài của một chính trị gia lỗi lạc. Có điều đáng tiếc, đa số chúng ta chỉ đem Tam quốc để tán trà dư tửu hậu mà thôi. Phải chăng thói quen ấy đã đáp ứng với tinh thần của bài từ mở đầu qua mấy câu ca dao:

Nhất hồ trọc tửu hỷ tương phùng
Cổ kim đa thiểu sự.
Đô phó tiếu đàm trung.

Tạm dịch:
Gặp nhau hồ rượu đầy vơi,
Xưa nay bao nhiêu việc,
Phó mặc cuộc nơi cười.

Nhưng chuyện Tam quốc chí còn mang một giá trị rất lớn về tư tưởng và quyền thuật chính trị. Người phương Đông đọc Tam quốc, bàn luận về Tam quốc cũng cần thiết như người phương Tây đọc và bàn Le Prince, l’Etat et la révolution. Chúng ta có thể tỉa rút từ Tam quốc nhiều kinh nghiệm, nhiều qui luật chính trị. Sự phong phú kinh nghiệm, phong phú qui luật chính trị chứa chất trong pho Tam quốc càng làm nổi bật cái tài hoa của Đông phương, đã tan biến được ý thức về chính trị sâu sắc và rắn chắc vào một hình thức nhẹ nhàng giản dị: thông tục tiểu thuyết. Dưới hình thức thông tục tiểu thuyết, Tam quốc chí diễn nghĩa không chỉ làm cho dễ hiểu, hứng thú, còn gây cho người đọc một lực tưởng tượng dồi dào. Dễ hiểu, hứng thú, tưởng tượng dồi dào là những yêu cầu căn bản mà Tứ Thư, Ngũ kinh hoặc Nhị thập tứ sử, Thông giám, Cương giám, không có khả năng cung cấp nổi.

Tuy nhiên, Tam quốc chí diễn nghĩa cũng không khỏi chịu sự câu thúc của tư tưởng Đạo thống chính thống cho nên vẫn thấy xuất hiện ít nhiều thiên kiến. Ngoài ra Tam quốc còn một đặc điểm nữa: dùng thú vị tiểu thuyết lôi cuốn độc giả vào chỗ tế nhị của tư tưởng quân sự. Trong Tam quốc, “binh pháp” Tôn Vũ tử hầu hết được đem chuyển từ sắc thái tư tưởng trừu tượng thành những bức tranh cụ thể, linh động. Cho nên phàm người nào muốn tìm hiểu Tôn Tử binh pháp mà không đọc Tam quốc, không suy tư về những chiến trận trong Tam quốc, thiết nghĩ thật là một điều khiếm khuyết vô cùng. Bởi vì nếu xét lại tự sự chiến trường Tam quốc, ai ai cũng phải công nhận, tư tưởng Tôn Vũ Tử như đã hoà vào máu đỏ để chảy trong huyết mạch nhà văn La Quán Trung. Tóm lại: pho Tam quốc chí diễn nghĩa xứng đáng là một tác phẩm gối đầu giường của mọi người. Tán chuyện Tam quốc là một cái khoái vô song. Bàn luận nghiêm túc chính trị, nhân vật, chiến sự Tam quốc là một nhu yếu rất thiết thực, thứ nhất đối với thời thế “Tam phân ngũ liệt” của chúng ta bây giờ.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

2
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
- 1 -
NHỮNG VIỆC ĐI TRƯỚC TAM QUỐC


Truyện Tam quốc được khai đoan bằng một câu: “Phù thiên hạ đại thế, phân cửu tất hợp, hợp cửu tất phân”. (Thế lớn thiên hạ, chia lâu rồi lại hợp, hợp lâu lại rồi chia).
Đó là một qui luật lịch sử, một đoạn nhân quả tiếp nối để thúc đẩy lịch sử chuyển mình, diễn tiến. Nếu nghĩ rằng chia hay hợp chẳng qua là tự nhiên do mệnh trời xếp đặt, thì hiện tượng phân hợp của lịch sử trở nên trống rỗng (và Tam quốc cũng mất hết ý nghĩa)
Nhận định lịch sử bằng quan niệm “mệnh trời” không khác gì ý muốn “trói voi bỏ rọ”. Nhận định ấy tất sinh sản ra những lý luận không chính tắc, đôi khi tức cười nữa. Tỉ dụ cuốn Tân biên Ngũ đại Lương sử Bình Thoại ghi chép một chuyện cũ về Tam quốc như sau:

“Khi Lưu Bang thắng được Hạng Vũ rồi, nhân có bụng nghi các công thần nên giết Hàn Tín, Bành Việt, Anh Bá. Cả ba liền kiện Lưu Bang trên Thiên đình. Trời bèn cho Hàn Tín thác sinh làm Tào Tháo, Bành Việt thác sinh làm Tôn Quyền, Anh Bá thác sinh làm Lưu Bị để trả thù xâu xé cướp lại cơ nghiệp của Hán cao Tổ. Bởi vậy mới thành Tam quốc”
Mục đính cố sự trên được bịa đặt ra nhằm tác dụng đề cao thuyết ân oán báo ứng. Điểm đáng chú ý là: nó gây một ảnh hưởng không nhỏ và đã được lưu truyền rất rộng rãi trong đại chúng.

Lịch sử là tổng hợp sinh hoạt nhân loại. Luận đoán lịch sử đương nhiên không thể đặt dưới chiều ánh sáng chân lý siêu việt ngoại tại. Lịch sử phải được phê phán dưới chiều ánh sáng chân lý nhân sinh nội tại.

Theo chân lý nội tại nhân sinh, thì những bước đi của lịch sử không bao giờ độc lập tự tồn, mà chúng phải chịu qui luật tiếp diễn, nhân quả. Ở đây có những tính phổ biến, tính cộng đồng. Phân hay hợp mỗi giai đoạn đều mang tác dụng và nhiệm vụ riêng. Bây giờ nói về hiện tượng “chia ba chân vạc” của thời đại Tam quốc, chúng ta có thể khẳng định như sau:

- Nguyên nhân trực tiếp là: triều chính Hán mạt thối nát.
- Nguyên nhân gián tiếp là: Những vấn đề còn chưa xong của thời đại Xuân thu Chiến quốc.
- Nhiệm vụ của sự chia cắt là tiếp tục công cuộc thống nhất Hán triều bỏ dở.
- Tác dụng của “tam phân” là thống nhất từng mảnh rồi mới thống nhất toàn bộ.
Có tìm hiểu minh bạch “bối cảnh lịch sử thời đại” thì mới phát hiện được thực chất Tam quốc, mới đặt được trung tâm hướng dẫn bàn luận về những quan niệm chính trị, chiến sự và nhân vật.

Dưới đây chúng tôi xin nêu ít luận cứ:

Từ tám trăm đến mười.
Xu hướng thống nhất bắt đầu dâng cao lên kể từ đời vua Trụ. Nhưng triều chính của vua Trụ quá thối nát không thể lãnh đạo được xu hướng đó. Thừa cơ, nhà Chu liền khởi nghiệp tự lập làm vua. Văn Vương mất, Vũ Vương kế vị được hai năm thì quyết định thanh toán triều đại nhà Ân mà Trụ vương làm đại biểu. Vũ Vương hội tám trăm chư hầu ở Mạnh Tân, sau trận giáp chiến tại Mục Dã, nhà Ân mất hẳn.

Để đáp ứng với nhu yếu thống nhất, nhà Tây Chu đã thôn tính rất nhiều bộ lạc lẻ tẻ rời rạc, đồng thời kiến lập nền móng một trật tự trung tâm, một cốt cách văn hoá trung tâm cho Trung quốc.

Tính đến lúc nhà Chu chuyển từ Tây sang Đông được gọi là Đông Chu, số chư hầu chỉ còn lại hai trăm. Nhưng mạnh nhất và ảnh hưởng đến cục diện vẻn vẹn có mười nước.
Giai cấp mới.

Đông Chu được lập 49 năm, tranh chấp thôn tính biến tính chất, trở nên gay go quyết liệt hơn, vì quy mô cùng lực lượng tranh chấp đã lớn lên rất nhiều. Sự cạnh tranh giữa các liệt quốc tạo thành sự hưng thịnh của học thuật. Thế hệ tư tưởng nhờ các thế lực khác nhau bảo trợ, nhờ hiện tượng mỗi ngày một phức tạp của xã hội vun tưới, đã trổ bông rườm rà, cỏ lạ hoa thơm. CÙng một lúc với sự hưng thịnh của học thuật là sự thành lập riêng biệt một giai cấp mới: giai cấp sĩ (phần tử trí thức).
Bình dân tham chính.

Bản thân thời đại Xuân thu bao quát sau 242 năm, cuối cùng chỉ còn lại bẩy nước tồn tại là: Yên, Tề, Sở, Hàn, Triệu, Nguỵ, Tần. Cuộc tranh hùng giữa bẩy nước, lịch sử ghi lại dưới một tên khác: thời đại Chiến quốc.

Hai thời đại Xuân thu và Chiến quốc mang một hiện tượng đặc sắc là: Bình dân tham dự chính quyền. Về hiện tượng này ông Triệu Dực viết như sau:
Từ cổ, chư hầu tự cai quản nước mình, khanh đại phu truyền con, truyền cháu làm quan trị dân. Dưới chế độ “cường thần đại tộc”, dân chúng bị ngược đãi điêu linh, loạn ly không dứt. Tranh chấp đến Chiến quốc thì phạm vi bành trướng to rộng quá. Khanh đại phu bị chìm ngập, lãnh đạo chính trị không thể theo con đường thế khanh, thế hầu được nữa. Do đó mới xuất hiện các chính khách như: Phạm Thư, Sái Trạch, Tô Tần, Trương Nghi, các võ tướng như Tôn Tẫn, Bạch Khởi, Nhạc Nghị, Liêm Pha, Vương Tiễn. Và xa xưa nữa như: Nịnh Thích, Bá Lý Hề. Những người này hết thẩy đều áo vải chân trắng.
Kết cục tranh chấp Thất hùng: nhà Tần kiêm tính sáu nước Yên, Tề, Sở, Hàn, Triệu, Nguỵ dựng nên Tần triều, chấm dứt thời đại Chiến quốc kiến lập cơ sở thống nhất đầu tiên.

Ai diệt lục quốc?
Nhà Tần sở dĩ dựng lên là vì đáp ứng với nhu yếu thống nhất, Tần kéo được về phía mình một lực lượng to tát: nhân tâm quy hướng. Ông Đỗ Mục có một lời phê rất đúng: “Không ai diệt lục quốc cả, chỉ lục quốc tự diệt mà thôi”. Bất quá vũ lực và thủ đoạn của Tần triều đã không nghĩ thế. Khi thống nhất rồi, họ liền cho vũ lực là vạn năng, thủ đoạn là vạn năng.

Tần triều không tìm đến một phương thức lãnh đạo thích hợp với tình trạng mới, mà chỉ đem phương thức “Bá” nhỏ hẹp để thống trị đại thiên hạ. Tần Thuỷ Hoàng hạ lệnh đốt sách, nhằm qui hết tư tưởng vào một mối. Tần chỉ đem pháp chính ra mong làm chủ lưu tư tưởng, pháp chính là một mặt rất hẹp của tư tưởng thì làm sao có thể lấp bít hết những trống rỗng trên nhiều mặt khác?

Hạng Võ đi ngược chiều lịch sử.
Phương thức bá nghiệp đã bất lực với việc thống trị đại thiên hạ. Bốn phương lại ly loạn. Lòng phục hận của con cháu Yên, Tề, Sở, Hàn, Triệu, Nguỵ tạo nên nguy cơ phân xé. Tuy nhiên chẳng sức mạnh gì có thể ngăn chặn lịch sử tiến bộ được. Sí đồ phân chia chư hầu liệt quốc của dòng họ sáu nước thất bại. Diệt Tần, nhưng điều căn bản vẫn là tiếp tục hoàn thành thống nhất. Bất cứ âm mưu xé nát từng mảnh nào đều không có khả năng tồn tại. Bởi vậy, việc cướp lại thiên hạ của Tần bị thu hút vào lực lượng lớn nhất: Sở Hạng Vương, sau trận thắng lợi diệt Tần ở Cư (Cự?) lộc.

Nhưng Sở Hạng Vương đã phạm vào lỗi lầm đưa Sở diệt vong là đi ngược chiều với xu hướng thống nhất: chia phong 18 chư hầu. Trong đó Hán Bái Công được phong làm Hán vương. Việc chia phong dẫn đến bất bình nội bộ. Hán vương liền thừa cơ lung lạc chư hầu nổi lên, đánh bại Hạng Vương ở Cai Hạ.

Thất bại chia cắt này suýt nữa chính Lưu Bang cũng mắc phải. Tây Hán thì (chí?) kể rằng:
“Một hôm Lịch Tự Cơ vào yết kiến Hán vương nói: Ngày xưa vua Thang vua Vũ đánh Kiệt, Trụ đều phong cho con cháu những nước bị đánh làm vua. Đến lúc nhà Tần thâu phục chư hầu mới huỷ diệt xã tắc của họ. Nay nếu Đại vương noi gương Thang, Vũ lập con cháu sáu nước bị mất lên làm vua, thì Đức và Lượng của Đại vương sẽ rải khắp thiên hạ. Tôi chắc Hạng Vương cũng sẽ khép vạt áo về chầu Đại vương.
Hán vương thích lắm, sai thợ khắc ấn sáu nước và sai Lịch Sinh đem ấn đi tìm con cái, dòng dõi chư hầu mà phong.

Nhưng Lịch Sinh chưa đi, Trương Lương đã đến chầu.
Bấy giờ Hán vương đang ăn, thấy Trương Lương vội đem việc đó kể lại.
Trương Lương thất kinh nói:
- Ai bầy cho Đại Vương cái mưu kỳ lạ đó? Vua Thang, vua Vũ phong cho con cháu Kiệt Trụ là vì Thang Vũ đủ sức làm chủ sự sống chết của họ. Còn Đại vương có thể làm chủ được Hạng Vũ chăng? Vả lại các du sĩ trong thiên hạ theo Đại vương cốt là mong hưởng mỗi người vài mảnh đất. Nếu Đại vương lập các con cháu dòng họ cũ thì ai còn theo giúp Đại vương nữa. Hễ dùng mưu đó cơ nghiệp Đại vương tất tiêu tan.
Hán Vương nghe nói, nhả miếng cơm trong miệng ra, mắng Lịch Sinh: “Nếu tiên sinh không kịp đến, ta đã nghe lời rồ dại kia mà làm hỏng việc lớn rồi”.
Liền truyền bỏ huỷ ấn sáu nước đi.
Lịch Sinh bị mắng xấu hổ lui ra.

Cách vài ngày sau, Trương Lương tìm đến nói với Lịch Sinh:
- Câu chuyện bữa trước, tôi thực tình vì nước chứ không có ý riêng. Tôi không ngờ đó là ý của tiên sinh, về sau biết được lòng tôi áy náy. Vả lại bàn việc phải xét kỹ mọi điều mới khỏi lầm lẫn. Nhà Hán tuy đã lấy được nửa đất của Sở, nhưng Hạng Vương thế lực còn mạnh lắm. Nếu ta phong cho sáu nước chư hầu, chẳng khác nào ta tự chia rẽ lực lượng của ta để mà đem trao cho địch. Tiên sinh chỉ thấy cái chỗ Hán vương với Thang, Vũ giống nhau mà không thấy cái chỗ Hán với Thang Vũ khác nhau.

Lưu Bang biết được thế lớn.
Thành công của Hán vương được các sử gia quy vào bốn chữ: Năng tri đại thể (biết được thế lớn). Bên cạnh bốn chữ năng tri đại thể còn phải kể đến yếu tố chủ yếu là Hán vương đã gắn liền được sự nghiệp ông ta với lực lượng giai cấp sĩ. Giai cấp sĩ lúc này đã chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của Khổng phu Tử trên sinh hoạt và tư tưởng Quản Trọng trên phương pháp.

Sự ủng hộ của lực lượng giai cấp sĩ đem lại cho Hán vương khả năng lãnh đạo đại thiên hạ mà Tần và Sở đều không có. Hán vương nói một câu thật đầy đủ ý nghĩa: Đấu trí mà không đấu lực. Câu này xác định nhận thức đúng của Hán vương về cơ bản thành công trong tình thế mới là chính trị chứ không phải là vũ lực.

Nhu yếu của giai cấp sĩ gắn liền với công cuộc giành thiên hạ của Hán vương là nhằm mục đích đem tư tưởng của Khổng tử, Quản Trọng từ địa vị chủ lưu tiến quân vào Chính thống.

Lưu Bang bỏ thế lớn.
Vận hành lịch sử không bao giờ tiến theo một vạch thẳng tắp mà tiến theo đường xoáy ốc từ thấp đến cao.

Hán vương thống nhất thiên hạ rồi liền áp dụng chế độ hành chính thống nhất, đặt định Quận, Huyện, bổ nhiệm quan lại. Sự nghiệp ổn định sinh ra tâm lý tự kiêu trong lòng Hán vương. Giai cấp sĩ phản đối, Hán vương từ bỏ giai cấp sĩ. Bị đuổi, giai cấp sĩ liền hoà hẳn với dân chúng đem Nho học đi sâu vào nhân tâm, đặt chuẩn tắc cho xã hội.
Còn triều đình Hán về sau càng ngày càng sa chân xuống vũng bùn xu nịnh, nguyên nhân của nạn hoạn quan, ngoại thích sau này.

Chia lìa giữa giai cấp sĩ với triều đình nhà Hán là chia lìa giữa lực lượng thống nhất bằng văn hoá tư tưởng Và cũng là chia lìa giữa dân chúng với tập đoàn vua quan lại trị. Sự chia lìa này làm cho toàn bộ công cuộc thống nhất bạc nhược. Bạc nhược vì quyền bính chính trị thiếu sự hiệp trợ của văn hoá tư tưởng, hiệp trợ của dân chúng tất nhiên không gây dựng nổi hiệu quả chắc chắn. Còn văn hoá tư tưởng thiếu uy thế của quyền bính chính trị tất nhiên không tiến hành mau chóng được.

Văn hoá xung kích và Tam quốc.
Văn hoá phát triển tất có khu trung tâm (Center area) và khu biên duyên (Margin area). Khi khu trung tâm phát đạt, nó sẽ xung kích vào khu biên duyên, để khiến cho biên duyên khai hoá. Ngược lại khu biên duyên cũng chỉ chờ khu trung tâm hủ bại, nội loạn là xung kích vào trung tâm để đặt ảnh hưởng và thế lực của mình.

Cuối đời Hán, thế xung kích qua lại giữa khu văn hoá trung tâm với khu văn hoá biên duyên trở nên gay go. Thế lực văn hoá ở khu trung tâm, để tồn tại cần phải phát triển thành thế lực chính trị chứ không thể vẫn giữ tình trạng phân ly như cũ được nữa. Nhưng khốn nỗi, sự thối nát của triều chính Hán mạt đã làm cho quyền bính chính trị tản mạn chứ không tập trung nữa.

Nho sĩ cũng phải phân tán để kiến thiết thế lực chính trị ở các khu vực quyền bính chính trị khác nhau.

Sự trạng này tạo nên thế Tam quốc mà chúng ta sẽ bàn luận vào chi tiết ở những bài sau.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

3
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
- 2 -
NHỮNG GIAI ĐOẠN CHỦ YẾU CỦA TAM QUỐC


Ông Cao Nho danh sĩ đời nhà Minh phê phán Tam quốc chí diễn nghĩa có một đoạn như sau:
- Góp nhặt tài liệu chính sử, sắp xếp lại các chuyện, chứng thực bằng lời văn, hiểu rõ tâm lý quần chúng, không thô lậu quê mùa, không hoàn toàn bịa đặt, dễ xem dễ hiểu, không phải lời văn quá vắn tắt, khó khăn của các nhà viết sử cổ xưa, không có giọng khôi hài nhạt nhẽo của người mù kể truyện rong, chép chuyện trăm năm, bao quát muôn việc.

Sở dĩ có hai chữ diễn nghĩa, hình như dụng ý của nhà văn là để chống đối với chính sử, La Quán Trung muốn quảng đại quần chúng cũng có quyền hiểu lịch sử.
Toàn bộ lịch sử trải qua thời kỳ tiền Tam quốc, thời kỳ chính thức xây dựng ba nước Ngô, Nguỵ, Thục cho tới ngày Tư mã Viêm thống nhất toàn quốc dựng nên nhà Tấn dài ước chừng non thế kỷ.

Loạn Khăn vàng khởi sự vào năm đầu niên hiệu Trung bình đời Đông Hán Linh Đế, tức là năm 184 công lịch. Đến năm 280 công lịch nhà Tấn diệt Ngô thống nhất. Lỗ Tấn khi bàn về cuốn Tam quốc chí diễn nghĩa cũng nói: “Gồm đầu đuôi việc 97 năm”.
Khoảng thời gian ngót một trăm năm lịch sử khả dĩ chia làm ba giai đoạn chủ yếu.
Giai đoạn tiền Tam quốc từ 184 đến 220.

Loạn Khăn vàng khởi lên vào giữa lúc thời kỳ thối nát nhất của nền chính trị cuối nhà Hán. Thanh thế Khăn vàng ban đầu mạnh như mây đùn gió nổi, nhưng vì điều kiện lịch sử hạn chế một phần, lãnh đạo lầm lỡ một phần, nên loạn Khăn vàng sau nhiều thất bại liên tiếp bị dẹp tan. Để mua sự tiêu diệt của phong trào Khăn vàng, chính quyền Đông Hán đã phải trả một giá rất đắt là: tạo nên sự lung lay và suy yếu tột độ của chính mình để cuối cùng bước tới sụp đổ. Chính quyền nhà Hán lung lay suy yếu, chế độ trung ương tập quyền tan vỡ, khiến thế lực địa phương mạnh lên, mỗi kẻ xưng hùng xưng bá một nơi.

Năm 189, Đổng Trác tiến quân vào Lạc Dương. Năm 190 liên quân miền Đông do Viên Thiệu cầm đầu, do Tào Tháo tổ chức tiến đánh Đổng Trác. Trong quá trình thành lập liên quân, Viên Thiệu, Viên Thuật lợi dụng tăng cường thế lực, Thiệu thôn tính thêm ba châu Thanh, Tinh, U. Thời kỳ loạn kiêu binh Lý Thôi - Quách Dĩ, Tào Tháo nhờ Chu Tuấn tiến cử, được cử phá giặc Sơn Đông thống nhất một địa phương rộng lớn, thành lập thế lực cho mình.

Từ 197 đến 207 là thời gian chiến tranh quyết liệt giữa hai lực lượng Viên Thiệu và Tào Tháo. Sau khi dẹp thế lực Viên Thiệu, Tào Tháo đề quân Nam tiến, định vượt qua sông Trường giang đánh đổ Tôn Quyền, thực hiện chí lớn thống nhất Nam Bắc. Nhưng mưu đồ này thất bại vì trận Xích Bích, vì sự kết hợp lực lượng Tôn Quyền với Lưu Bị.
Giai đoạn xây dựng chính thức thế chân vạc.

Nhờ chiến thắng Xích Bích, năm 209 Lưu Bị lĩnh chức Mục Kinh Châu dần dần chiếm Thành Đô, năm 219 tự xưng Vua Hán Trung.

Năm 220 Tào Tháo chết, con là Tào Phi phế bỏ vua Hán lập nước Nguỵ. Năm 222 Tôn Quyền đổi niên hiệu là Hoàng Vũ, năm 229 xưng Đế ở Giang Đông đặt tên nước là Ngô.
Giai đoạn ba nước tiêu diệt lẫn nhau và nhà Tấn thống nhất.

Quan Công nhân cơ Bắc tiến đánh chiếm Phàn Thành, Kinh Tương của Nguỵ. Nguỵ sẽ khốn đốn to nếu không nhờ Tôn Quyền đánh thọc vào hậu phương Thục cướp Giang Lăng giết chết Quan Vũ. Hành động này gây thành mâu thuẫn một mất một còn giữa Ngô và Thục.

Năm 222 Lưu Bị cử đại binh đi đánh Ngô trả thù cho Quan Vũ. Vì sai lầm trên quân sự, Lưu Bị thảm bại trong trận Hào Đình khiến cho quá nửa lực lượng thiệt hại. Lưu Bị chạy về Vĩnh Ân ốm chết, Lưu Thiện nối ngôi, Gia Cát Lượng phụ chính, khôi phục chính sách liên hiệp Ngô, Thục đánh Nguỵ. Năm 227 Gia cát Lượng mở chiến dịch Bắc phạt đầu tiên. Năm 234 là chiến dịch Bắc phạt cuối cùng của đời Gia Cát Lượng. Ông chết ngay nơi doanh trại Ngũ Trượng Nguyên.

Gia cát Lượng chết, quyền bính vào tay Khương Duy, tiếp tục đánh Nguỵ từ năm 249 đến 262, ra quân đến tám lần đều bị thua. Mùa xuân 263, Tư Mã Chiêu phái Đặng Ngải, Chung Hội, Gia Cát Tự chia ba đường tấn công Thục. Lưu Thiện đầu hàng. Thục Hán diệt vong từ đó.

Năm 265, Tư Mã Chiêu chết, con là Tư mã Viêm lật Tào Hoán chiếm ngôi, xưng là nhà Tấn, Nguỵ diệt vong từ đó.

Năm 279, Tư mã Viêm đem 20 vạn quân chia làm 6 đường tiến đánh Ngô, vua Ngô là Tào (Tôn?) Hạo đầu hàng. Ngô diệt vong. Thiên hạ chia ba nay quy vào một mối.

Địa lý đời Hậu Hán

Nhiều người đọc chuyện Tam Quốc thường bỏ sót, không chịu tìm hiểu vấn đề địa lý. Sót nó khiến cho ta thưởng thức kém đầy đủ và sâu sắc. Như thế, tìm hiểu địa lý đời Hậu Hán trở nên một nhu yếu của toàn thể độc giả của tác phẩm quý báu ấy. Nó mang đến cho chúng ta nhiều vũ khí tốt cho việc nhận xét, phân tích, tóm tắt chia đoạn
Hành chính Đông Hán khu hoạch ra làm 13 châu, 12 châu mỗi châu một Thích sử coi sóc, còn một châu đặt dưới chế độ Tư lệ hiệu uý. Đối chiếu với bản đồ ngày nay như sau:

° U Châu: bao quát bắc bộ Nhiệt hà và tỉnh Hà Bắc. Hai tỉnh Liêu, Ninh, bắc bộ bán đảo Triều Tiên (Triều Tiên vào đời Hán cũng là một Quận, Huyện của Trung Quốc)
° Ký Châu: thuộc nam bộ tỉnh Hà Bắc
° Tinh châu: gồm phần lớn tỉnh Sơn Tây, bắc bộ tỉnh Thiểm Tây và một bộ phận hai tỉnh Sát cáp Nhĩ, Tuy Viễn.
° Lương châu: bao quát hai tỉnh Ninh Hạ và Thiểm Tây
° Thanh Châu: ở bộ phận đông bắc tỉnh Sơn Đông
° Duyện Châu: gồm tây bộ tỉnh Sơn Đông và đông bắc bộ tỉnh Hà Nam
° Dự Châu: gồm đông nam bộ tỉnh Hà Nam và phía bắc An Huy
° Từ Châu: gồm đông nam bộ tỉnh Sơn Đông và phía Bắc Giang Tô
° Dương Châu: gồm Giang Nam ở An Huy, Giang Tô và ba tỉnh Giang Tây, Triết Giang, Phúc Kiến
° Kinh Châu: gồm tây nam bộ tỉnh Hà Nam và hai tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc
° Ích Châu: gồm nam bộ tỉnh Thiểm Tây và hai tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam
° Giao châu: gồm hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc nước Việt Nam bây giờ
° Tư lệ hiệu uý: gồm tây bắc bộ tỉnh Hà Nam. Tây nam bộ tỉnh Sơn Tây, trung bộ tỉnh Thiểm Tây

Cấp bậc hành chính thấp nhất dưới Hán triều là Huyện. Thấp hơn Huyện thì không còn quan trị nữa mà công việc đều đặt vào quyền điều khiển của những cơ quan tự trị. Trên Huyện đến Quận, trường hợp Quận quá lớn thì gọi là Châu. Mỗi Châu đặt một vị Thứ Sử để làm giám quan xem xét các việc của Thái Thú đứng đầu Quận
(Nên biết rằng, trước nhà Hán, đơn vị quận là một nước)

Ban đầu Thứ Sử là chức giám quan và Thái Thú là chức hành chánh quan còn phân biệt rõ ràng. Dần dần nhà Hán mỗi ngày một suy sụp, Thứ Sử và Thái thú biến thành một vị. Đến thời kỳ Đông Hán, nhân vì loạn lạc, địa vị Thứ Sử và Thái Thú được quyền tuyệt đối ở địa phương và đổi thành Châu Mục. Do đó mới phát sinh ra hiện tượng tranh quyền giữa chính phủ trung ương và địa phương. Địa phương phản kháng trung ương rồi tự ý hùng cứ một cõi. Sở dĩ chính quyền trung ương yếu thế là vì ngay Đông Hán, đời vua Hoàn Đế, Linh Đế, tình trạng thối nát đã đến cực điểm. Nhà vua công khai đem quan tước ra mua bán. Tước Tam Công giá 10 triệu tiền. Theo sử chép, hồi ấy có một tên hoạn quan là Hầu Lãm cướp hàng vạn khoảng ruộng, tên ngoại tộc Lương Ký gia sản ước đến 3 tỷ tiền. Họ hàng thân thích của toàn bộ hệ thống lại trị rải rác khắp các Châu, Quận, vòi vĩnh và vơ vét, hút máu dân chúng.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

4
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
- 3 -
MẦM LOẠN


Đọc chuyện Tam Quốc, ai ai cũng hiểu mầm loạn đời Hậu Hán nẩy ra từ lúc vua Linh Đế sủng bọn Thập thường Thị. Thập thường Thị là nguyên nhân dẫn đến giặc Hoàng Cân (khăn vàng), nhân giặc Khăn Vàng mà có sự khởi binh của Lưu Bị và Tôn Kiên. Lại vì vua Linh Đế băng hà, Thiếu Đế tức vị, Hà Tiến lập mưu tiêu trừ bọn hoạn quan, mở đường cho Đổng Trác đem binh vào kinh. Đổng Trác đem binh vào kinh là đầu mối của một sự phế lập. Việc Đổng Trác bỏ một vua, tôn một vua tạo ra chuyện Viên Thiệu và Tào Tháo dấy binh. Thiên hạ điêu linh, phân sẻ từ đây.

Nói về hiện tượng hoạn quan và ngoại thích, ta không thể đổ lỗi hoàn toàn cho Linh Đế cũng như cho riêng một ông vua nào khác. Hiện tượng ấy nào phải đến Linh Đế mới có. Đời vua Tuyên Đức trước đã xuất hiện Hoắc Quang, Thạch Hiển. Vua Quang Vũ cũng rất trọng dụng ngoại thích; vậy có thể nói được rằng: hoạn quan và ngoại thích là hậu hoạ tất nhiên của chính trị chuyên chính lối vua quan phong kiến.

Hoạn quan và ngoại thích là cái ung độc ẩn ngay chỗ xương cụt của chính trị phong kiến, lúc nào nó cũng rình rập cơ hội để thối ra, độc khí một khi đã bung vỡ thì chỉ có mỗi ngày mỗi thêm phát tác huỷ hoại, chứ khó lòng lành lặn được nữa.

Ngược lên ngày Lưu Bang nhất thống thiên hạ, ta đã thấy cái ung độc hoạn quan ngoại thích mọc ra rồi. Lưu Bang sở dĩ đánh bại được Sở Vương mà đoạt chính quyền là vì biết dựa vào lực lượng phần tử trí thức (giai cấp sĩ).

Nhưng tập đoàn của Lưu Bang lại không tôn trọng phần tử trí thức cho lắm. Cái đó cũng chẳng lấy gì làm lạ, bởi tại họ hết thảy đều là những con người phong bái giang hồ. Theo phò nghĩa lớn, họ hoàn toàn trông vào sự giải quyết trước mắt, đồng thời hòng kiến lập sự nghiệp riêng, cho bõ những ngày gian khổ. Họ không cần nhìn rộng trông xa, chẳng muốn vươn duỗi vào tương lai. Nói chung, tâm lý toàn thể tập đoàn Lưu Bang cần hưởng ngay, ăn ngay. Tâm lý đó không kết hợp với kỳ vọng của phần tử trí thức. Để kéo vây cánh, Lưu Bang một mặt xây dựng cốt cán bằng những người giang hồ phong bái, mặt khác tìm mọi cách đẩy phần tử trí thức ra ngoại vi, kìm hãm không cho phần tử trí thức lớn lên trong guồng máy thống trị, không cho phần tử trí thức có quyền bính. Lưu Bang thường cáu kỉnh mệnh danh phần tử trí thức là bọn hề nho. Nguỵ Báo ghi chép: “Hán Vương nhục mạ quần thần như đầy tớ, chẳng có lễ trên dưới chi cả. Cho nên tôi không muốn gặp nữa”. Tiêu chuẩn kéo vây cánh không đặt nặng vào sự củng cố và phát triển chính quyền qua ý nghĩa “Thiên hạ vi công” mà chuyên đặt nặng vấn đề củng cố cho sự an hưởng phú quý tộc họ cá nhân. Với tiêu chuẩn ấy thì phỉnh nịnh là tư cách căn bản để được chọn lựa. Con đường nguy khốn hoạn quan, ngoại thích đã vạch sẵn, không thể bước ra ngoài được nữa.

Hoạn quan
Độc giả Tam Quốc, phần lớn đặt rất hẹp hai chữ hoạn quan. Tất cả cho rằng bọn hoạn quan chỉ là những người bị “yêm” nghĩa là đã chịu giải phẫu để tự tước bỏ bộ phận sinh dục. Tôi e không đúng hẳn, bởi vì trong Lễ ký, thiên Khúc Lễ có câu: “Hoạn học sự sư, phi lễ bất thân” (Học làm quan phải thờ thầy, phàm cái gì phi lễ thì không gần) ý tứ của chữ hoạn đây không chỉ vào người bị “cắt bỏ bộ phận sinh dục”. Vẫn hay rằng triều Hán, vua Quang Vũ trung hưng, theo sách “Hoạn giả liệt truyện” thì nói “Trung hưng chi sơ hoạn giả tất dụng yêm nhân” (đầu trung hưng, chức hoạn đều phải dùng người bị yêm). Nhưng sách liệt truyện không đưa được chứng cứ nào rõ rệt cả.

Như vậy ta có thể đặt định phạm vi hoạn quan như sau: Hoạn quan là sản phẩm của chính trị chuyên chính xây dựng trên cơ sở tộc họ, cá nhân. Là một tập đoàn chính trị có một thế lực rất lớn và một đường lối bại hoại. Phương thức đấu tranh duy nhất của tập đoàn hoạn quan là sự phỉnh nịnh, hiếu mị, xu phụng và tiếm quyền. Thành phần của tập đoàn, không phải chỉ có bọn yêm hoạn Trương Nhượng, Kiển Thạc mà còn có thể kể cả bọn trí thức gia nhập hệ thống lại trị, đã thoát tiết với quần chúng mà toa rập với Hoàng Triều để chạy theo lợi lộc.

Tại sao Hoàng Đế với Hoạn quan luôn luôn là đôi bạn tương đắc? Có ba lẽ. Một là, khi quyền lực chính trị tập trung vào tay cá nhân, thì chẳng chóng thì chầy quyền lực chính trị sẽ biến thành dụng cụ xây dựng cơ nghiệp riêng, củng cố sự toạ hưởng an lạc của ông vua. Trong hoan lạc, Hoàng đế rất nhu yếu người đồng tính, du nịnh. Bọn hoạn quan có nhiều khả năng về mặt này nhất. Hai là, Hoàng Đế thường hay nghi kỵ, không ngớt lo lắng những vụ phản bội. Sợ các triều thần chân chính cản ngăn vui thú của mình, hoặc âm mưu kết đảng, còn bọn hoạn quan chỉ cần ăn sung mặc sướng no đủ, lại ít tham vọng chính trị, đáng tin cậy hơn cả. Nhưng lịch sử đã có những dẫn chứng rõ rệt ngược lại với quan niệm của Hoàng Đế về hoạn quan như bọn Dịch Nha, Thụ Điêu đời vua Tề Hoàn Công và bọn Thập thường Thị đời vua Linh Đế. Mong dùng hoạn quan để khỏi bị phản bội thì cũng chẳng khác chi chú khờ sợ chuột ăn mất mỡ bèn đem nhốt mèo vào canh. Ba là: do cái tâm chất kiêu sa của con người nắm quyền quá lớn nên thích giao tiếp với bọn nô bộc hơn là với những cộng sự thẳng thắn.

Ngoại thích
Mầm loạn ngoại thích so với hoạn quan cũng chẳng kém phần nguy hiểm. Hơn nữa ngoại thích với hoạn quan là hai vật tương sinh, tương thành. Ngoại thích là gì? Là thân thích của Hoàng Đế. Bọn học phiệt nịnh hót thường dùng danh từ Quốc thích để chỉ các người thân thích của vua, lâu dần danh từ Quốc thích trở nên tục thoại. Thực ra Hoàng Đế là Hoàng Đế, Quốc Gia là Quốc Gia sao lại đem gộp làm một được.

Thân thích phân ra làm hai loại: nếu ăn theo dòng phụ hệ thì gọi là Tôn Thất. Nếu ăn theo dòng mẫu hệ thì gọi là ngoại thích. Tuy cùng thân thích, nhưng giữa Tôn thất và Ngoại thích bao giờ cũng âm ỷ một ngọn lửa xung đột. Ngoại thích không ngừng mưu toan lật đổ thế lực Tôn thất mà cướp thiên hạ cho tộc họ mình.

Tam Quốc phân tranh nhóm lên bằng nạn Ngoại thích trầm trọng. Vua Linh Đế có hai con là Biện tức Thiếu Đế và Hiệp. Biện do chính cung Hoàng hậu Hà thị sinh ra còn Hiệp là con của một mỹ nhân hậu cung. Linh Đế yêu Hiệp hơn Biện, muốn cho Hiệp kế vị, nhưng lại sợ làm trái tập quán, nên mới đem ý định nhắn nhủ bọn Kiển Thạc. Linh Đế chết, một bên Kiển Thạc ủng hộ Hiệp, một bên anh Hà Thái Hậu là Hà Tiến ủng hộ Biện. Tranh chấp giữa bọn Trương Nhượng, Kiển Thạc với Hà Tiến lôi kéo luôn cả Đổng Thái Hậu vào vòng chiến. Đổng thái Hậu nghe lời Nhượng, Thạc giáng chỉ phong Hiệp làm Trần Lưu Vương và định thiết lập thêm một quyền thế cài bên cạnh Thiếu Đế.

Trong hồi thứ hai, tình hình tranh chấp giữa Đổng thái Hậu và Hà thái Hậu được La quán Trung tả lại như sau:

‘Yến ẩm nửa chừng, Hà thái Hậu đứng dậy rót một chén rượu dâng Đổng Thái Hậu, vái hai vái rồi nói rằng:
Chúng ta là đàn bà, theo lẽ không nên dự vào triều chính. Xưa bà Lã Hậu chỉ vì tạm giữ trọng quyền mà đến nỗi họ hàng ngàn người đều bị tru lục, tấm gương còn đó, vậy từ nay chúng ta hãy cùng rút lui vào thâm cung để dành việc lớn triều đình cho các vị nguyên lão đại thần lo toan bàn bạc. Được thế thì Quốc gia đại hạnh. Xin nghe lời thành thực này cho.
Đổng thái Hậu nổi giận mà rằng:
Ngươi đang tâm giết hại Vương Mỹ Nhân, tâm địa ganh ghét rành rành ra đó. Nay ngươi cậy có con vua, anh ngươi có thế lực mà đâm loạn ngôn, hỗn láo với ta à? Liệu hồn ta bảo cho mà biết, ta muốn quan Phiêu Kỵ Tướng quân lấy đầu anh ngươi lúc nào cũng dễ như trở bàn tay.
Hà Thái Hậu nổi giận mà rằng:
Ta lấy lời phải chăng khuyên nhủ, đã không nghe lại trở mặt giận là lý thế nào?
Đổng Hậu mắng:
Mày là đồ con nhà hàng thịt, thì còn kiến thức gì.
Hà Thái Hậu đem chuyện nói với Hà Tiến, Tiến liền đem binh lực đuổi Đổng Thái Hậu ra khỏi cung cấm, và bao vây nhà Phiêu Kỵ Tướng Quân là Đổng Trọng. Đổng Trọng ra sau nhà tự tử. Người nhà khóc ầm lên. Trương Nhượng thấy Đổng Thái Hậu bị phế, tức tốc đem châu báu, vàng bạc liên kết với em trai Hà Tiến là Hà Miêu và mẹ Tiến, xin che chở. Bởi vậy bọn Thập thường Thị chẳng những vô sự mà còn được trọng dụng hơn.

Đại khái sự diễn biến của loạn ngoại thích đều tầm thường hài hước như thế cả. Nhưng không phải là nó không có tác dụng chính trị tiềm ẩn bên trong đâu. Tranh chấp ngoại thích chính là chiếc ngòi để làm nổ cả kho thuốc súng. Tác dụng của nó là tạo nên một sự biến chuyển cơ. Nút chuyển cơ rất cần thiết cho phát triển xã hội, phát triển chính trị. Nút chuyển cơ ấy ví như tiếng sấm báo hiệu cơn mưa trong câu ca dao Việt:

- Lúa chiêm phơ phất đầu bờ
- Hễ nghe sấm động, phất cờ lúa lên.

Xung đột giữa phần tử trí thức và hoạn quan
Phần tử trí thức phẫn nộ Thời đại Chiến Quốc, phần tử trí thức tập trung ở Tần khiến Tần kiêm tính thiên hạ. Tần Thuỷ Hoàng xưng đế được tám năm, nhân áp dụng chính sách của Lý Tư, pháp lệnh quá khắt khe, đối đãi tàn ngược với dân chúng. Thậm chí nhà Tần phản bội trí thức, đốt sách chôn nho. Tần Đế chạy theo tư tưởng dị đoan cầu tiên, xin thuốc tràng sinh bất lão. Phần tử trí thức liền tan biến vào dân chúng, lãnh đạo vận động phản Tần. Đáng kể như Tiêu Hà, Trương Lương, Thúc Tôn Thông, Trương Xương, Trần Bình…. Lúc đầu họ theo phò cả Hạng Võ lẫn Lưu Bang, sau dần dần quy tụ hết lực lượng về phía Lưu Bang. Phần tử trí thức trong tay tuy không có lấy nổi một tấc sắt, sức lực cũng chẳng được bao nhiêu, nhưng sức mạnh phi thường của tri thức là mưu trí, là sự cổ suý thiên thiên vạn vạn nhân tâm. Cho nên phàm khi phần tử trí thức đã hết tin để phản đối một chính phủ nào đó thì chính phủ đó ít có khả năng tồn tại.

James BURNHAM viết: “Khoa học chính trị và khoa học lịch sử trước hết phải nghiên cứu kết cấu, cơ sở cùng liên hệ với quần chúng của phần tử trí thức”[1] Câu đó là một quy luật bất di bất dịch đối với chính trị sử vậy.

Lưu Bang dựa vào phần tử trí thức mà đắc thế. Chỉ ít lâu sau, Lưu Bang thi hành chính sách lại trị, quay lại thờ ơ, từ bỏ lực lượng trí thức. Chính sách lại trị của Lưu Bang ngày càng đi vào biện pháp phong kiến cũ, nghĩa là mầm phân liệt lại đe doạ nền thống nhất vừa mới gây dựng. Phần tử trí thức một lần nữa tản mạn vào trong dân chúng, dùng phương tiện văn hoá tư tưởng để gìn giữ thống nhất, đồng thời tạo thành mâu thuẫn giữa phần tử trí thức với hệ thống lại trị.

Đến đời vua Hoàn Đế, Linh Đế thì chính trị Hán triều ác hoá đến cực điểm bằng hiện tượng hoạn quan. Thiên hạ bấy giờ có thể nói rằng: Thiên hạ của bọn hoạn quan.
Xã hội lúc ấy một mặt thì chính trị chuyên chế truỵ lạc, một mặt thì văn hoá phát triển. Một mặt thì hoạn quan tập quyền, một mặt thì khí thế của phần tử trí thức mỗi ngày một lớn. Đương nhiên cuộc xung đột không thể tránh được.

Ẩn dật và ra mặt chống đối
Thái độ của phần tử trí thức sau khi Hán Vương thi hành chính sách lại trị và biện pháp phong kiến khả dĩ chia làm hai giai đoạn: a) rút lui về thôn dã ẩn dật, b) ra mặt lãnh đạo vận động lật Hán Triều. Ông Khổng Tử nói: “ Dụng chi tắc hành, xã chi tắc tàng” (dùng thì hành động, bỏ thì ẩn dật). Hai chữ hành và tàng là hai thái độ nói trên. Nhưng sự ẩn dật của Nho sĩ thật nguy hiểm vì trong đó chứa chất chẳng những tâm lý bất hợp tác mà còn tiềm tàng âm mưu vận động xoay chuyển quật khởi để đánh đổ chính quyền thối nát nữa.

Cuộc xung đột giữa phần tử trí thức và hoạn quan bùng nổ khởi từ cung đình rồi lan rộng mãi ra như vòng sóng nước.

Hồi thứ nhất, Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể rằng: “Khi vua Hoàn Đế băng hà, Linh Đế lên ngôi, có quan Đại tướng quân Đậu Vũ và quan Thái Phó Trần Phồn cùng giúp trị việc nước. Thời bấy giờ có bè lũ hoạn quan Tào Tiết lộng quyền làm bậy. Đậu Vũ, Trần Phồn mới lập mưu tru diệt chúng để trừ vạ cho nước, nhưng vì mưu không kín đáo, hai vị này cũng bị giết hại.

Có quan Nghị Lang là Thái Ung dâng sớ tâu rằng: “Rắn sa, gà mái hoá trống là điềm đàn bà và hoạn quan làm loạn nước”. Lời dâng thống thiết, Vua xem qua thở dài, bùi ngùi một lúc rồi quay vào thay áo. Bấy giờ Tào Tiết đứng sau lưng nghe trộm bản tâu, giận lắm, liền vào bầy mưu với phe cánh của hắn. Chúng bèn bầy mưu kiếm việc gieo tội cho Thái Ung và cách chức đuổi ông về.

Rồi đến vụ Thập Thường Thị lộng hành. Hoạn quan Trương Nhượng được Linh Đế gọi bằng Á Phụ, Thập Thường Thị uy hiếp phần tử trí thức trong triều như Lư Thực, Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn…
.
Loạn Khăn Vàng, tranh chấp ngoại thích và hoạn quan, quân phiệt Đổng Trác vào Kinh đô gây chuyện phế lập đều là những đòn chí mạng đánh quỵ Hán Triều. Toàn dân mong mỏi biến đổi, phần tử trí thức khắp bốn phương trời hết thẩy cảm thấy có trách nhiệm phải lập lại một nền trật tự mới. Họ liền tự động đi tìm hoặc gây lực lượng ngay ở địa phương mỗi người cư ngụ.

Do đó, lần lượt người ta thấy những: Giả Hủ, Thẩm Phối, Tuân Úc, Trình Dục, Tuân Dy (Du?), My Trúc, Trịnh Huyền, Trần Cung, Trần Đăng, Trần Khuê, Ngu Phiên, Quách Gia, Cố Ung, Trương Chiêu, Chu Du, Dương Tu, Trần Lâm, Vương Xán, Tư mã Huy, Từ Thứ, Thôi Châu Bình, Bàng Thống, Gia Cát Lượng….. xuất hiện ở nhiều nơi và phò giúp những lực lượng khác nhau. Tuy phần tử trí thức phân tán vào các quyền bính chống đối, nhưng chống đối bất quá chỉ để mong chính quyền cả thiên hạ thu vào tay mình mà thôi. Tất cả đều có một khuynh hướng chung là quy tâm vào thống nhất.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Loạn Khăn Vàng
Nói đến loạn Hoàng Cân (khăn vàng), chúng ta cần phải nêu ra mấy đặc điểm của vận động này:

A) Loạn Khăn Vàng là một cuộc vận động chống bọn thống trị nhà Hán của nông dân tự phát khởi vì nông dân quá đói khổ. Bằng chứng là loạn Khăn Vàng đều nhóm lên từ những khu vực đất đai nghèo, hoang, mất mùa.

B) Do tranh chấp tư tưởng Hoàng Lão với tư tưởng chủ lưu Khổng Tử, Quản Trọng. Thời Xuân Thu, Chiến Quốc các nước phân tranh, tư tưởng tự do phồn thịnh trăm nhà lên tiếng. Sau Tần thì thiên hạ thống nhất, các học thuyết cũng chịu áp lực chính trị quy vào thống nhất. Tần triều quy vào pháp lệnh, đầu đời Hán quy vào thuyết Hoàng Lão, đến Hán Vũ Đế thì biểu chương Lục Kinh, tôn phụng Khổng Tử mà truất bãi các thuyết khác. Một ngành của học thuyết Hoàng Lão biến thành tư tưởng thần quyền vào phong tục tế tự ở nông thôn, dựa vào đầu óc chất phác của nông dân mà chống lại trí thức Nho của Khổng môn.

C) Do tranh chấp quyền bính với trung ương vì những nhân vật trọng yếu của vận động Hoàng Cân đều là quan quân thủ hạ của Ích Châu mục Lưu Yên. (Ích Châu gồm các tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên và miền nam tỉnh Thiểm Tây bây giờ)

D) Chịu ảnh hưởng chính sách ruộng đất của Vương Mãng và tổ chức Xích Mi

Loạn Hoàng Cân mở đầu bằng việc: tại núi Long Hổ tỉnh Giang Tây và tại Cự Lộc có mấy người họ Trương như Trương Lỗ, Trương Giốc tự xưng là Đại Hiền Lương sư, theo đạo Hoàng Lão, có tài phù thuỷ đọc chú chữa bệnh vì đã được Nam Hoa Lão Tiên trao cho bộ Thiên thư Thái Bình Yếu thuật. Nông dân vì quá đói khổ nên mê tín Thần Quyền. Bọn Trương Lỗ, Trương Giốc tổ chức hội kín lập đạo thờ Thái Thượng Lão Quân. Nông dân nô nức hùa theo Trương Lỗ, Trương Giốc. Nhờ vậy phong trào Khăn Vàng càng lên vọt. Trương Lỗ, Trương Giốc dựa vào uy thế thần quyền mà tung ra câu sấm “Sương thiên dĩ tử, Hoàng thiên đương lập” (Trời xanh đã chết, trời vàng đang lên) làm khẩu hiệu đấu tranh.

Muốn tìm sự thành công và thất bại của cuộc vận động Hoàng Cân, trước hết phải xét lại xuất xứ của nó.

Căn cứ vào Tam Quốc Chí thì gốc loạn Hoàng Cân khởi tự đạo sĩ Trương Lăng. Trương Lăng người tỉnh Tứ Xuyên, tu đạo ở núi Thước Minh và cũng truyền đạo ngay tại vùng này. Những người muốn đến học đạo của Trương Lăng đều phải làm lễ bằng năm hộc gạo. Trương Lăng chết, truyền nghiệp cho con là Trương Hành, Trương Hành chết truyền cho con là Trương Lỗ.

Căn cứ vào Hậu Hán Thư Linh Đế Ký thì vận động Hoàng Cân khởi tự tên Phù Thuỷ Trương Tu, dùng tà đạo phiến hoặc dân chúng nổi lên cướp Ba quận. Trương Tu thường xưng là: Ngũ Đấu Mễ Sư (ông thầy năm đấu gạo).

Nhưng quan bộ hạ căn cứ theo các thuyết của nhiều sách khác đem so sánh tổng hợp lại thì đều có nói rằng: Trương Lỗ và Trương Tu là quân dưới trướng Ích Châu mục Lưu Yên. Lưu Yên sai Lỗ và Tu vào cướp Hán Trung. Vào Hán Trung rồi Trương Lỗ liền giết Trương Tu rồi cải biến sát nhập lực lượng Trương Tu thành lực lượng của mình. Khi có thanh thế khá vững mạnh, Trương Lỗ ly khai với Lưu Yên, đem quân đánh cả vào vùng Lưu Yên cai trị là U Châu. Do đó mới có chuyện Lưu Yên treo bảng chiêu mộ nghĩa binh tạo ra cơ hội cho gặp gỡ và kết nghĩa vườn đào.

Trong ba người: Trương Giốc, Trương Lỗ và Trương Tu thì Trương Giốc là kẻ nhiều mưu đồ hơn hết. Trương Giốc hy vọng phiến động nhân dân nổi loạn để mà chiếm thiên hạ. Trương Lỗ và Trương Tu trên chính trị hoàn toàn chỉ là một lực lượng phụ trợ chứ không phải là lực lượng chỉ đạo. Căn cứ vào sách Hậu Hán, chuyện Hoàng Phủ Tung thì lực lượng Trương Giốc lan ra khắp các châu bao quát các tỉnh Giang Tô, An Huy, Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc bây giờ. Đảng Trương Giốc lên tới mấy chục vạn, chia ra làm 36 phương, mỗi phương ước hơn vạn người.

Về câu sấm “trời xanh đã chết, trời vàng đang lên” người đọc Tam Quốc chí diễn nghĩa thường không để ý vì nghĩ những lời ấy chẳng qua là thuyết của bọn thảo khấu, chẳng nghĩa lý gì cả. Thật ra không phải đơn giản như thế.

Từ Hoàng Cân, hoạn quan đến quân phiệt
Một khẩu hiệu tung ra, muốn làm giao động nhân tâm thì trước hết khẩu hiệu đó có thể giải thích cho mọi người hiểu được. Người xưa còn ưa những điều huyền bí cho nên khẩu hiệu cần lồng vào cái cốt huyền bí, nhưng không phải vì vậy mà người ta bảo rằng đấy là mê hoặc nhân tâm, đấy là một lời nói vu vơ.

Mấy chữ “Sương thiên dĩ tử, hoàng thiên đương lập” chẳng những không mê hoặc mà còn có hàm súc ý nghĩa về sự biến thiên của xã hội trong quan niệm của nông dân lúc bấy giờ nữa. Dưới đây là chứng cớ:

Theo Hán thư thì lúc bắt đầu khởi nghiệp, Hán cao Tổ đang đêm đi đường hốt gặp một con rắn trắng rất lớn nằm chắn ngang đường, bèn rút gươm chém đứt làm hai đoạn. Khi Hán cao Tổ đi rồi, có người trông thấy một bà lão xoã tóc ngồi khóc ngay chỗ con rắn trắng chết. Người kia bèn lại hỏi nguyên do, bà lão đáp: con tôi là con vua Bạch Đế hiện đã bị con vua Xích Đế giết rồi. Nói xong bà lão biến mất.

Những màu sắc trắng, đỏ, vàng, đen, xanh rất quan hệ đối với tâm lý nông dân Trung Quốc. Tại sao? Bởi vì nông dân làm ruộng chỉ trông cậy vào khí hậu bốn mùa biến hoá làm cho cây cỏ sinh ra, lớn lên và chín. Trước biến hoá của tự nhiên, người nông dân tin rằng mỗi mùa đều có một vị thần linh chủ trì. Và mỗi vị thần linh đều ứng theo mỗi màu sắc trong tự nhiên. Do đó người nông dân mới thờ bốn vị thiên đế: Ông Trời Xanh chủ về mùa xuân sinh ra vạn vật cây cỏ. Ông trời Đỏ chủ về mùa hạ làm cho vạn vật lớn lên. Ông trời Trắng chỉ về mùa thu làm cho hoa lợi chín. Ông trời Đen chỉ về mùa đông, nhắc mọi người gặt hái và dự trữ thóc gạo.

Nhưng Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàn hết thẩy đều phải nương tựa vào ruộng đất, bởi vậy mới có vua vàng (đất sắc vàng) để làm chủ ruộng đất tuỳ thời biến hoá.

Từ đấy, lại diễn thành tư tưởng ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Lại từ ngũ hành sinh khắc chế hoá mà giải thích biến thiên xã hội, giải thích phát triển xã hội, giải thích các hiện tượng bình, loạn của xã hội.

“Trời xanh đã chết, trời vàng đang lên” chính là trỏ vào chế độ cường thần đại tộc đã chết và thời đại đại chúng bình dân tham dự chính quyền bắt đầu vậy. Vì màu xanh là mầu dẫn đầu các mầu đỏ, trắng, đen thuộc các hiện tượng trên trời chỉ vào các cường thần đại tộc. Còn màu vàng thuần thuộc về ruộng đất chỉ vào nông dân. Trương Lỗ, Trương Giốc lấy trời vàng để làm tượng trưng cho sức mạnh của nông dân.

Tuy vậy trời vàng bất quá cũng chỉ là tín ngưỡng do bọn Trương Lỗ, Trương Giốc đưa ra để quy tụ những vụ phản kháng lẻ tẻ của nông dân thành một vận động lớn lao mà thôi. Nguyên nhân chính khiến cho nông dân nổi loạn chính là do khuyết điểm của chế độ Hán Triều trên mặt kinh tế ruộng đất. Nhà Tần biến cải phép tỉnh điền thành canh điền và lực điền, vì không chịu nổi sưu cao thuế nặng nên nông dân ùa theo Hạng Võ, Lưu Bang. Lưu Bang thắng lợi liền áp dụng chánh sách giảm nhẹ tô thuế. Nhưng chánh sách này càng làm càng mất công hiệu vì bọn nhà giàu cứ xâm canh chiếm cứ thêm nhiều ruộng đất, trong khi người nghèo lại không có một tấc đất cắm dùi. Oán hận chồng chất lên. Vương Mãng lợi dụng tình thế để đánh đổ nhà Hán thi hành chánh sách ruộng đất mới, đem ruộng đất thâu quy quốc hữu. Chánh sách của Vương Mãng quá đột ngột và mới mẻ, lại không có giáo dục từ trước nên việc thi hành hỗn loạn, khiến đa số nổi lên phản đối. Hơn nữa Vương Mãng không nương cậy thực sự vào nông dân, mà chỉ nhờ thế lực ngoại thích mà tạo cuộc chính biến, bởi vậy mà sự nghiệp chẳng lâu dài được bao nhiêu. Tuy nhiên tư tưởng Vương Mãng không phải không có ảnh hưởng sâu xa vào đám nông dân nghèo khổ. Vận động Hoàng Cân cũng chịu ảnh hưởng của Vương Mãng.

Tính chất huyền bí tu tiên, luyện phép phát triển trong vận động Khăn Vàng chính là sự phản công của đạo Hoàng Lão định dựa vào tế tự phổ thông, dựa vào thần quyền để đả kích tư tưởng Nho đạo. Cuộc tranh chấp ấy chẳng phải chỉ thấy ở loạn Khăn Vàng mà thôi. Trong Tam Quốc chí diễn nghĩa còn thấy hiện tượng tranh chấp đó qua những việc:Tôn Sách giết Vu Cát, Tào Công đuổi Tả Từ, nghi ngờ Quản Lộ

Vận động Hoàng Cân mặc dầu rộng lớn, khí thế mạnh mẽ, nhưng bọn Trương Giốc, Trương Lỗ đã không biết lãnh đạo vận động chuyển vào đấu tranh chính trị; họ nhìn chỉ thấy một mặt thần quyền bùa chú, cho nên mới gặp ít trận nhỏ, Lưu Quan Trương, Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn đã đánh cho tập đoàn Khăn Vàng tan tác. Những phép lạ của bọn họ Trương bị máu chó, máu dê, phân lợn làm cho mất thiêng. Rút cục, chỉ còn độc trụi Trương Lỗ giữ được Hán Trung, sau cùng bị Thục và Nguỵ thôn tính.
Vận động Hoàng Cân cũng như chính biến Vương Mãng đều mắc cùng một lỗi lầm tai hại là: manh tâm “gia thiên hạ” nghĩa là coi thiên hạ làm việc riêng nhà mình, của mấy người lãnh đạo phong trào.

Qua thảm bại của vận động Khăn Vàng, người ta tìm thấy ở tư tưởng Đạo gia những gì? Nếu nó bị rơi vào bọn lưu manh, bọn trí thức thầy bùa, thầy ngải, cá nhân chủ nghĩa, vô chính phủ chủ nghĩa, bê trễ sinh sản, thiếu kỷ luật và thích nhàn chơi với những khẩu ngữ: Tuyệt thánh khí trí, tuyệt nhân khí nghĩa. Tự do. Phóng nhiệm. Trông bề ngoài chúng mang một hình thái đại cách mạng, nhưng bề trong chỉ là một tâm lý làm loạn vô tổ chức, phá hoại vô kiến thiết. Do đó mà không chống lại được với hệ thống tư tưởng quý tộc và chủ đất bấy giờ. Tư tưởng Đạo gia không có khả năng lập thành một thế hệ phương pháp đấu tranh. Cho nên nó không giúp nổi vận động nông dân tạo thành lực lượng vững chắc.

Quân phiệt Đổng Trác
Kể từ đời Đông Hán, các châu mục đều có quyền tăng cường binh lực địa phương. Khi loạn Hoàng cân dấy lên thì những binh quyền địa phương lại càng tha hồ khoáng triển chẳng ai kiểm soát

Sau khi bọn Thập Thường Thị dụ được Hà Tiến vào cung, sai phục binh giết, Viên Thiệu, Tào Tháo theo yểm hộ Hà Tiến bèn thả quân vào hoàng cung đuổi bắt sát hại bọn hoạn quan, triều đình đại loạn. Chính trị hoạn quan tất tạo nên tình trạng nhân tâm giải thể. Nhân tâm giải thể tức là nhân tâm nghĩ đến sự loạn. Để tạm thời chấm dứt loạn lạc đương nhiên một chính quyền vũ lực mới xuất hiện. Chính quyền ấy là chính quyền quân phiệt.

Trước tình hình chưa phân trắng đen, mỗi địa phương ở xa thì cắt đoạn với mệnh lệnh trung ương, ở gần thì lăm le kéo quân về Kinh Đô, mượn tiếng phò giá, nhưng chính là để thừa cơ nắm trọn quyền bính. Trong số đó Đổng Trác được nhiều may mắn hơn hết.
Đổng Trác tên chữ là Trọng Đỉnh xuất thân từ giai cấp địa chủ. Tính tình hào hoa, phóng đạt. Truyện ký có chép rằng: “Lúc Trác ở nơi điền dã thường yến ẩm với bọn hào suý, người Khương, người Hồ. Nhờ bọn hào suý ủng hộ mà khởi giá”. Khi có loạn Hoàng Cân, Đổng Trác được phái đi dẹp loạn, bị thua, sắp bị triều đình trị tội. Trác khôn khéo kết liên với bọn Thập Thường Thị, đút lót, luồn cúi bọn quyền quý. Cho nên chẳng những Trác tránh khỏi tội mà chức vị của Trác còn được thăng lên vùn vụt; từ chức Trung Lang Tướng, Trác nhảy vọt lên chức Tiền Tướng quân Ngao Hương Hầu Tây Lương Thứ Sử, trong tay thống lĩnh hai mươi vạn quân Thái Hoàng Thái hậu lập nên.

Thời cơ khiến cho Trác có dịp tranh cướp chánh quyền khởi tự Hà Tiến muốn dùng quân các trấn tiếp tay giết trừ phe cánh hoạn quan. Nhưng chính quyền vào tay Đổng Trác lại là nhờ thủ đoạn của Trác.

Đọc chuyện Tây Hán, chắc không ai quên bốn chữ mà Khoái Thông xúi Hàn Tín lật Lưu Bang: Tiệp túc tiên đăng (nhanh chân lên trước).

Đổng Trác đã ứng dụng được ý nghĩa nhanh chân của Khoái Thông vào cơ hội mình. Đổng Trác còn xử dụng nguyên tắc nhanh chân một cách linh động nữa là không vội vã. Kéo quân về trước nhất nhưng Trác biết dừng lại đợi cho bọn hoạn quan giết Hà Tiến rồi mới ra tay, chứ Trác không giúp Hà Tiến ngay.

Trước đây, Đổng Trác cũng đã tạo cho mình được một thời gian củng cố và khoáng trương binh lực bằng cách lấy cớ biến loạn Khương Hồ từ chối hai lần triệu hồi của chánh phủ trung ương. Trác cứ đồn trú binh ở ngoài mà ngồi rình cục diện biến đổi, chờ tới giờ phút trái quả chín tới, Trác vào hứng đỡ chẳng phải hao tốn công lao là mấy.
Nhưng ngàn đời đáng tiếc cho Trác, Trác chỉ có thủ đoạn chộp mau và đúng thời cơ, mà Trác lại không có thủ đoạn để bảo vệ thời cơ đã nắm được. Trác chưa từng tham dự chính trị. Cho nên lúc bước vào lãnh vực chính trị, Trác đối đãi chính trị hoàn toàn và tuyệt đối bằng bạo lực. Nắm được chính quyền rồi, Trác đảo lộn toàn bộ cương kỷ một cách vô ích. Vô ích nhất là chính sách phế lập bỏ Thiếu Đế, tôn Hiến Đế. Phế lập không phải để đáp ứng một nhu cầu chính trị nào cả. Phế lập bất quá chỉ là kết quả mối cảm tình riêng của Trác đối với Trần Lưu Vương

Những nguyên nhân thất bại
Tam Quốc Chí diễn nghĩa có nói đoạn: “Xa giá chưa đi được vài dặm, bỗng thấy tinh kỳ rợp đất, bụi bay mù trời, một đoàn binh mã sực kéo tới phía trước, bá quan đều thất sắc, vua cũng sợ hãi. Viên Thiệu vội thúc ngựa ra trước thốt hỏi: “Binh mã của ai đây?” Từ dưới bóng một ngọn cờ thêu rực rỡ, một tướng bên kia thúc ngựa ra lớn tiếng hỏi: “Thiên Tử đâu?” Vua càng sợ không dám lên tiếng. Trần Lưu Vương quất ngựa sấn ra nạt rằng: “Nhà ngươi là ai?” Tướng ấy đáp: “Thứ Sử Tây Lương Đổng Trác đây”. Trần Lưu Vương vặn ngay: “Anh tới đây bảo hộ xa giá hay cướp xa giá?” Trác vội đáp: “Tới để hộ giá”. Vương hạch rằng: “đã tới hộ giá, vậy Thiên tử kia sao anh không xuống ngựa?” Trác lật đật xuống ngựa, khấu đầu bên cạnh đường, miệng tung hô vạn tuế. Trần Lưu Vương lấy lời ngọt ngào phủ uý Đổng Trác. Từ đầu chí cuối lời lẽ đàng hoàng. Trác thầm lấy làm lạ, sinh lòng khâm phục vô cùng. Và ý định phế Đế nọ lập Vương này nảy ra từ đó.

Đoạn trên chứng thực Trác tính chuyện phế lập hoàn toàn vì một chút cảm tình riêng tư. Sự phế lập chính là nhát cuốc đánh bật cái rễ uy tín của Trác đang cần phải ăn sâu xuống nữa, nó biến Đổng Trác từ một kẻ mang sứ mạng dẹp loạn thành một tên đầu sỏ nhiễu loạn. Phế lập đã đem lại cho Đổng Trác một kết quả vô cùng tai hại là việc Trác buộc phải thiên đô từ Lạc Dương về Tràng An. Thiên “xét về cái thế” ông Tô Triệt viết: “Trị thiên hạ, định sở thượng” (Muốn trị thiên hạ, trước hết phải nhận biết thiên hạ ưa chuộng điều gì?). Thời đại của Đổng Trác tư tưởng tôn quân còn rất mạnh, rất phổ biến, Đổng Trác động binh với danh nghĩa phò giá, mà hốt nhiên vô cớ tính chuyện phế lập tất nhiên sẽ bị phản đối kịch liệt. Trước hết là những cá nhân lẻ tẻ như Thứ Sử Kinh châu Đinh Nguyên, Lư Thực, Đinh Quản đứng trên danh nghĩa triều thần phản đối bằng lời nói, rồi đến Ngu Phu và Tào Tháo phản đối bằng cách cho Trác ăn mũi dao sắc, rồi đến phản đối bằng sự khởi binh từ khắp các châu quận kéo về đánh Trác, do Tào Tháo khởi xướng.

Nguyên nhân thất bại thứ hai của Đổng Trác là không ước thúc được binh sĩ, để chúng thả cửa cướp bóc, hãm hiếp, đe doạ đời sống nhân dân; đôi khi chính Trác là thủ phạm nữa. Thí dụ vụ Trác sai binh sĩ bổ vây giết hết đàn ông con trai, bắt hết phụ nữ và lấy hết của cải, đem hơn ngàn đầu người chở về thành, xảy ra tại đám hội tháng hai vùng Dương Thành. Thậm chí Đổng Trác còn thích một lối thị oai phát nguyên tự tâm lý khát máu là ngay giữa đám vui sai mang tù nhân ra xẻo tai, cắt mũi, bỏ vạc dầu.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Luận về chính quyền và cái chết của Đổng Trác
Nguyên nhân thất bại thứ ba của Đổng Trác là nền kinh tế phá sản, Đổng Trác không giải quyết được nguy cơ cấp dưỡng trên tài chính. Biện pháp kinh tế, tài chính của Trác cũng đặt trên nguyên tắc quân sự, mang vũ lực đi cướp tiền dân, cướp tiền của người sống chán rồi, Trác sai đào các mồ mả, lăng tẩm để cướp của người chết. Tiền của cướp được, Trác bỏ vào túi, lại sai đúc những tiền lớn thành tiền nhỏ để mang tăng gia số lượng tiền tệ. Tiền nhỏ của Trác đúc ra bị mất giá ngay, dân chúng đua nhau chợ đen, hoá vật tăng vọt lên. Cứ theo sử chép thì muốn mua một thúng thóc phải trả đến mấy vạn tiền của Trác. Dân chúng đói khổ ai oán vô cùng

Thấy tình trạng nguy ngập, Đổng Trác ve vãn phần tử trí thức, mời các nhân sĩ ra giúp việc. Nhưng khốn nỗi đôi mắt Trác chỉ có khả năng nhận ra được bọn nguỵ trí thức mà thôi, thành thử những người Trác dùng như: Thái Ung, Tuân Sảng, Hàn Phức v..v... hết thảy đều chỉ là bọn thư sinh, danh hão, đọc sách để tìm con gái đẹp, nhà vàng và ngàn hộc gạo chứ chẳng có người nào kinh quốc cả. Tờ hịch của Tào Tháo được các trấn hưởng ứng, chư hầu tụ hội chia ra làm 18 đạo kéo về Lạc Dương, Trận giao phong đầu tiên, tướng của Trác là Hoa Hùng bị Quan Vân Trường chém chết. Trận thứ hai Lã Bố bị thua ở Hổ lao quan. Thế của Trác đã trở nên hết sức nguy ngập. Để cứu vãn, Đổng Trác sai Lý Thôi sang liên kết với Tôn Kiên, ngỏ ý đem con gái mình gả cho con trai Tôn Kiên, hòng làm chia rẽ Liên quân miền đông. Nhưng kế cầu hôn của Trác bị thảm bại. Tôn Kiên nổi giận chửi mắng, Lý Thôi ôm đầu lủi thủi như con chuột trở về phục mệnh Đổng Trác

Thiên đô về Tràng An
Kế cầu hôn để phá liên quân miền đông không thành. Đổng Trác chỉ còn một đường thoát là rút về căn cứ của mình. Trác bèn theo kế của Lý Nho, rời đô từ Lạc Dương về Tràng An. Chuyện rời đô, bình thoại của Mao Tôn Cương trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa có phê: “Vô cố nhi thiên Thiên Tử tắc tỉ ư mông trần. Vô đoan nhi thiên bách tính đắc đẳng ư lưu thoán” (nghĩa là: vô cớ mà rời chuyển Thiên Tử thì thực là chuyện mờ ám, vô cớ mà rời chuyển trăm họ thì cũng chẳng khác gì trốn chạy). Mấy chữ “vô cớ”, “mờ ám” và “chẳng khác gì” của ông Mao Tôn Cương không có tính chất minh bạch cần thiết cho việc phê phán một sự kiện chính trị. Thật ra chuyện thiên đô là một nhu yếu chính trị quan hệ sống chết đối với Đổng Trác lúc ấy. Lạc Dương bị liên quân miền đông uy hiếp. Mặc dù lực lượng Đổng Trác còn mạnh, nhưng đã trót đi vào con đường danh bất chính, ngôn bất thuận rồi. Hơn nữa quân đội các châu quận phía đông thanh thế cũng chẳng thua kém, địch lại khó lòng. Thiên đô về Tràng An sẽ đem lại cho Đổng Trác nhiều lợi điểm khả dĩ lọt khỏi ngõ bí mà Trác đang bị đẩy vào. Thứ nhất: Trác là người Tây Lương, những người theo Trác thì toàn thị là dân Tây Lương, Tràng An với Tây Lương gần nhau. Thứ hai: có Hàm cốc quan là nơi hiểm yếu che chở cho Tràng An, quân phía Đông không dễ gì khắc phục được. Thứ ba: tránh đụng độ để chờ chư hầu nghi kỵ bất hoà với nhau.

Quả nhiên kế hoạch thiên đô của Đổng Trác thành công. Liên quân phía Đông thấy kẻ địch đã chạy trốn, lập tức trong hàng ngũ phát sinh mâu thuẫn vì tranh chấp quyền lợi. Sức mạnh như thác đổ của Liên quân nhạt dần, đến độ phật phờ lối “hàng tổng đánh kẻ cướp”.

Trong hồi thứ sáu, Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể rằng: tới Lạc Dương, Viên Thiệu hạ lệnh cho quân chư hầu đóng trại không tiến nữa. Tào Tháo thấy vậy đến hỏi ngay Viên Thiệu: “Đổng Trác đã bỏ chạy về miền Tây, nay chính là lúc nên thừa thế đánh đuổi mà bắt nó, sao Bản Sơ lại đóng quân không động là ý thế nào?” Viên Thiệu nói: “Quân mã chư hầu đã mỏi mệt, tiến nữa không ích gì”. Tháo nói: “Giặc Đổng đốt rụi cung điện, hiếp bức Thiên Tử mang đi, thiên hạ náo loạn ngơ ngác không biết theo ai, bây giờ đúng là lúc chỉ cần đánh một trận nữa là bình được thiên hạ. Cớ sao chư hầu lại hồ nghi không tiến?” Chư hầu nghe Tháo nói ai cũng bàn ngang rằng: “Chưa nên kinh động”. Tào Tháo giận tím người, nói một mình: “Không thể mưu việc với bọn trẻ con này được”. Nói rồi Tháo tự dẫn một vạn quân cùng các bộ tướng suốt ngày đêm đuổi theo đánh Đổng Trác.

Giả sử, nếu Liên quân phía Đông đừng có một chủ suý vô mưu như Viên Thiệu, tự ổn định được mâu thuẫn nội bộ, mang quân đánh dấn đi thì chắc chắn lực lượng vô kỷ luật của Đổng Trác không có đất mà chôn, dù Tây Lương hay cửa Hàm Cốc cũng không che chở cho Đổng Trác nổi. Trong đám người lãnh đạo Liên quân phía Đông, có độc một mình Tào Tháo là người đại lược, biết nhìn xa thấy rộng mà thôi. Rút lại cuộc tụ hội thảo phạt gian tặc thành ra chuyện đầu voi đuôi chuột. Kết thúc bằng việc Tôn Kiên đi nhặt nhạnh xương cốt và đắp mồ mả đã bị Đổng Trác đào bới.

Cái chết của Đổng Trác
Sau khi rút về Tràng An, Đổng Trác tự biết đã hết thế tung hoành nên tính kế hưởng thụ. Trác cho xây ở My huyện một cung điện riêng cho mình, tuyển lựa 800 thiếu nữ thanh tân nhốt vào cung, tích trữ vàng bạc gấm vóc, lại cho làm những kho chứa lương thực đủ ăn trong 20 năm. Trác vẫn thường nói: “sự thành hùng cứ thiên hạ, sự bất thành thủ thử dã túc dĩ chung thân liễu”. (thành ra thì hùng cứ cả thiên hạ, không xong thì giữ chặt nơi đây cũng được hết đời). Trác tin tưởng vào thế hiểm yếu, vào lương thực tích trữ. Nhưng Trác quên rằng kẻ giết Trác chính là Trác vậy, là cái cá tính độc ác, hẹp hòi, ích kỷ của Trác. Do cá tính đó, Trác đã tự mình tạo nhận cho âm mưu Vương Doãn, Lã Bố. Trong chính sử tuy không thấy nói đến liên hoàn kế và Điêu Thuyền, nhưng Vương Doãn và Lã Bố cũng vẫn là hai vai chủ gốc trong vụ giết Đổng Trác. Sử chỉ chép: “Lã Bố tư thông với tỳ thị của Trác, sợ việc bại lộ trong lòng không yên. Tư Đồ Vương Doãn thấy Bố vũ dũng nên hết sức hậu đãi”. Phải chăng nhà văn La quán Trung đã tiểu thuyết hoá tên thị tỳ thành ra Điêu Thuyền, tưởng tượng ra liên hoàn kế cho câu chuyện Trác thêm phần kỳ thú?

Tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa đã khéo tưởng tượng ra nàng Điêu Thuyền diễm lệ.
Một cành gió lả hoa mềm, Mùi hương ngào ngạt đầy thềm vẻ Xuân.

Rồi mượn hương sắc mỹ nhân mà lột hết cái chí khí hẹp hòi cùng tâm trạng độc đoán của Đổng Trác ra lời nói, như đoạn: Sau khi Đổng Trác nghe Điêu Thuyền khóc lóc phản đối việc đem mình gả cho Lã Bố theo kế hoạch của Lý Nho, Trác mủi lòng bèn thay đổi ý kiến.
Lý Nho thấy vậy chạy vào thưa:
- Xin Thái Sư đừng để cho một người đàn bà mê hoặc như thế.
Trác biến sắc mặt mắng Nho rằng:
- Thế vợ mày, mày có chịu đem cho thằng Lã Bố không? Thôi việc Điêu Thuyền cấm không được bàn đến nữa. Nói thêm ta chém đầu.
Những lời đối đáp của bọn cao cấp ngoan cố vẫn thường hữu lý theo cái lối “đức ông cưỡi voi” như vậy. Nếu họ đi hành quân mà có người nhắc họ lưu ý sợ bị đánh tập hậu, họ sẽ chẳng suy nghĩ gì để trả lời ngay rằng: “bị tập hậu thì ta quay lại, địch còn đánh tập hậu vào đâu?”

° ° °

Âm mưu liên kết với Lã Bố để giết Đổng Trác của quan Tư Đồ Vương Doãn nẩy mầm từ bữa Trác thiết tiệc bá quan trong Tỉnh đài, chém quan Tư Không Trương Ôn ngay giữa bàn tiệc để khủng bố. Việc này chứng tỏ ý thức chính trị của Trác đã hoàn toàn khô cạn. Đổng Trác chỉ trông vào sự khủng bố và võ lực của Lã Bố, một tên trùm phản trắc để chống lại những âm mưu phản bội mình. César chịu nhát dao cuối cùng của Brutus, ông ta tỉnh ngộ ngay và nói với Brutus rằng: “nếu cả Brutus cũng giết ta thì ta phải chết”. Đổng Trác ngu si ngoan cố cho đến chết. Chẳng thế mà hơn 100 vũ sĩ theo lời Vương Doãn hô to: “Phản tặc đã tới đó” và cầm giáo đâm như mưa vào mình Đổng Trác, thế mà y vẫn chưa tỉnh ngộ còn vội kêu lớn: “Phụng Tiên con đâu”. Chính ông con quý báu đó đã tặng cho Trác một nhát kích trúng giữa yết hầu kết liễu đời Trác

Điêu Thuyền và cái chết của Đổng Trác
Trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa, La quán Trung dành riêng ra hồi thứ tám và nửa hồi thứ chín để đặc biệt tiểu thuyết hoá cái chết của Đổng Trác, qua những câu văn vần mở đầu cho mỗi hồi: Kế liên hoàn Vương tư Đồ khéo dụng, Đình Phượng Nghi Đổng thừa tướng đâm khùng, và Trừ hung bạo, Lã Bố giúp Tư Đồ.

Từ kế liên hoàn đến việc làm cho Đổng Trác điên khùng mắng đuổi và phóng kích định giết con nuôi, rồi nghĩa tử Lã Bố giúp Tư Đồ Vương Doãn giết Đổng Trác nhất nhất đều do Điêu Thuyền gây nên cả.

Nhưng trong chính sử không thấy có tên Điêu Thuyền bao giờ. Các sách khác cùng bao chuyện truyền kỳ, cổ tích của đại chúng cũng chẳng nhắc đến về tung tích cũng như về thân thế nàng. Vậy thì Điêu Thuyền phải chăng chỉ là một nhân vật tiểu thuyết do tác giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa nặn ra.

Nhân vật Điêu Thuyền xuất hiện là tác dụng kỳ thú hấp dẫn của văn học nhằm giải quyết mối thắc mắc bị thất lạc trong chính sử. Mối thắc mắc đó là nguyên nhân mâu thuẫn nội bộ tập đoàn quân phiệt Đổng Trác.

Như chúng ta đã rõ, cái chết của Đổng Trác là kết quả của cuộc tranh chấp một mất một còn giữa nhóm quan lại cựu trào Hán Đại với phe cánh Đổng Trác. Nhóm quan lại cựu trào cảm thấy tính mệnh và quyền lợi của họ đã bị đe doạ cực độ sau vụ Trương Ôn.

Một hôm, Trác ở sảnh đài, hai bên bách quan ngồi sắp hai hàng. Rượu uống được độ vài tuần thì Lã Bố đi tắt vào, ghé tai Đổng Trác nói thầm mấy câu, rồi thấy Trác cười mà nói rằng: à ra thế! Nói rồi, sai Lã Bố lôi quan Tư Không tên là Trương Ôn cũng đang ngồi ăn ở tiệc đem xuống dưới thềm. Các quan không biết đầu đuôi như thế nào đều thất sắc. Một lát thấy quân hầu bưng lên một mâm đỏ, giữa để đầu của Trương Ôn. Các quan đều sợ mất vía.

Sự khủng bố trắng trợn báo hiệu giờ phút không thể dung thứ nhau được nữa. Đại diện phái quan lại cựu trào lúc đó là Vương Doãn, Vương Doãn hôm ấy về đến phủ, nghĩ lại những việc trông thấy trong bữa tiệc, ngồi đứng không yên. Đến đêm khuya trăng sáng vằng vặc chống gậy đi ra vườn sau, đứng bên cạnh bụi đồ mi ngửng mặt lên trời rỏ nước mắt khóc.

Với Vương Doãn thì cái thế phải giết Đổng Trác là tất nhiên rồi, nhưng còn một điều chưa có cách gì giải quyết là Lã Bố. Ai đến gần Đổng Trác ngoài Lã Bố? Lã Bố mà phụ lực cho Đổng Trác bằng sức vóc muôn người không địch của y, thì việc giết Đổng Trác thật khó lòng mưu toan lắm. Chính vì điểm ấy Vương Doãn đứng ngồi không yên.
Vậy, việc giết Đổng Trác phải bắt đầu bằng kế hoạch ly gián Trác với Bố. Kết quả Lã Bố đâm chết Đổng Trác. Kế ly gián Bố với Đổng Trác thế nào, nó đặt trên xung đột tư tưởng, chính sách? Hay chỉ là một kế mỹ nhân? Xét cho kỹ về tư cách Lã Bố và Đổng Trác thì mặc dầu chúng ta không có sử liệu về Điêu Thuyền, nhưng kế mỹ nhân là đắc sách nhất, hợp lý nhất. Bởi thế tên họ Điêu Thuyền có thể nói do nhà văn La Quán Trung tạo ra và cũng có thể nói liên hoàn kế là thật. Nếu ta nhận rằng: Mũi nàng Cléopâtre chỉ dài thêm chút nữa thôi, bộ mặt thế giới sẽ khác hẳn. Thì chuyện Điêu Thuyền với vẻ đẹp

Mây bay một áng điểm thềm hoa,
Mày ngài gợi khách sầu man mác,
Vẻ ngọc xui người dạ thiết tha.

Khả dĩ phá đổ quyền thế chính trị của Đổng Trác, thiết tưởng chẳng có chi hoang đường cả.
________
Chú thích:
[1] Trích Politique et Verité của James Burnham
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

5
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
- 4 -
PHẦN TỬ TRÍ THỨC



Từ Xuân thu, Chiến quốc đến thời đại Tam quốc, phần tử trí thức là một vấn đề hết sức trọng đại. Bởi thế, đi sâu vào vấn đề này rất cần thiết đối với nhận định chính trị Tam quốc, và việc đọc chuyện Tam quốc.

Thường thường mỗi khi nói đến lịch sử, chúng ta vẫn đặt những câu hỏi: Biến động lịch sử do hoàn cảnh quyết định hay bởi ý chí con người quyết định? Tồn tại quyết định ý thức hay ý thức quyết định tồn tại? Sinh hoạt quyết định tư tưởng hay tư tưởng quyết định sinh hoạt? Tư tưởng và sinh hoạt tự động biến hoá hay là do ngoại lực làm cho biến hoá?

Trước kia, thảo luận để tìm một giải đáp cho những câu hỏi trên, các phe phái hay đi vào con đường cực đoan, rồi đưa ra nhiều luận cứ bênh vực cho chủ trương: hoàn cảnh quyết định lịch sử, sinh hoạt quyết định tư tưởng, tồn tại quyết định ý thức, nhất thiết biến động lịch sử đều do ngoại lực tạo nên; hoặc bênh vực cho chủ trương: ý chí con người quyết định lịch sử, ý thức quyết định tồn tại, tư tưởng quyết định sinh hoạt, nhất thiết biến động lịch sử đều do ý chí con người tạo ra.

Nhưng gần đây, hầu như tất cả đã công nhận rằng: hoàn cảnh với ý chí, tồn tại với ý thức, tư tưởng với sinh hoạt, ngoại lực với nội tại đều có tác dụng qua lại mà làm ra biến động lịch sử. Chiếc cầu nối sự qua lại đó là Văn hoá. Do tác dụng qua lại giữa con người với hoàn cảnh nên Văn hoá được sản sinh. Phương hướng của Văn hoá, độ nhanh chậm của Văn hoá chịu ảnh hưởng từ kết quả của tác dụng qua lại của nhân duyên nội với ngoại.

Theo Hồ Thu Nguyên: Tổ tiên chúng ta thời thượng cổ, đương nhiên chịu chi phối của hoàn cảnh, nhưng nhân loại không như các động vật khác, đối với hoàn cảnh ngoài cố gắng thích ứng, loài người còn tìm cách chống lại, chế ngự, cải tạo và lợi dụng. Bởi thế nên loài người mới chế tạo ra công cụ. Nhưng đi đôi với sự chế tạo công cụ phải có ý, có tư tưởng, có tiếng nói. Nếu không có ý, có tư tưởng, có tiếng nói thì không thể chế tạo ra công cụ được. Vậy giữa công cụ với tư tưởng ta đừng nên đặt vấn đề công cụ có trước, tư tưởng có sau hay ngược lại. Chẳng qua ta hãy quan niệm cả hai là cùng một lúc.

Từ sử tự nhiên bước vào sử nhân loại, loài người trở nên động vật văn hoá, loài người lấy văn hoá để mở đầu lịch sử cho mình, văn hoá thành ra một năng lực mới cho sự giao thiệp của người với hoàn cảnh.

Văn hoá là nhân tố hết sức trọng yếu đối với việc giải thích lịch sử. Lịch sử thông qua văn hoá mà biến động, trí thức là quyền lực. Do đấy mà phần tử trí thức nắm phần chủ yếu trong mọi biến động lịch sử.

Lý luận Vilfredo Paréto
Nhà Xã hội học Vilfredo Paréto cho rằng:
- Trị, loạn, cách mạng, hoà bình, chiến tranh gồm nhiều nguyên nhân: địa dư, kinh tế, văn hoá, chính trị v.v.. Nhưng quyết định đều ở nơi kết quả vận chuyển của phần tử trí thức.

Phần tử trí thức Paréto chia ra làm hai loại:
a- Nắm chính quyền
b- Không nắm chính quyền.

Phần tử trí thức hay ưu tú trong xã hội không bao giờ nằm im, trái lại nó luôn luôn vận động. Vận chuyển của nó là đấu tranh thay thế nắm quyền bính để đưa vận mệnh xã hội, vận mệnh chính trị lên con đường mới.

Khi phần tử trí thức tại quyền không còn đủ khả năng, đủ lực lượng để lãnh đạo chính trị, lãnh đạo xã hội, bắt kịp nguyện vọng thời đại nữa sẽ bị đào thải, chính quyền sẽ chuyển sang tay lực lượng trí thức khác đủ khả năng hơn. Chính quyền nào không thu hút nổi các lực lượng mới, để các lực lượng ngoài tách rời mình tự trưởng, tự thành, phát triển lên được thì chính quyền đó chẳng chóng thì chầy phải bị lật đổ. Những hiện tượng tiêu diệt, trưởng thành của các lực lượng xã hội chính là những diễn biến lịch sử vậy.

Phần tử trí thức đời Xuân thu, đời Chiến quốc
Nhà Chu lúc thiên sang Đông là bắt đầu thời đại Xuân thu, Chiến quốc. Xuân thu, Chiến quốc dài 551 năm. Xuân thu, Chiến quốc là một thời đại ghi nhận sự biến hoá lớn lao của chính trị, kinh tế, văn hoá Trung quốc. Hai chữ Xuân thu xuất xứ từ sử liệu nước Lỗ. Hai chữ Chiến quốc do cuốn sử Chiến quốc mà ra.

Ông Hồ Thu Nguyên viết:
- Hình thành ra Xuân thu, Chiến quốc ngoài nguyên nhân nhân khẩu tăng gia còn là kết quả của sự xung đột giữa trào lưu văn hoá nhân văn chủ nghĩa với chế độ phong kiến nhà Chu. Lấy Quản Trọng và Khổng Tử làm đại biểu phần tử trí thức lãnh đạo cuộc chiến đấu trên.

Kể từ lúc Tề hoàn Công dùng Quản Trọng, gây dựng nghiệp Bá chư hầu, những cương giới phong kiến bị tiệt trừ, kinh tế thương nghiệp phát triển.
Chiến tranh và kinh tế thương nghiệp không những đã phá đổ lực lượng hữu hình phong kiến, còn quan trọng hơn nữa là sự sản sinh một văn hoá lực mới. Văn hoá lực mới khi biểu hiện trên những lực lượng hữu hình mới, liền thành một lực lượng quyết định chuyển động lịch sử.

Văn hoá lực mới là gì?
Học vấn được phổ cập, lực lượng của giai cấp sĩ xuất hiện. Tính chất quan trọng của giai cấp sĩ là nhờ học vấn phổ cập, do cạnh tranh của liệt quốc mà bình dân đã thông qua trí thức để nhẩy lên vũ đài chính trị. Trước kia thời Tây Chu và ngược lên nữa, chính trị đều ở tay quí tộc nắm giữ. Vận mệnh xã hội, quốc gia phải chịu bọn Vương Công đại nhân, các Công tử, Vương Tôn, Thế Khanh truyền tử truyền tôn điều khiển.

Sang Xuân thu, Chiến quốc thì tình trạng lật ngược hẳn, xã hội liên tiếp có những vận động hạ khắc thượng (dưới chống trên). Chư hầu không thừa nhận Vương Thất, Đại Phu không thừa nhận Chư hầu, Gia thần không thừa nhận Đại phu, dân chúng không thừa nhận quyền uy của đại tộc, thế khanh. Mỗi bậc, mỗi mức trong quá trình đấu tranh đều giác ngộ quyền lợi của mình. Nhu cầu trí thức chính trị lên cao. Phần tử trí thức càng hệ trọng đối với những vận động lịch sử. Phần tử trí thức càng hệ trọng thì thế lực bình dân càng lớn mạnh. Khổng Tử nắm một phần chủ yếu trong việc đào tạo phần tử trí thức mới và lực lượng bình dân.

Nếu dùng niên lịch để phân biệt Xuân thu với Chiến quốc, đại khái chúng ta có thể nhận thời Chiến quốc khai mào từ sau ngày Khổng Tử mất một năm đến lúc nhà Tần thống nhất. Chiến quốc lâu chừng 260 năm.

Mặc dầu có những điểm không giống nhau trên trình độ cũng như trên bản chất, nhưng thực sự Chiến quốc chỉ là sự phát triển của Xuân thu. Hết thẩy các vận động đều đặt trên cơ sở:

- Phá hoại thái ấp phong cương và giai tầng phong kiến.
- Phát triển quốc gia vương quyền và phát triển để thống nhất.
- Phân hoá văn hoá cổ điển để tung hợp thành xu hướng tân văn hoá.

260 năm thuộc thời đại Chiến quốc, đứng về mặt học thuật và chính trị mà nói, có thể chia ra làm ba thời kỳ lớn:

1- Thời kỳ nước Sở nước Việt thay nhau làm Bá chư hầu và nước Nguỵ nước Tề tranh hùng.
2- Thời kỳ vận động liên hoành và hợp tung.
3- Thời kỳ nước Tần tiêu diệt lục quốc.

Chiến quốc có năm tiến hoá trọng đại:
a- Tiến bộ kỹ thuật.
b- Kinh tế phát triển, chế độ công điền bị triệt bỏ, đô thị mở rộng, thương nghiệp hưng thịnh, hoá tệ phát đạt.
c- Chiến tranh ác liệt hoá, quan hệ tình trạng quân quốc hoá của nước Trung hoa.
d- Chiến tranh và kinh tế tạo ra quốc gia quân chủ tập quyền.
e- Phần tử trí thức làm chủ tể chính trị.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [83] [84] [85] [86] [87] [88] [89] ... ›Trang sau »Trang cuối