Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [65] [66] [67] [68] [69] [70] [71] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

Trong CGĐL, Kim Dung cho nhân vật Vi Nhất Tiếu mang biệt danh Thanh Dực Bức Vương – con dơi xanh – chuyên dùng bữa bằng máu cắn hút ở cổ người, y hệt như Dracula. Vi Nhất Tiếu có tài khinh công, chạy bộ như bay. Khi đấu chiến y chỉ cần ôm được đối thủ rồi nhe hai hàm răng ra cắn vào cổ đối phương, hút máu để giải quyết cả cơn đói lẫn cơn ghiền! Thật kinh dị.

Ỷ Thiên Đồ Long Ký cũng cho ta thấy Kim Dung đã không quên vinh danh những đóng góp đáng kể của nền điện ảnh Nhật Bản. Nhất là các phim: ‘The Seven Samurai – 7 người võ sĩ đạo’ qua 7 đệ tử Võ Đang của Trương Tam Phong; phim ‘Rashomon - Địa Ngục Môn’ qua cách kể chuyện flashback về nguyên uỷ chuyện xưa (Kim Hoa Bà Bà, Tạ Tốn, v.v.), mỗi người thuật lại một kiểu theo trí nhớ đầy chủ quan của mình; và nhất là phim ‘Hiệp Sĩ Mù’ qua kiếm khách mù Tạ Tốn.

Một trong những kỹ thuật then chốt làm cho truyện Kim Dung được nhiều người hâm mộ do đó có thể qui vào thành tố kinh dị, Kim Dung đã áp dụng từ các tiểu thuyết và phim ảnh thuộc genre kinh dị của Tây phương, đặc biệt các phim của Hitchcock.

(ii) Tình huống éo le mới trong dàn dựng cũ

Đọc lại các truyện chưởng Kim Dung mà không đọc lại các bộ truyện kiếm hiệp xưa như ‘Càn Long hạ Giang Nam’, ‘Lã Mai Nương’, có lẽ ta sẽ dễ quên một điểm quan trọng: truyện Kim Dung rất khác những pho truyện kiếm hiệp cổ điển.

Kỹ thuật tiểu thuyết của Kim Dung đã biến đổi công thức của loại truyện kiếm hiệp Tàu, rất,… rất nhiều.

Trước hết Kim Dung áp dụng kỹ thuật tiểu thuyết của Tây phương, ngày trước ta thường gọi tiểu thuyết luận đề. Đại khái, lồng vào nhân vật chính những mâu thuẫn to tát do ở giá trị của xã hội đương thời – lúc nào cũng biến đổi, mặc dù biến đổi rất chậm. Rồi dùng những phép thần chú của ngòi bút, dần dà hoá giải các mâu thuẫn đó ở phần cuối truyện. Những tiểu thuyết lừng danh ở phương Tây như ‘Cuốn theo chiều gió – Gone with the wind’, ‘Kiều Giang – Jane Eyre’, ‘Buồn ơi ta chào mi – Bonjour tristesse’, ‘Romeo & Juliet’ đều giải toả rất hay, những mâu thuẫn trong giao tác giữa, hoặc hay hơn, mâu thuẫn trong nội tâm của, nhân vật.

Nếu so sánh với tiểu thuyết võ hiệp Tàu cổ điển với truyện chưởng Kim Dung, ta sẽ thấy mâu thuẫn trong truyện Kim Dung được nhấn mạnh rất rõ nét. Võ hiệp cổ điển thường quay chung quanh việc ‘trả thù nhà nợ nước’: Cao thủ nào đó giết hết cha mẹ nhân vật, xong rồi nhân vật được một đại sư hay đại ni cô nào đó cứu, và dạy thập bát ban võ nghệ cho. Khi thành tài và lớn lên, đi truy tìm kẻ thù thách đấu rồi hạ sát địch thủ, móc tim ra tế khấn vong hồn song thân. Kim Dung đã dùng những bối cảnh cũ của truyện võ hiệp Tàu và truyền vào đó những nội công thâm hậu của kỹ thuật tiểu thuyết phương Tây. Thí dụ, trong CGĐL, Triệu Minh một quận chúa Mông Cổ lại phải lòng một người Hán có võ công trác tuyệt đang lãnh đạo một lực lượng mong lật đổ nhà Nguyên của triều đình. Hoặc Hân Tố Tố một yêu nữ gốc ma giáo lại thành hôn với đệ tử đẹp trai Trương Thuý Sơn của Võ Đang, thuộc hàng danh môn chính phái. (Kim Dung chọn lối Romeo & Juliet để giải toả cho Thuý Sơn và Tố Tố). Kỷ Hiểu Phù người thuộc danh môn chính phái, bỏ hôn phu Hân Lợi Hanh, đi yêu cao thủ ma giáo Dương Tiêu. Rồi con gái Hiểu Phù và Dương Tiêu về sau lại thành thân với Hân Lợi Hanh, nối lại tơ vương đính ước giữa mẹ nàng với Lợi Hanh.

Ngoài những mâu thuẫn về tình cảm Kim Dung còn tô đậm nét và giải toả những mâu thuẫn giữa các xu hướng chính trị, hệ thống Khổng Mạnh, Lão Trang, và những hệ thống giá trị cổ truyền Trung quốc. Triệu Minh từ giã cha anh, vinh hoa phú quý, phản bội triều đình – đi theo tiếng gọi ơi ới của con tim. Trương Vô Kỵ lên được đến võ lâm minh chủ chính nhờ ở tính tình bộc trực ngay thẳng, đôn hậu. Nhưng không thể nào trở thành nhà lãnh đạo chính trị được. Vai trò đó phải nhường cho những người như Chu Nguyên Chương. Giải pháp Kim Dung chọn cho Vô Kỵ mang nhiều ảnh hưởng Lão Trang: Dong ruổi cưỡi ngựa cùng với Triệu Minh đi về hướng mặt trời lặn, để rồi ngày ngày kẻ lông mày cho nàng.

Các nhân vật chính đều có kẻ thù, nhưng hầu hết ân oán giang hồ đều được giải toả theo triết lý của Phật giáo, lấy đức báo oán, dụng nghĩa tha Tào. Trương Vô Kỵ rất oán hận các chính phái bởi cha mẹ chàng đã bị các chính phái bức tử, nhưng chàng vì nghiệp lớn, đứng ra hoà giải các chính phái với nhau. Vô Kỵ cũng thù Huyền Minh nhị lão đánh cú âm hàn chưởng, nhưng cuối truyện vẫn không giết Huyền Minh nhị lão, mà chỉ làm cho hai cao thủ đó đâm ra gây gổ hục hặc với nhau. Hân Tố Tố đâm mù mắt Tạ Tốn, nhưng Tạ Tốn sau đó lại kết nghĩa anh em với Tố Tố và Thuý Sơn, rồi nhận Vô Kỵ làm con nuôi. Tạ Tốn giết không biết bao nhiêu người nhưng sau cùng y phế bỏ võ công và sẵn sàng chịu chết để đền tội, lại được giang hồ tha chết. Chỉ vì y bắt đầu giác ngộ. Tạ Tốn thù hận Thành Khôn nhưng khi đánh mù mắt và biến Thành Khôn thành người tàn tật mất hết võ công, Tạ Tốn dừng lại tha chết Thành Khôn.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Điểm tổng quát thứ hai trong việc áp đặt mâu thuẫn lên nhân vật, chính là tình huống rất éo le luôn được dàn dựng trong truyện Kim Dung. Trong CGĐL, các mối thù hận mang đầy phức tạp, những mối tình toàn éo le ngang trái - chứ không giản đơn như truyện Tàu xưa cũ.

Thù hận phức tạp: (i) Kẻ thù bất cộng đái thiên của Tạ Tốn là Thành Khôn, chính ra sư phụ ruột của y; (ii) Kẻ thù của Trương Vô Kỵ rất khó xác định! Vì đâu cha mẹ y phải tự vẫn trước mặt đông đủ giới giang hồ? Vì đâu y bị một cú Huyền Minh thần chưởng để bị bệnh nhiều năm? Rất khó thiết lập nguyên do chính và kẻ thù chính của Vô Kỵ. (iii) Đến ngay kẻ thù của dân tộc là người Mông Cổ, nhưng một quận chúa Mông Cổ lại đâm ra mê chàng! (iv) Kẻ thù Dư Đại Nham là ai? Lại không truy ra được ‘nguyên do trực tiếp’ khiến chàng bị bẻ tay bẻ chân! V.v.

Tình yêu ngang trái, éo le: (i) Hân Tố Tố (ma giáo) yêu Trương Thuý Sơn (chính phái); (ii) Trương Vô Kỵ ban đầu yêu Chu Chỉ Nhược, nhưng cứ bị Diệt Tuyệt sư thái ngăn cản hoài, rồi bị Chu Chỉ Nhược đâm cho trọng thương trước sau 2 lần; (iii) Hân Ly, em cô cậu ruột Vô Kỵ, gởi trọn trái tim cho Vô Kỵ; (iv) Triệu Minh, gái Mông Cổ, say mê trai Hán Trương Vô Kỵ, rồi rốt cuộc phải chọn một trong hai ở nhà hay bỏ nhà theo chàng; (v) Kỷ Bất Hối – con gái của ma giáo Dương Tiêu và chính phái Hiểu Phù – sau này trong dịp săn sóc Hân Lợi Hanh đang bị trọng thương, đâm ra yêu người tình cũ của mẹ, và xin cha và Vô Kỵ cho phép tác hợp với Lợi Hanh. Kim Dung có vẻ áp dụng kỹ thuật ăn khách của ‘Un certain sourire - Một nụ cười đáng nhớ’, và ‘Aimez-vous Brahms – anh có thích nhạc Brahms không’ của Francoise Sagan, trong mối tình Bất Hối - Lợi Hanh. Tình yêu không phân biệt tuổi tác, hơi chéo, đối với suy nghĩ cổ kính của xã hội Trung Hoa thời xưa.

Một điểm đượm sắc chu hồng mà truyện chưởng Kim Dung vẫn thường xuyên đề cập và phân tích, phải kể: tính cách Hiệp Chủng quốc của xã hội Trung Hoa, và giao tác giữa những cao thủ khác sắc tộc với nhau, trong bối cảnh lịch sử Trung quốc. Đây có lẽ là lối tạo dựng nhân vật mới lạ nhưng rất sát với thực trạng xã hội, mà những nhà văn trước Kim Dung đều lướt nhanh qua hoặc hoàn toàn thiếu sót. Trong nhiều truyện ta thấy rất nhiều nhân vật chính không phải Hán tộc. Thiên Long Bát Bộ có Kiều Phong, Mộ Dung Phục, các nhà sư từ Thổ Phồn, từ Tây Tạng đến… Xạ Điêu Anh Hùng truyện có Tây Độc Âu Dương Phong, Hoa Tranh công chúa, … Ỷ Thiên Đồ Long ký bắt đầu với Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo từ miền Tây Vực, rồi Kim Hoa Bà Bà với Tiểu Siêu từ Ba Tư xa xôi, Triệu Minh quận chúa gốc Mông nhưng yêu trai Hán, Huyền Minh nhị lão, v.v. Kim Dung đã nêu lên rồi dùng ngòi bút, khi cương khi nhu, hoá giải các mâu thuẫn tiềm tàng tính chất sắc tộc trong xã hội Hoa.

Tóm lại, Kim Dung đã hiện đại hoá tiểu thuyết kiếm hiệp Tàu bằng cách cho vào đó những tình huống éo le của xã hội hiện đại - với những giải pháp sẵn có của tiểu thuyết, phim ảnh thuộc xã hội tiên tiến Tây phương. Và đã trực tiếp nhìn thẳng vào những vấn đề ắt có của một xã hội đa diện, đa văn hoá, đa sắc tộc của Trung quốc trong dàn dựng dã sử của thời xa xưa.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

(iii) Thế võ mới – chưởng pháp mới

Những người từng đọc truyện Tàu hồi xưa chắc còn nhớ trong những truyện như Thuyết Đường, Tiết Nhơn Quí, Tiết Đinh San, Càn Long, Lã Mai Nương, v.v. các thế võ, đường côn, ngọn cước đều được mô tả rất có bài bản. Tức người viết phải biết qua các thế võ có thật của Thiếu Lâm Tự, hoặc Võ Đang, Côn Luân rồi mới đặt bút viết mô tả lối đánh của các thế võ đường quyền đó.

Đến lúc truyện của Kim Dung xuất hiện, người đọc khắp nơi bắt đầu làm quen với những thế võ … mới mẻ, những đường kiếm tuyệt chiêu, theo kiểu xạo hết chỗ nói. Hoàn toàn phản khoa học, nhất là khoa vật lý Newton. Nhưng ngòi bút của Tra Lương Dung tiên sinh cao siêu đến độ ai cũng biết tiên sinh ba xạo, phóng bút phịa ra những thế võ, đường kiếm đó mà vẫn phải mê. Phải thức đêm thức hôm đọc cho hết đoạn kế. Hoặc xem đến bét mắt cho hết toàn bộ phim tập, mới được!

Đóng góp đáng kể nhất của Kim Dung trong võ công phải kể…CHƯỞNG. Rồi đến Nội Công, Khinh công. Những màn chữa trị nội thương, ngoại thương bằng các danh y kiểu Hoa Đà Biển Thước, hoặc đơn thuần bằng nội công do các tay cao thủ truyền sang người bệnh bằng đầu ngón tay - cũng được Kim Dung khai thác triệt để. Ở truyện chưởng Kim Dung ta thấy rất nhiều thế võ cao siêu gán đặt cho nhiều môn phái khác nhau, nhưng thường thường lại bị… thất truyền lâu năm.

Kể sơ sơ: Giáng Long Thập Bát Chưởng, Hàm Mô Công, Cửu Âm chân kinh, Nhất Dương Chỉ, Đả Cẩu Bổng Pháp, Độc Cô Cửu Kiếm, Tịch Tà Kiếm Phổ, Song thủ hỗ bác, … Trong Cô gái Đồ Long đáng kể nhất: Huyền Minh thần chưởng, Càn Khôn Đại Nã Di tâm pháp, Cửu Dương chân kinh, Cửu Âm chân kinh, Cửu Âm bạch cốt trảo, v.v. Chỉ có Thái Cực kiếm và Thái Cực quyền là có thật. Kim Dung còn xạo hết chỗ nói ở một truyện nào đó, tiên sinh đặt ra một cái màn ‘cách sơn đả ngưu’, miêu tả một thế đánh, người sử dụng đứng bên này núi dùng chưởng pháp đánh chết một con trâu đứng bên kia núi!

Trước Kim Dung, ít thấy màn đánh chưởng trong truyện Tàu. Đánh chưởng, tức đánh vào đối phương nguyên lòng bàn tay, được đẩy mạnh tới - với năm ngón tay chổng thẳng lên trời. Đây là một thế võ độc đáo do Kim Dung ‘phát minh’ ra. Nếu một thế chưởng được một người có nội công thâm hậu, tức sức mạnh hùng tráng, tung ra, người bị đánh có thể bị trí mạng như chơi. Được thế, Kim Dung lại nhào nặn ra vài biến đổi của chưởng pháp.

Biến đổi thứ nhất phân chia hai loại chưởng: chưởng mang âm khí, như Huyền Minh thần chưởng - truyền âm khí và hơi lạnh vào người bị đánh; và chưởng mang dương khí – như thứ chưởng pháp nhiều cao thủ thường xử dụng, mang nhiều chất nóng thuộc dương khí. Vô Kỵ bị trúng phải chưởng âm hàn Huyền Minh thuộc hành Thuỷ – nên bị bệnh nhiều năm. Và chỉ có thể chữa trị được bệnh khi nội công – bên dương khí - được gia tăng trong cơ thể. Nhờ ăn con ếch màu đỏ - màu của hành Hoả, thuộc dương - lại có duyên tìm đưọc và luyện được Cửu Dương chân kinh, Vô Kỵ mới khỏi bệnh.

Biến đổi thứ hai: nhiều loại chưởng pháp, không chạm thân thể, chỉ đánh vào không khí về hướng đối thủ. Tạo nên một làn sóng sức ép, của không khí bị nén, đả thương đối thủ như chơi. Hoặc đánh được cây tróc gốc. Đánh được trâu chết, đứng bên kia núi! Giáng Long thập bát chưởng của vua hành khất Hồng Thất Công, sau này truyền lại cho Quách Tĩnh (trong Xạ Điêu Anh Hùng Truyện), là thứ chưởng độc đáo kiểu này.

Trước phong trào tiểu thuyết Kim Dung vẫn có khinh công và nội công. Nhưng Kim Dung cho vào một ý niệm mới về nội công. Trong đó, nội công giống như một thứ dầu xăng cần cho xe hơi. Xe xịn có xăng dầu tốt, xe cũ, xe tồi ưa hết xăng và máy chạy yếu xìu xìu. Nội công cũng vậy. Khi cần hỗ trợ sức mạnh cho một người bạn cùng phe, cao thủ chỉ cần dí ngón tay vào phía sau lưng bạn, nội công sẽ chuyền qua cơ thể người bạn – y như hút chuyền xăng từ xe này qua xe kia (cũng giống như chuyền điện, sạc ‘pin’) - để người bạn đó mạnh hẳn lên, và có thể tung chưởng mạnh ra đối kháng với kẻ địch. Nhưng, cũng lại y như xe hơi chuyền xăng, người cao thủ nếu cứ tiếp tục truyền nội lực cho bằng hữu – thì trong chính cơ thể y, nội công sẽ bị phân tán, và chính y sẽ mất hết sức lực, mất hết nội công. Phải ngồi yên hít thở vận lại sức hàng giờ. Nhưng đôi khi, vẫn có trường hợp nội lực bị mất, thì mất luôn không thể tập trung lại được nữa [Xem: Hấp tinh đại pháp trong ‘Tiếu Ngạo Giang Hồ’]. Thật ngộ, thật hay, nhưng cũng thật xạo hết chỗ chê [9].

Một mốt khác cũng do Kim Dung lăng xê bao hàm nhiều tính hài: Tẩu hoả nhập ma. Một cao thủ bị tẩu hoả nhập ma khi y cố gắng hết sức để tập một môn võ công quá khó, quá phức tạp đòi hỏi một nội công cao siêu hay tư duy đặc biệt mà y không có. ‘Tẩu hoả nhập ma’, theo Kim Dung, vô phương cứu chữa. Và có lẽ được tác giả vay mượn từ ‘bệnh quỷ ám’ của Tây phương, nhiều khi được trị liệu bằng thầy trục quỷ, exorcist. Sau khi được lăng xê, ‘tẩu hoả nhập ma’ được dùng theo nghĩa rộng, thường để mô tả một khoa học gia ngược đời, eccentric hay mad scientist, hay người bị quẩn trí vì học quá nhiều sách vở. Với âm tiết và ý nghĩa ngộ nghĩnh, nghe vui tai, nên không mấy chốc, cụm từ này đã du nhập và biến thành từ vựng của tiếng Việt.

Kim Dung còn ba phịa hết chỗ chê trong những mô tả về đường kiếm, thế võ: Kiếm Khí, đánh nhau bằng một luồn khí do nội công thâm hậu tiết ra – thay cho kiếm thật. Cách không điểm huyệt, điểm huyệt đối phương không cần va chạm vào thân thể. Nhất Dương chỉ, chỉ ngón tay vào một điểm nhược trên mặt đối thủ - chạm thật hay không không cần, và chỉ một và một cú mà thôi – đánh bại đối thủ ngay. Các lối luyện võ, như dùng sọ người để tập đâm 5 ngón tay vào (Cửu Âm Bạch cốt trảo), cho nhện độc cắn vào mặt và hút máu, trao đổi với độc tố để luyện một môn võ thật ...kỳ bí và độc hại, v.v.

Thế nhưng Kim Dung lại thành công. Thành công trong việc thuyết phục nhanh chóng độc giả chấp nhận rồi đâm ra say mê toàn bộ các thế võ, chưởng pháp, đường kiếm tưởng tượng phong phú đó. Thành công ấy có thể làm chúng ta liên tưởng đến nghệ thuật ‘nhái điệu bộ’ của những impersonators. Rất nhiều impersonators có vóc dáng và khuôn mặt khác xa những người họ muốn nhái, như Elvis Presley, Richard Nixon, Jimmy Carter, Burt Lancaster, v.v., nhưng họ biết người xem chú ý nhiều nhất đến điệu bộ và cách nói, và chỉ ăn tiền ở chỗ đó thôi. Truyện chưởng Kim Dung cũng vậy. Mặc dù ai cũng biết những đường kiếm thế võ đó dóc tổ, nhưng lối mô tả đến hình thức chung quanh các lối xuất chiêu, các kỹ thuật luyện tập, cùng với những suy tính nhanh chóng của những cao thủ đang lâm trận - lại tạo được người đọc cảm giác hồi hộp hoặc sảng khoái – hơn những lối đánh võ, thế kiếm thứ thiệt. Từ đó người đọc dễ quên tính cách hoang đường của chưởng, kiếm pháp, nội công, v.v. và ngược lại sẽ bị ma lực của truyện chưởng Kim Dung lôi cuốn và hút hết nội công!

Nhìn chung, người đọc Kim Dung phải nhìn nhận tài năng có một không hai của tiên sinh khi biết phóng túng hoá các thế võ – đưa chúng ra ngoài các ràng buộc xưa cũ. Nhưng cũng đồng thời, giữ vững lô-gích và mạch lạc cho câu truyện, cho kết cấu. Mô tả thật hay, thật sâu sắc về những tình tiết éo le, những mâu thuẫn xã hội nhiều tác giả khác ít chú tâm đến, và phân tích tỉ mỉ tâm lý nhân vật cùng những thắc mắc vô tận về hệ thống giá trị cổ truyền của Trung quốc.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

(iv) Thắc mắc về hệ giá trị cổ truyền

Có lẽ nhờ ở thành tố nhiều chất xám này, truyện chưởng Kim Dung đã thành công ngoài sức tưởng tựợng. Trong bất cứ truyện nào của Kim Dung, ta cũng thấy tiên sinh đặt ra những nghi vấn về hệ thống giá trị cổ truyền của xã hội Trung quốc. Trong ‘Tiếu Ngạo Giang Hồ’, Kim Dung quan sát ý niệm người quân tử, và giới thiệu hạng ‘nguỵ quân tử’ như kiểu Nhạc Bất Quần. Cũng trong truyện này, tiên sinh đưa vào đó một số kiếm khách ‘pêđê’ đồng tính luyến ái bất đắc dĩ. Qua Lục Mạch Thần Kiếm và Thiên Long Bát Bộ, Kim Dung đặt câu hỏi về kỳ thị chủng tộc - của người Hán đối với các sắc tộc như Khiết Đan, với vai trò của người hùng Cái Bang mang tên Tiêu Phong. Đến câu hỏi về nguyên do của chiến tranh, về tham vọng khôi phục lại cơ đồ nước Đại Yên của Mộ Dung Công Tử. Rồi đến Lộc Đỉnh Ký, tác giả đánh giá lòng yêu nước của những người bên ngoài thường mang tiếng hợp tác với giặc, qua nhân vật Vi Tiểu Bảo. Lộc Đỉnh Ký cũng lại một luận đề về tự do cá nhân, xuất phát từ Tây Phương. Về tình yêu không ranh giới tuổi tác, chủng tộc, xu hướng chính trị, và giai cấp. ‘Anh Hùng Xạ Điêu’ hay nhất ở nhân vật Đông Tà Hoàng Dược Sư và con gái ông, mang tên Hoàng Dung. Gàn gàn, tà ác, dưới mắt xã hội, nhưng độc giả lại rất thích. Gàn và tà ác, nhưng có thể vẫn liêm khiết và yêu nước như thường. Để ý Kim Dung cho biết ông nghiên cứu tâm lý xã hội học rất kỹ khi tạo dựng nhân vật ‘khác thường’ Đông Tà Hoàng Dược Sư. Tiên sinh cho Hoàng lão tà một người sống biệt lập tại đảo đào hoa. Phải sống biệt lập mới có được những tư tưởng khác thường. ‘Thần Điêu Hiệp Lữ’ kéo cho xụp bức tường kiên cố của hệ Khổng Mạnh: Thầy nữ và trò trai - tuổi tác chênh lêch lại yêu nhau. Thầy Tiểu Long Nữ lại bị mất trinh bởi một cao thủ thuộc danh môn chính phái. Nhưng trò Dương Qua không hề quan tâm và vin theo giá trị mới của Tây phương (do Kim Dung giới thiệu), phớt lờ như không, tiến mạnh lên đỉnh cao của tình yêu tuyệt đối.

Chú ý nhất, YTĐLK đem ra chất vấn các hệ giá trị sau đây:
- phân biệt và kỳ thị giữa các phái võ chính tông như Thiếu Lâm, Nga Mi, Côn Luân, Võ Đang, v.v. và những băng đảng tà ma ngoại đạo, điển hình Ma giáo, tức Minh giáo của Trương Vô Kỵ. Đọc CGĐL xong, người đọc chợt cảm thấy ghét các phái chính tông bởi những phái đó chứa chấp rất nhiều cao thủ đạo đức giả, khẩu phật tâm xà.
- Phân biệt và kỳ thị chủng tộc, giai cấp, môn phái trong tình yêu: Triệu Minh, gái Mông, và Trương Vô Kỵ, trai Hán. Hân Tố Tố, Ma giáo với Trương Thuý Sơn, chính phái.
- Câu nệ tuổi tác, tình mẹ duyên con - bị đánh đổ qua mối tình của Hân Lợi Hanh và Kỷ Bất Hối. Lợi Hanh ngày trước đáng lẽ đã cưới mẹ của vợ là Kỷ Hiểu Phù.
- Phá đổ hàng rào luyến ái của Khổng Mạnh. Trai gái cầm tay nắm chân cho nhau là chuyện thường. Ai yêu ai trước cũng được. Người nữ, như Hân Tố Tố thấy thích người nam, Trương Thuý Sơn, thì mời chàng sang thuyền uống rượu nghe đàn. Triệu Minh, thấy cảm Vô Kỵ, cứ việc ngỏ lời trước – đá lông nheo trước, để rồi cuối cùng nhờ Vô Kỵ ngày ngày kẻ lông mày, cho khuôn mặt trăng tròn cùng nét ngài của nàng, luôn được nở nang. Đây chắc chắn là một tuyệt chiêu của Kim Dung. Lôi cuốn giới trẻ thuộc thế hệ xì tin. Lý do: Thanh niên phái nam, thấy thích vì có trường hợp người con gái ‘cua’ mình trước. Phái nữ, dĩ nhiên cũng thích vì thấy Kim Dung cổ xuý quyền tự do phái nữ được bắn tiếng trước! Cảnh Triệu Minh mời mọc Vô Kỵ đến tửu điếm để cùng nàng đối ẩm buổi tối là một xen lãng mạn nhất nhì trong CGĐL. Lãng mạn không kém phải kể đến đoạn Triệu Minh và Vô Kỵ giả thành đôi vợ chồng mới cưới, phải giả uống rượu ôm, ngủ ôm, lúc được tạm tá túc ở chòi tranh dưới chân núi Thiếu Lâm để dò la tông tích Tạ Tốn.
- Ranh giới phân biệt giữa chính và tà hoàn toàn bị tiểu thuyết Kim Dung biến ra mơ hồ, không phân minh. Trong suốt những năm lưu lạc giang hồ Vô Kỵ luôn luôn nhận thức lấy điều đó kinh qua nhiều lần gặp phải truân chuyên, hiểm nghèo. Trong giới tà ma ngoại đạo cũng có người tốt có người xấu. Chính phái cũng vậy. Chỉ có điểm khác nhau: chính phái lúc nào cũng rất chủ quan, lúc nào cũng tự mãn phe ta tốt, phe ta thuộc giữa giòng. Nhưng rất ít khi dừng lại, nghiêm túc khắt khe tự chất vấn về giá trị và bản chất thực của mình, nhất là đối với một xã hội luôn biến chuyển, thay đổi không ngừng, mặc dù thường rất chậm. Trong Ỷ Thiên Đồ Long ký, chính phái cũng bị thối nát như thường qua trường hợp Hà Thái Xung-Ban Thục Nhàn chưởng môn phái Côn Luân, hoặc cố chấp, thành kiến và chổng cực đoan như Diệt Tuyệt Sư thái, của Nga Mi.
- Tính chủ quan và tự cao, cố chấp dễ đưa đến chia rẽ. Chỉ có đoàn kết mới gây sức mạnh. Điểm này cũng đã được Kim Dung nhấn mạnh qua mô tả chia rẽ giữa các môn phái với nhau, và ngay cả trong nội bộ từng môn phái. Ma giáo (Minh giáo) cũng chia rẽ, nhưng sớm nhất thống và theo Kim Dung, sau này tạo dựng được một lực lượng nòng cốt trong công cuộc đánh đuổi quân Mông Cổ. Chu Nguyên Chương – lãnh tụ công cuộc kháng Nguyên đó, theo Kim Dung, đã xuất thân từ, hay ít nhất được hậu thuẫn của, nhóm Minh giáo này.
- Giá trị cũ: con gái trước khi lấy chồng phải còn trinh. Kim Dung đề xuất: Không cần thiết, bởi phương Tây đã thay đổi. Trong rất nhiều truyện ta thấy vấn đề trinh tiết được đề cập thường xuyên. Dương Qua vẫn yêu thầy mình Tiểu Long Nữ mặc dầu biết thầy đã bị mất trinh với một người khác. Trương Vô Kỵ sẵn sàng kêu Chu Chỉ Nhược làm đám cưới gấp với mình, để che mắt thiên hạ, khi nghe Chỉ Nhược nói gạt rằng nàng đã bị thất thân với một cao thủ khác. Về sau, Chu Chỉ Nhược lại tuyên bố trước toàn thể quần hùng, đệ tử đời thứ 2 của Võ Đang, Tống Thanh Thư là hôn phu của nàng. Mặc dù nét chu sa - dấu chứng của trinh tiết - vẫn còn trên tay của nàng. Nếu đem so sánh vấn đề chữ trinh trong hệ giá trị Trung quốc, với hệ của đạo Hồi, ta sẽ thấy hệ Trung quốc mặc dù cũng rất xưa cũ, mang tính mềm dẻo uyển chuyển dễ thích ứng với biến chuyển tất yếu của xã hội hơn. Và Kim Dung, có lẽ nhà văn đầu tiên của Trung Hoa đã nhìn thẳng và mạnh dạn tiến sâu vào con đường đầy kiêng kỵ taboo này.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Tuy vậy Kim Dung vẫn đề cao những giá trị cổ truyền Trung Hoa. Điển hình:
- Đề cao ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Hành động hy sinh của Vô Kỵ tại Quang Minh Đỉnh, nhằm hoà giải Minh giáo và các chính phái, cùng toàn bộ CGĐL đều đề cao giá trị của Ngũ thường. Ta cũng để ý, Kim Dung đã không bỏ sót việc mô tả cái cảm giác kỳ lạ của người Trung thổ, nhóm Vô Kỵ - Tạ Tốn, khi gặp toán cao thủ người Ba Tư từ Trung Đông đến. Khi Tạ Tốn thấy người Ba Tư hành động khác hẳn người Hán: Không tôn trọng hai chữ Tín, Nghĩa và dễ nuốt lời. Bởi trong văn minh Ba Tư, nơi có nhiều sa mạc và lạc đà, những ý niệm đó, hệ giá trị đó có thể khác với kiểu Hán tộc rất nhiều.
- Giải pháp cho rất nhiều trường hợp ân oán giang hồ, mâu thuẫn xã hội thường dựa vào lời dạy ‘lấy đức báo oán’, thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, của nhà Phật, và vào thuyết Trung-Dung của hệ Khổng Mạnh. Với DUNG trong bút hiệu Kim Dung viết ra y như Dung trong Trung-Dung. Trung Dung tức chọn một con đường ở giữa, không cực đoan quá khích. Trả thù cũng vậy. Tạ Tốn trả thù Thành Khôn cũng chỉ giới hạn ở chỗ làm cho Thành Khôn bị phế huỷ võ công để y không còn quậy được nữa. Rồi thôi. Rồi tự mình phế bỏ võ công. Sau khi được giang hồ thông hiểu và tha mạng, Tạ Tốn giác ngộ, và đi tu.
- Một trong những hệ luận của thuyết Trung Dung tìm thấy trong truyện chưởng Kim Dung: Người đọc khó tìm thấy một người hùng trở thành vô địch, minh chủ võ lâm cho đến hết truyện. (Những người đọc nhiều truyện Tàu xưa trước khi đọc Kim Dung, sẽ thấy rõ điểm lạ kỳ này trong truyện chưởng Kim Dung). Trung-Dung có vẻ rất hợp khi đi đôi với ngũ hành, để đưa đến việc không xác định cao thủ vô địch về đường quyền hoặc thế kiếm. Lúc đầu ai cũng có cảm tưởng Trương Tam Phong phải là võ sư hạng 1. Nhưng Tam Phong có vẻ sợ Huyền Minh thần chưởng và bó tay trước bệnh trạng Dư Đại Nham và Vô Kỵ. Rồi đến Tạ Tốn tức Kim Mao Sư Vương. Cướp đao Đồ Long trước hàng trăm cao thủ như chơi. Nhưng lại sơ ý bị Tố Tố, phận gái, đâm mù mắt. Đến Vô Kỵ luyện được Cửu Dương chân kinh, Càn Khôn Đại Nã Di, tưởng như vô địch - rồi cũng bị Châu Chỉ Nhược trên rơ, đâm cho bị thương trước sau 2 lần. Sau lại xính vính khi đấu với ba sư cụ Thiếu Lâm, phải nhờ đến Chỉ Nhược tiếp sức mới xong. Diệt Tuyệt Sư Thái tài giỏi như vậy nhưng cũng bị Triệu Minh và đám lâu la Mông Cổ bắt được. Dương Tiêu, người tài Ma giáo, lo tranh chấp bị Thành Khôn đánh lén suýt vong mạng. Trương Tam Phong sáng tác được Thái Cực quyền, lại bị cao thủ Mông Cổ giả dạng sư Thiếu Lâm, đến đánh lén bị trọng thương – sau nhờ Vô Kỵ đến cứu viện kịp thời.

Những phân tích và đặc biệt, chất vấn, hoài nghi về các hệ giá trị cổ truyền Trung Hoa, trước thời Kim Dung gần như không có. Kim Dung đã hiện đại hoá tiểu thuyết kiếm hiệp Tàu bằng những đóng góp lớn lao đó. Và đã thành công.

(v) Cấp bậc trong võ lâm

Một trong những kỹ thuật Kim Dung thường xử dụng để gây thích thú cho độc giả: sắp xếp cấp bậc cao thủ trong giới võ lâm. Đó chính là một cải cách truyện võ hiệp hoàn toàn do Kim Dung ‘đề xuất’ và sáng tác.

Điển hình nhất trong Xạ Điêu Anh Hùng truyện. Lúc đầu truyện, người giỏi võ nhất là Khâu Xứ Cơ thuộc phái Toàn Chân. Xong rồi nhóm Giang Nam thất quái, sư phụ của Quách Tĩnh. Theo truyện kiếm hiệp cổ điển có lẽ đến đó là cao cấp nhất. Nhưng không, sau đó xuất hiện Mai Siêu Phong và Trần Huyền Phong với thế võ rùng rợn Cửu Âm Bạch cốt trảo, trên cơ Giang Nam thất quái rất xa. Xong rồi đám cao thủ chạy theo bảo vệ bọn giặc Hoàng Nhan Liệt. Võ công cũng rất cao siêu. Rồi lần lượt Võ Lâm Ngũ Bá xuất hiện, trong đó có flashback thuật lại hành tung Vương Trùng Dương lúc còn sinh thời. Qua ngón Nhất Dương Chỉ mượn từ Đoàn Nam Đế. Rồi đến Cừu Thiên Nhận, và Châu Bá Thông, tức lão ngoan đồng với ngón Song Thủ Hỗ Bác [10], sáng chế trên đảo Đào Hoa sau nhiều năm bị Hoàng Dược Sư giam lỏng. Quách Tĩnh sau cùng gần như học được hầu hết các thế võ chính của tất cả các cao thủ. Nhưng đến cuối truyện người đọc vẫn không thấy Quách Tĩnh đánh hạ được Âu Dương Phong.

Như vậy, truyện Kim Dung mang hai thành tố vừa lạ, dễ thu hút độc giả, vừa gây bực tức, nhưng cũng kích thích được độc giả, buộc họ phải suy nghĩ. Thành tố thứ nhất: tiếp tục giới thiệu người giỏi sẽ có người giỏi hơn, và hơn cả một quantum, một cấp nhảy vọt. Mục đích: gây ngạc nhiên thích thú, lôi cuốn người đọc. Và thành tố thứ hai: Do ở ràng buộc của thuyết âm dương ngũ hành, thuyết Trung Dung của Khổng Mạnh, thuyết Bất Nhị Nguyên của Phật giáo, không bao giờ ta có thể thấy vai chính hay một vai nào đó trở thành vô địch thiên hạ, trong các truyện chưởng của Kim Dung. Đây chính là thắc mắc của tại hạ suốt mấy mươi năm không lý giải được, kể từ lúc đọc Xạ Điêu Anh Hùng truyện và Cô Gái Đồ Long.

Trong Cô Gái Đồ Long, thoạt đầu ta thấy Trương Thuý Sơn, học trò cưng của Trương chân nhân, có vẻ một người rất giỏi võ nghệ. Hân Tố Tố cũng vậy. Nhưng rồi Tạ Tốn xuất hiện, võ công cao cường, kiến thức yêm bác. Trên cơ Thuý Sơn, Tố Tố mấy cấp. Lúc Thuý Sơn và Tố Tố trở về Trung thổ sau 10 năm sống chung với Tạ Tốn ngoài hoang đảo, ta thấy xuất hiện một hai cao thủ lạ mặt đem Huyền Minh thần chưởng ra đối chọi với Trương Tam Phong và đánh vào Vô Kỵ một chưởng chí tử. Rồi Vô Kỵ có cơ duyên tìm được Cửu Dương Chân kinh, luyện được thêm Càn Khôn Đại Nã Di, cứu được Ma giáo. Sau đó lại học được thêm Thái Cực quyền và Kiếm do Tam Phong vừa sáng chế. Nhưng về sau vẫn bị Chu Chỉ Nhược đâm cho một nhát, và vẫn không thể hạ được ba vị đại thiền sư của Thiếu Lâm. Cũng không kết liễu được mạng sống của Huyền Minh nhị lão. Rồi cuối cùng vẫn bị Chu Nguyên Chương đánh thuốc ngủ vùi.

Trong khi đó, lúc nào Kim Dung cũng ca ngợi Trương Tam Phong, như một cao thủ hạng nhất thời đó. Nhưng tác giả lại cho Tam Phong già đến 100 tuổi, ít đụng độ với các cao thủ khác chỉ trừ một hai lần - choảng với đám cao thủ lạ mặt trong đội quân của Triệu Minh. Lần đầu đụng độ với Huyền Minh nhị lão chỉ chớp nhoáng nhưng chân nhân phải khựng lại đề phòng. Lần thứ hai, chân nhân bị mắc phải gian kế bị đòn trọng thương. Cửu dương nội công của Tam Phong cũng không trọn vẹn như Vô Kỵ. So với tam đoạn luận Tây phương Trương Tam Phong rất khó thành vô địch thiên hạ, đúng y như ước muốn, dụng ý sâu sắc của Kim Dung.

Mơ hồ trong việc phân chia cấp bậc được Kim Dung lý giải trong đoạn cuối của YTĐLK. Lý giải theo kiểu Bất Nhị Nguyên, sắc không, không sắc, không có, có không. Ở chỗ lúc Tạ Tốn được một trong 3 vị đại tăng, Độ Ách, cho phép quy y, nhận làm đệ tử. Độ Ách, với pháp danh họ Độ thuộc cấp cao nhất đương thời. Cấp bậc thầy của phương trượng Thiếu Lâm, Không Văn. Pháp danh Không, như Không Văn, Không Tín, Không Kiến, lại vai vế bậc thầy của các sư với pháp danh bắt đầu bằng Viên, như Viên Chân, tức Thành Khôn, thầy cũ Tạ Tốn. Tạ Tốn khựng lại, toan từ chối, vì như vậy cấp bực của y sẽ thuộc hàng Không, sẽ quá cao, cao ngang hàng với phương trượng của chùa Thiếu Lâm. Độ Ách cười và đại khái bảo Tạ Tốn: ‘Không là không, Viên cũng là không, ngươi là không, ta sư phụ của ngươi cũng là không. Vô tội, vô nghiệp, vô đức, vô cùng. Ta chỉ cần biết người là Tạ Tốn thôi’

Tóm lại, một kỹ thuật mới lạ khác, so với truyện Tàu xưa, của truyện chưởng Kim Dung nằm ở chỗ luôn dành ngạc nhiên cho người đọc về những cao thủ chưa hoặc sắp sửa xuất hiện, và sự phân chia cấp bậc cao thấp giữa các cao thủ thường bị ràng buộc bởi lô-gích Ngũ Hành, rất đồng điệu và hài hoà với thuyết Trung Dung, và Bất Nhị Nguyên.

Âm Dương Ngũ Hành trong Cô Gái Đồ Long

Đóng góp tiêu biểu của Kim Dung trong việc canh tân cải cách tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình, ngoài những thành tố, chất xám ở trên còn phải kể, sáng chói và đặc thù nhất, thuyết Âm Dương Ngũ Hành.

Thật vậy Ngũ Hành với Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả và Thổ, mặc dù luôn luôn có trong hầu hết các truyện Tàu - đã được khai triển tối đa qua ngòi bút Kim Dung. Tất cả các giao tác, đụng trận giữa những nhân vật trong truyện chưởng Kim Dung đều được chi phối chặt chẽ bởi chu kỳ sinh khắc của Ngũ Hành, phối hợp với sinh động thịnh-suy Âm và Dương. Cũng vì vận hành và giao tác dưới sự điều phối của Ngũ Hành, các võ sư kiếm khách trong truyện hầu như không ai lên được đến võ công tuyệt đỉnh. Hoặc, một kiếm khách A không dễ đánh lại một địch nhân B, để trả mối thù xưa, trừ phi Châu Dịch hay Kinh Dịch đã thay đổi hành tố của A, để A trở thành tương khắc với B, khắc phục được B. Trong ‘Tiếu Ngạo Giang Hồ’, Nhậm Ngã Hành mạng Thổ bị Đông Phương Bất Bại (phía Đông, mạng Mộc) đảo chánh tiếm quyền giáo chủ Ma giáo. Nhậm Ngã Hành sau đó bị giam nhiều năm dưới lòng đất ở Tây Hồ - Hàng Châu, lại luyện được Hấp Tinh đại pháp. Vì ở dưới lòng Tây Hồ, Nhậm Ngã Hành sau đó biến dần sang mạng Kim thuộc phương Tây. Trốn khỏi Tây Hồ và được nhiều người tài giỏi hỗ trợ, trở lại đánh bại Đông Phương Bất Bại, Tây khắc Đông.

Thuyết Âm Dương Ngũ Hành [11] đã xuất hiện tại Trung quốc từ thời xa xưa, cả vài thế kỷ trước Công Nguyên. Có giả thuyết cho thuyết này xuất thân từ môn phái Zoroaster ở Trung Đông. Tóm lược, trong vũ trụ và trời đất có 5 hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, và Thổ. Mỗi Hành được liên kết với một phương hướng địa lý và một màu sắc khác nhau. Hành cũng liên hệ đến cá tính tổng quát con người, thường gọi Mạng.

Kim= phương Tây, màu Trắng. Kim khắc, hay trị được Mộc. (Tây khắc Đông)
Mộc= phương Đông, màu Xanh. Mộc khắc Thổ. (Đông khắc Trung)
Thuỷ= hướng Bắc, màu Đen. Thuỷ khắc Hoả. (Bắc khắc Nam)
Hoả= phương Nam, màu Đỏ. Hoả khắc Kim. (Nam khắc Tây)
Thổ= miền Trung, màu Vàng.Thổ khắc Thuỷ (Trung khắc Bắc)

Đó là chu kỳ tương khắc. Còn chu kỳ tương sinh như sau:

Kim sinh (hỗ trợ) Thuỷ (Tây trợ Bắc)
Mộc sinh Hoả (Đông trợ Nam)
Thuỷ sinh Mộc (Bắc trợ Đông)
Hoả sinh Thổ (Nam trợ Trung)
Thổ trợ Kim (Trung trợ Tây)

Song song với Ngũ hành, còn có Thái Cực. Thái Cực sinh ra Lưỡng Nghi, tức Âm và Dương. Âm chỉ những gì lạnh, mát, thế tĩnh, vật mềm, ban đêm. Dương, ngược lại chỉ cái gì nóng, ấm, thế động, vật cứng, ban ngày. Lưỡng Nghi sinh ra Tứ tượng: Thái dương, thiếu âm, thiếu dương, thái âm. Tứ tượng sinh ra Bát quái: Càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn.

Sơ lược Âm Dương: Dương bắt đầu thịnh ở mùa Xuân, lên đến cực thịnh ở mùa Hè. Sau đó bắt đầu suy. Âm thịnh lên vào mùa Thu và tiến đến cực thịnh ở mùa Đông, lúc đó Dương lại suy. Trong bốn mùa:

Mùa Xuân: Mộc
Mùa Hạ: Hoả
Cuối Hạ - đầu Thu: Thổ
Mùa Thu: Kim
Mùa Đông: Thuỷ.

Âm Dương Ngũ Hành chính là lý thuyết căn bản và nền tảng cho khoa Phong Thuỷ (Feng Shui) rất thịnh hành trong việc định phương hướng tiện lợi trong việc trang trí và xây cất nhà cửa.

Bây giờ xin thử quan sát nhân vật trong CGĐL đã được bố trí ra sao theo với Âm Dương Ngũ Hành.

Trước hết xin ghi nhận một vài định luật về sinh khắc ngũ hành, rút tỉa được từ Kim Dung, sau khi đọc vài tác phẩm của tiên sinh.

Giữa hai người, thông thường nam và nữ, nếu người này cảm người kia trước, A thấy thu hút bởi B, Kim Dung sẽ cho: Mạng hay hành của A bị ‘khắc’ bởi hành của B. Thí dụ, Hoa Trân (Tây/Kim) mê Quách Tĩnh (Nam/Hoả). Hoả khắc Kim. Mặc khác, nếu A thường giúp đỡ B, để sau đó B thương lại A, rồi A và B yêu nhau, hành của A tương ‘sinh’ cho hành B: Hoàng Dung giúp Quách Tĩnh học võ công của Hồng Thất Công. Mộc sinh Hoả. Tình yêu cũng có thể xảy ra giữa bạn đồng môn – cùng chung một hành với nhau: Dương Qua và Tiểu Long Nữ, cùng hành Thổ vì sống và tập võ trong Cổ Mộ - dưới mặt đất. Thổ hợp với Thổ.

Đặc biệt trong CGĐL, Kim Dung ưa nhắc nhở và giúp độc giả nhận ra hành hoặc mạng của nhân vật bằng màu quần sắc áo, màu tóc, hay màu vũ khí của họ. Tiên sinh cũng ưa cho thêm vào những nhân vật một hai mạng xơ cua, để giải toả mâu thuẫn ở hạn chế sinh khắc Ngũ Hành.

Hân Tố Tố và Trương Thuý Sơn mang hành gì. Kim Dung mô tả Thuý Sơn ưa mặc complet, quần áo trắng. Màu trắng biểu tượng mạng Kim hành Tây. Tây khắc Đông. Thật rõ, Hân Tố Tố ưa mặc áo xanh, chỉ hành Mộc, phương Đông. Hân Tố Tố cảm ngay Thuý Sơn ngay khi lúc đầu gặp gỡ. Hành Mộc (Tố Tố) dễ bị hành Kim (Thuý Sơn) khắc.

Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn mang hành gì. Tạ Tốn, một quái nhân có râu vàng, tóc vàng. Mạng Thổ, màu vàng, miền Trung. Sư phụ dạy võ, tức từng giúp đỡ, Tạ Tốn là ai? Thành Khôn tức Viên Chân, về sau. Hoả sinh Thổ. Thành Khôn thuở ban đầu mang mạng Hoả. Tạ Tốn mạng Thổ, nên dù võ công rất cao siêu, vẫn bị mạng Mộc của Hân Tố Tố khắc trị. Tạ Tốn trong lúc sơ ý bị Tố Tố phóng kim châm đâm mù đôi mắt. Trong Ma giáo, chỉ có Tạ Tốn, mang hành Thổ, mới ưa giúp Kim Hoa Bà Bà, hành Kim, mà thôi. Thổ và Kim, không ai khắc ai – nhưng Thổ sinh Kim. Rồi mạng phụ Tạ Tốn, lại là Kim (Kim Mao Sư Vương), vẫn giúp mạng phụ Kim Hoa Bà Bà là Thuỷ. Bởi Kim Hoa Bà Bà có biệt danh Tiá Sam Long Vương, Long tức rồng, sống dưới nước, Thuỷ. Rõ rệt: hồi hai người còn trẻ, Kim Hoa Bà Bà được nhiều người để ý, theo đuổi nhưng cuối cùng lại chọn một cao thủ bên ngoài Ma giáo. Những cao thủ Ma giáo bị chổng, bị thất tình do đó sàm tấu với giáo chủ làm tình làm tội Bà Bà. Chỉ có mình Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đứng ra bênh vực Bà Bà. Bố cục ngũ hành chỗ này thật chặt chẽ. Tạ Tốn tương sinh Kim Hoa Bà Bà – trên hành chính lẫn mạng phụ.

Tạ Tốn lúc bị giam dưới đất tại chùa Thiếu Lâm, ngày ngày được nghe kinh kệ do ba cao tăng canh giữ đọc. Xin thử phân tích chi tiết: ‘Bị giam ở hầm dưới đất’, đất tức thổ, Kim Dung khẳng định họ Tạ hành Thổ. ‘Tại chùa Thiếu Lâm’, Lâm nghĩa rừng, có nhiều cây, màu xanh: Thiếu Lâm có mạng Mộc. Mộc khắc chế Thổ. Đông khắc Trung. Mộc Thiếu Lâm giam Thổ Tạ Tốn. Sau cùng Tạ Tốn cảm hoá, giác ngộ và quy y với ba vị cao tăng Thiếu Lâm kia. Thật rõ: Mộc khắc Thổ. Thiếu Lâm (Mộc) khiến Tạ Tốn (Thổ) dữ dằn cách mấy cũng phải ‘phọt phe’. Nhưng có thể để ý, Kim Dung đã rất cẩn thận trong chi tiết. Ba vị cao tăng họ Độ đó người mang hành Thuỷ (bị hành Thổ của Tạ Tốn khắc), người hành Kim (Thổ sinh Kim), và chỉ có Độ Ách (khuôn mặt màu vàng) mang hành Thổ giống Tạ Tốn. Kim Dung cho Độ Ách nhận Tạ Tốn làm đệ tử.

Kim Hoa Bà Bà mang hành Kim từ phương Tây đến. Tóc bạc trắng. Hành Kim màu trắng. Kim lại khắc Mộc. (Cưa sắt cắt được gỗ). Tây khắc Đông. Đông ở đây được biểu tượng bằng y-dược sĩ Hồ Thanh Ngưu. Hồ Thanh Ngưu chuyên cắt dược thảo hằng ngày, mang tên lót ‘Thanh’ nghĩa màu xanh, đích thị mạng Mộc. Thanh Ngưu và vợ bị Bà Bà tống cho một gậy táng mạng, trả thù riêng trong Ma giáo năm xưa. Nhưng Mộc ‘sinh’ Hoả. Cây cối dễ làm mồi cho lửa. Mộc - Thanh Ngưu giúp Hoả - Vô Kỵ rất nhiều, khi y truyền hết nghề hốt thuốc chữa bệnh cho chú bé họ Trương.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Chu Chỉ Nhược hành gì? Chu Chỉ Nhược con gái của một tướng quân kháng Nguyên bị mồ côi, và gặp Vô Kỵ trên sông, ở một chiếc thuyền với Tam Phong và Ngộ Xuân. Chỉ Nhược đút cơm cho Vô Kỵ ăn, vì thằng bé bị bệnh nặng. Hai yếu tố: giúp Vô Kỵ - mạng Hoả, và gốc gác có liên hệ đến sông nước. Giúp mạng Hoả, chỉ có Mộc mới sinh Hoả. Chỉ Nhược ban đầu mạng Mộc - về sau Châu Dịch chuyển sang mạng Thuỷ. Kiểm chứng: Chỉ Nhược mớm cơm cho Vô Kỵ= Mộc sinh Hoả. Chỉ Nhược ưa mặc áo màu xanh. Thỉnh thoảng áo màu khác nhưng thường thường màu xanh, màu mạng Mộc, phương Đông. Chỉ Nhược khắc chế Tạ Tốn, bắt dời Tạ Tốn đi chỗ khác sau khi ăn cắp đao Đồ Long. Mộc khắc Thổ. Lúc trên Quang Minh Đỉnh, Chu Chỉ Nhược đứng ngoài mách thế võ cho Trương Vô Kỵ đang đấu chiến với từng cao thủ thuộc chính phái: Mộc giúp hay sinh Hoả. (Vô Kỵ mạng Hoả). Diệt Tuyệt Sư Thái tức giận kêu Chỉ Nhược dùng Ỷ Thiên Kiếm nhảy ra đâm Vô Kỵ. Ỷ Thiên kiếm màu xanh, mạng Mộc. Nhưng Chỉ Nhược tránh chỗ nhược và chỉ đâm Vô Kỵ trọng thương mà thôi. Khi Chỉ Nhược chôm được đao Đồ Long rồi, hành của Chỉ Nhược được Châu Dịch hay Kinh Dịch chuyển dần sang hành Thuỷ. Bởi Chỉ Nhược chính là chủ nhân ‘có chất lượng’ thực thụ của đao Đồ Long. Đồ Long đao màu đen, chỉ mạng Thuỷ, phía Bắc. Đồ Long, mang nghĩa chính ‘giết rồng’, cũng liên hệ đến Rồng. Rồng sống dưới nước, mạng Thuỷ. Dù mạng Mộc hay Thuỷ, hôn nhân Chỉ Nhược với Vô Kỵ, nếu thành tựu, cũng đều thích hợp. Mộc sinh Hoả, và Thuỷ khắc Hoả. Có điều nếu Vô Kỵ lấy Chỉ Nhược và nếu Chỉ Nhược vẫn giữ mạng Thuỷ, có thể Vô Kỵ sẽ trở thành chủ tịch hội sợ vợ không chừng, bởi Thuỷ khắc Hoả. Chỉ Nhược biến sang hành Thuỷ khi luyên xong Cửu Âm chân kinh và trở thành cao thủ võ lâm. Nàng khắc chế Vô Kỵ như chơi, mặc dù dùng mưu kế, và đâm soẹt vào người Vô Kỵ một nhát kiếm nữa tại Thiếu Lâm tự.

Thế rồi Vô Kỵ muốn cứu Tạ Tốn. Và muốn cứu Tạ Tốn phải nhờ Chỉ Nhược tiếp sức mới đánh lại 3 nhà sư kia - sẽ bàn đến sau. Tiếp đó Chỉ Nhược muốn giết Tạ Tốn để giữ bí mật xấu xa chôm Đồ Long đao, hoặc tung tích của Đồ Long đao. Nhưng thình lình có một thiếu nữ mặc áo vàng từ đâu xuất hiện cứu nguy Tạ Tốn và dùng cây trúc đánh bại Chỉ Nhược, chớp nhoáng trong vòng đôi ba chiêu. Thế tại sao Kim Dung không để thiếu nữ kia mặc áo trắng hay áo tím, áo xanh cho nó thơ mộng, thay vì áo vàng? Bởi áo vàng có màu Vàng, màu của mạng Thổ, của con cháu Thần Điêu Hiệp Lữ Dương Qua chuyên sống dưới đất nơi Cổ Mộ. Mạng Thổ mới trị được mạng Thuỷ của Chu Chỉ Nhược.

Cuối truyện, Kim Dung cho Chỉ Nhược mặc áo xanh trở lại. Dùng mưu khiến Hân Ly lộ diện chứng tỏ Hân Ly hãy còn sống, nhưng hơi quẩn trí, để Vô Kỵ tha thứ Chỉ Nhược. Xong rồi Mộc - Chỉ Nhược mới giúp Hoả - Vô Kỵ lần cuối bằng cách nhường cho chàng chức chưởng môn Nga Mi, rồi nàng thế phát trước mặt Tam Phong.

Như đã đề cập phía trên Trương Vô Kỵ mang mạng Hoả. Bởi ngay từ nhỏ chàng đã bị Huyền Minh thần chưởng, in dấu bàn tay đen - mạng Thuỷ – làm cho xính vính gần chết. Thuỷ khắc Hoả. Lửa dễ bị nước tưới tắt phụt. Vô Kỵ luôn luôn kiêng kị, bị khắc bởi mạng Thuỷ, cái gì màu đen, và phương Bắc. Vô Kỵ chỉ có thể chữa được bệnh bằng Cửu Dương chân kinh, thuộc Thái Dương chỉ mạng Hoả. Con nhái Vô Kỵ ăn được ở sơn cốc cũng màu đỏ, màu mạng Hoả, bổ dương. Để chống trả âm hàn khí do Huyền Minh thần chưởng gây ra. Làm giáo chủ Minh giáo, cũng lại chúng tỏ y mang mạng Hoả. Bởi biểu hiệu Minh giáo là ngọn lửa. Sau này Vô Kỵ lại có nhiệm vụ đi tìm Thánh Hoả lệnh, một thứ ấn dấu của lãnh tụ Ma giáo, cũng có chữ ‘Hoả’, mạng Hoả. Và chàng tình cờ giật được Thánh hoả Lệnh từ các cao thủ Ba Tư, lúc họ sang tìm Kim Hoa Bà Bà.

Trừ Chu Chỉ Nhược, gần như tất cả những người nữ khác mê Vô Kỵ mang hành Kim. Hoả khắc Kim. Người mang hành Kim có gốc gác từ phương Tây. Tiểu Siêu, công chúa Ba Tư, ái nữ của Kim Hoa Bà, theo hầu Vô Kỵ và rất thương chàng. Hân Ly, em cô cậu Vô Kỵ, rất mê y – nhưng không biết có bà con. Hân Ly cũng có dính dáng đến mạng Kim, vì là đệ tử lâu năm của Kim Hoa Bà Bà. Và cũng mang mạng Kim bởi Hân Ly là cháu nội của Bạch Mi giáo chủ Hân Thiên Chính. Bạch Mi có nghĩa lông mi màu trắng. Trắng: màu của mạng Kim. Nhất là Triệu Minh, người Mông Cổ - cũng hành Kim. Bởi nước Mông Cổ nằm về hướng TÂY Bắc nước Tàu. Hoả - Vô Kỵ khắc được nhiều thiếu nữ đẹp từ phương Tây - mạng Kim

Để ý, Hoả sinh Thổ. Chính Tạ Tốn (mạng Thổ) khi nghe tiếng khóc oe oe chào đời của Vô Kỵ (mạng Hoả) đã trở nên bớt khùng. Hoả giúp Thổ. Sau đó Tạ Tốn xin nhận làm cha đỡ đầu cho Vô Kỵ.

Cũng nên để ý, Vô Kỵ mang mạng Hoả cực Nam nên không bao giờ chế khắc hay giết được Huyền Minh nhị lão - bởi họ mang mạng Thuỷ – màu đen. Kim Dung, tôn trọng định luật Ngũ Hành, không thể để Vô Kỵ giết Huyền Minh nhị lão được. Vô Kỵ chỉ có thể dùng Càn Khôn Đại Nã Di, khiến cho hai người giận và cãi vã nhau suốt đời. Nhưng hay nhất vẫn trong trận đánh của Vô Kỵ và 3 đại sư tại chùa Thiếu Lâm. Ba đại sư đó mang hành gì? Đây cũng là điểm ngũ hành gút mắt của CGĐL. Tiên sinh mô tả: một nhà sư mặt đen, tức mạng Thuỷ. Một nhà sư mặt khô đét màu trắng bệt, rõ ràng mạng Kim. Một nhà sư có khuôn mặt vàng khè, mạng Thổ. Trừ nhà sư mạng Thuỷ - hai nhà sư kia đối với Vô Kỵ (mạng Hoả) không khắc được Vô Kỵ. Đấu chiến rất khó phân thắng bại. Thế nhưng Kim Dung cho thêm một chi tiết lý thú: Ba nhà sư đó kinh kệ lâu năm với nhau nên khi đánh nhau suy nghĩ cùng một lượt và y hệt như nhau, tức tuy 3 mà 1. Và xử dụng cùng một thứ vũ khí. Cây roi dài, màu ĐEN! Màu đen là màu biểu tượng mạng Thuỷ. Tức 3 đại sư hợp lại với nhau ra mạng Thuỷ. Mạng Thuỷ hoàn toàn khắc được mạng Hoả của Vô Kỵ.

Khó quá, Vô Kỵ rất khó cứu được Tạ Tốn. Kim Dung lập tức nhét vào 2 chi tiết, khá lý thú nhưng rất khó ‘phát hiện’, để bảo toàn lô-gích ngũ hành, giúp Vô Kỵ thắng 3 đại sư:
- Kim Dung bày ra cái trò Thiếu Lâm tự gởi thiệp mời quần hùng đến tham dự việc xét xử Tạ Tốn được tổ chức vào ngày Tết ĐOAN NGỌ.
- Trương Vô Kỵ biết mình khó thắng, do ở trực giác: mạng Hoả sẽ bị Thuỷ khắc, nên nhờ Châu Chỉ Nhược tiếp sức.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Tiết Đoan Ngọ là gì, và tại sao lại phải tổ chức xét xử Tạ Tốn vào tiết Đoan Ngọ? Tiết Đoan Ngọ lập ra để tưởng niệm thi sĩ yêu nước Khuất Nguyên, người nước Sở (thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên), đã đứng ra can gián tệ nạn tham nhũng tại triều đình, nhưng không được, về sau trầm mình xuống sông tự vẫn.

Kim Dung cho Thiếu Lâm tổ chức buổi xử Tạ Tốn vào tiết Đoan Ngọ - thay vì tiết Trung Thu, tiết Nguyên Đán - bởi tiết Đoan Ngọ rơi vào ngày mồng 5 tháng 5, giữa muà HÈ, đúng vào lúc Dương thịnh Âm suy. Dương thịnh, mạng Hoả của Vô Kỵ mới sung mãn tột độ, mới có thể cự lại 3 đại sư kia mang hành hỗn hợp là Thuỷ - vốn khắc tinh với hành Hoả của chàng. Muốn cho chắc ăn, Kim Dung còn gởi Chu Chỉ Nhược sang trợ sức cho Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược mang biểu tượng mạng Thuỷ chính tông: phái nữ thuộc Âm, thông thạo Cửu Âm chân kinh, võ công bí kíp xuất phát từ Ỷ Thiên kiếm nhờ ở đao Đồ Long màu đen xì, màu đen của hành Thuỷ.

Mạng của Thành Khôn là một vấn đề nhức đầu không ít. Thành Ngôn thoạt đầu học chung thầy với giáo chủ Ma giáo Dương Phá Thiên. Sau lại đi tu ở chùa Thiếu Lâm lên đến cấp cao mang pháp danh Viên Chân. Thành ra Thành Khôn ban đầu mạng Hoả (Ma giáo) sau đó dần dần sang Mộc (Thiếu Lâm). Nếu phân tích về tên, Khôn, trong Thành Khôn, có chữ Thổ - Thành Khôn có thể mang mạng Thổ, màu vàng như Tạ Tốn. Tác giả xác nhận điều này: Lúc tàn trận ở Quang Minh Đỉnh người ta thấy xác chết (giả) của một nhà sư mặc áo màu Nâu - nhận ra chính là xác của Viên Chân. Thử để ý đến màu Nâu. Màu nâu thông thường là hỗn hợp của hai ba màu, trong đó thường có màu đỏ, xanh, vàng và đen. Mạng của Thành Khôn rất khó xác định bởi y là một người quậy. Gây rối rắm trong chốn giang hồ. Ai y cũng phá hết thì y khắc ai, giúp ai đây. Bởi vậy Kim Dung cho y mặc một chiếc áo màu nâu để không xác định một hành thường trực của y. Nhưng vào đoạn cuối, trong cái khung thù hận giữa y và Tạ Tốn, với đệ tử cũ mang mạng Thổ, Kim Dung bắt buộc phải trả mạng Hoả nguyên thuỷ lại cho y. Cho y dùng lửa (mạng Hoả) đem đốt chùa Thiếu Lâm hòng giết một sư phụ bị y nhốt sau chùa, để tẩu thoát. Và cho nhật thực xuất hiện lúc y đang gay gắt đấu với Tạ Tốn. Ý nghĩa ngũ hành chỗ này cũng rất hay. Nhật thực làm trời đang sáng biến ra tối. Dương biến thành Âm. Mạng Thuỷ chế ngự. Thuỷ sẽ hạ Hoả - mạng của Thành Khôn. Tạ Tốn đui mù lâu năm nên đã quen. Thành Khôn bị nhật thực trở nên như mù. Sau đó bị Tạ Tốn móc mắt cho mù luôn, để rồi khi hết nhật thực, bị Tạ Tốn bẻ tay chân thành ra người tàn phế.

Tóm lại, có thể nói mặc dù Âm Dương Ngũ Hành rất dễ tìm thấy trong tất cả các truyện Tàu, toàn thể 5 hành tố đã được Kim Dung khai thác sâu sắc trong các truyện của ông. Qua dàn dựng, bố cục thật chặt chẽ, hợp lý, cũng như qua cá tính của, và giao tác giữa, các nhân vật. Chi tiết và lô-gích của Ngũ Hành đã được viết thật hay, thật sâu sắc. Nhất là ở đoạn cuối của Ỷ Thiên Đồ Long Ký.

Một trong những điểm đặc thù của truyện Tàu, giới mộ điệu có thể để ý: các nhân vật thường được liên kết với nhau từ truyện này sang truyện kia. Thí dụ: đọc Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, ta thấy Tề Thiên đại thánh lúc náo loạn nơi thiên đình có đánh với Lý Tịnh và con trai Na Tra. Đọc truyện Phong Thần, của một tác giả khác, Hứa Trọng Lâm, người ta sẽ gặp lại Na Tra, Lý Tịnh rồi các tướng lãnh chỉ huy các lực lượng bảo vệ an ninh trên trời như: Dương Tiễn, Thiên Lý Nhãn, Thuận Phong Nhĩ, v.v. Ngay đến những tiên ông như Trần Đoàn, Quỷ Cốc tiên sinh, Đông Phương Sóc, … ta thấy họ vẫn xuất hiện trong nhiều truyện Tàu của các tác giả khác nhau. Riêng Quỷ Cốc, thầy của các nhà thuyết khách Tô Tần và Trương Nghi trong Đông Châu Liệt quốc, cũng lại là thầy dạy bùa phép cho Tôn Tẩn và Bàng Quyên tại một nước khác, trong một truyện khác.

Rồi cái màn đầu thai, để thanh toán ân oán giang hồ trong một kiếp trước, trá hình bằng luật nhân quả của nhà Phật, lại được áp dụng, mang từ truyện này sang truyện kia. Hàn Tín bị vua nhà Hán và Thái Hâu giết, về sau đầu thai thành Tào Tháo với chủ đích quậy cho nát nhà Hán và thắt cổ giết một Thái Hậu khác [12]. Hạng Võ đầu thai làm Quan Công. Trong truyện Thuyết Đường, La Thành có tướng tinh Thanh Long (mạng Mộc), Đơn Hùng Tín tướng Bạch hổ (mạng Kim). Cả hai lại đụng độ với nhau trong một kiếp khác, ở một truyện khác (Tiết Nhơn Quí chinh Đông).

Truyện chưởng Kim Dung vẫn áp dụng truyền thống và công thức này trong liên kết giữa nhân vật từ truyện này sang qua truyện nọ. Rồi ‘liên kết’ luôn cả thế võ đường kiếm. Xạ Điêu Anh Hùng truyện (XĐAHT) giới thiệu Võ Lâm Ngũ Bá và câu chuyện về Cửu Âm Chân Kinh với thế đánh cực kì hiểm ác: Cửu Âm Bạch Cốt trảo, dùng 5 ngón tay móc vào sọ đối phương. Ỷ Thiên Đồ Long ký móc nối với Xạ Điêu Anh Hùng bằng Cửu Âm Chân Kinh chôn dấu trong Ỷ Thiên Kiếm, bằng nhân vật Quách Tường con gái Quách Tĩnh, sáng lập ra phái Nga Mi, rồi Cửu Âm bạch cốt trảo được Mai Siêu Phong xử dụng ngày trước, nay lại được Chu Chỉ Nhược luyện tập thành thục làm quần hùng kinh hãi, v.v. Thần Điêu Hiệp Lữ tiếp nối theo Anh Hùng Xạ Đìêu nhưng chú tâm đến các nhân vật khác. Và Ỷ Thiên Đồ Long ký vẫn không quên Thần Điêu Hiệp Lữ khi cho con cháu của Hiệp Lữ, thiếu nữ áo vàng họ Dương, nhảy vào hoá giải đánh bại Chỉ Nhươc vào đoạn cuối của YTĐLK.

Kỹ thuật liên kết nhân vật của truyện Tàu cổ điển được Kim Dung chế biến thêm bằng lối liên kết chưởng pháp, đường kiếm chắc không nằm ngoài mục đích đánh vào tiềm thức hoài cổ nostalgia, người đọc thường có. Hoặc làm tăng tính khả tín của câu chuyện: Nghe nói dóc lập đi lập lại nhiều lần, thét rồi người nghe cũng phải tin! Hoặc tiếp tục dùng hay khai thác một công thức đã thành công.

Kỹ thuật liên kết nhân vật gần như hoàn toàn không có trong truyện văn xuôi hay tiểu thuyết Việt Nam.

Nhiều mạng chuyên về Kim Dung bằng nhiều thứ tiếng khác nhau đã được thiết lập trên internet. Muốn tìm các mạng bằng tiếng Anh để đọc truyện chưởng Kim Dung chuyển ngữ sang tiếng Anh, có thể truy cập - qua Google, Yahoo, webcrawler, v.v. - bằng hai từ chính yếu: Jin Yong (tức Kim Dung). Điểm đáng chú ý: Đa số những người Hoa đều không mấy ngạc nhiên khi họ nghe nhân vật trong truyện Kim Dung theo ngũ hành rất sát. Bởi đối với người Hoa – đó là một chuyện dĩ nhiên. Cũng y như ta nói hay bàn về ảnh hưởng Khổng Mạnh hay Lão Trang, hoặc triết học Đông phương, trong truyện Tàu này hay truyện Tàu nọ. Một chuyện đương nhiên. Người Tàu viết truyện tất nhiên phải mang rất nhiều chất Tàu, từ Âm Dương Ngũ Hành đến triết lý Tàu, ảnh hưởng Khổng Mạnh và Lão Trang, v.v. vào truyện của họ. Như người Tây phương viết truyện xảy ra ở Mỹ, ở Âu Tây - tự nhiên sẽ chứa đựng các hệ giá trị xã hội, truyền thống, tôn giáo, cùng triết học Tây phương. Nhưng có một điểm gây nhiều phấn khởi. Cũng bởi người Hoa mặc nhiên thừa nhận như vậy, họ ưa dẫm vào vết chân của những người đi trước, y hệt như tính chủ quan, rồi tự mãn của các chính phái trong truyện CGĐL. Họ thường phớt qua và không bao giờ ngồi xuống nghiên cứu những điểm cơ bản đó. Và những người Hoa đều xác nhận như vậy: Họ chưa tìm thấy một bài viết nào từ phía lục địa hay Hongkong phân tích kỹ về chi phối của định luật ngũ hành trên các nhân vật và tình tiết trong truyện chưởng Kim Dung.
____________
GHI CHÚ
[7] xem: “Thử viết về hôn” tại Vietnam Nhat Bao.
[8] Gần đây nhất: Phim ‘6 Ngày 7 Đêm – 6 Days 7 Nights’ (1998) với Harrison Ford và Anne Heche. Phim ‘Cast Away’ (2000) với Tom Hanks.
[9] Kim Dung cũng hoang đường trong vấn đề ngôn ngữ. Không biết nhân vật trong các truyện nói thứ tiếng gì mà mọi người dù xuất phát từ các tỉnh, các khu vực khác nhau của nước Tàu đều nói cùng một thứ tiếng, một phương ngữ, hiểu nhau nhanh chóng, không cần thông dịch viên. Điểm hoang đường này ngày nay vẫn thường thấy trên phim ảnh Hollywood.
[10] ở một số bản ban đầu có một lỗi nhỏ: Song hổ đả bác. Xin sửa lại: Song thủ hỗ bác. Mạng ngũ hành của Châu Bá Thông sau khi luyện được Song Thủ Hỗ Bác chính là mạng Mộc. Bởi Châu Bá Thông bị giam cầm tại đảo Đào Hoa – cây cối chung quanh xanh tươi, màu xanh mạng Mộc - gần 20 năm. Mỗi tay đánh một kiểu võ khác nhau, hỗ tương nhau. Ngoài ra, Hỗ trong Hỗ Tương có phát âm gần giống với Hổ, con cọp - chúa Sơn Lâm. Lâm chỉ cây cối, rừng rậm: mạng Mộc. Nhờ ở Châu (kinh) Dịch biến mạng dần ra mạng Mộc, Châu Bá Thông đánh trả được Hoàng Dược Sư, biệt danh Đông tà - hướng Đông, mạng Mộc. Mộc ngang ngửa với Mộc.
[11] Lê Văn Sửu (1998) Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Nxb Văn Hoá – Thông Tin.
[12] Vương Hồng Sển (1989) Thú Xem Truyện Tàu. Nxb Xuân Thu in lại.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Âm nhạc


Tiểu thuyết võ hiệp là một hình thái đặc biệt trong văn học Trung Quốc; nó có một lịch sử lâu đời, bắt nguồn từ hai truyện Du Hiệp Liệt Truyện và Thích Khách Liệt Truyện trong bộ sử ký Tư Mã Thiên, được biên soạn vào đời Hán; thuật lại những chuyện thời Xuân Thu chiến quốc như Kinh Kha Nhiếp Chính cho đến tiểu thuyết Chí Quái thời Nguỵ Tấn và các truyện truyền kỳ đời Đường gồm những tác phẩm Câu Nhiệm Khách,Côn Luân Nô,Hồng Tuyến Nữ. Về sau nhiều tác giả đã dựa vào đó mà xây dựng thành tiểu thuyết đương đại; trong số đó phải kể đến tiểu thuyết gia Trà-Lương-Kim-Dung.

Từ khi truyện kiếm hiệp Kim Dung tung ra thị trường đã lôi kéo hằng triệu đọc giả khắp nơi trên thế giới, người ta đọc say mê truyện “chưởng” không những ở Trung Quốc mà ngay cả Việt Nam. Ngoài chuyện đọc tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, người ta còn đổ xô xem phim ảnh một loại phim chuyện được dàn dựng theo mẫu mực của Kim Dung những hoạt cảnh thần kỳ, biến hoá thần thông của những võ lâm cao thủ, kỷ nghệ điện ảnh Hồng Kông khởi từ đó khuấy động thị trường phim thuật. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Quốc dựa vào thị hiếu quần chúng cũng làm những phim võ hiệp tương tự nhưng rồi cũng lùi bước trước phim chuyện võ hiệp Kim Dung.

Trong 12 bộ truyện kiếm hiệp; tác giả đã dựa trên bối cảnh lịch sử đấu tranh của người Hán chống lại sự xâm lăng của các bộ tộc. Truyện của Kim Dung đầy tính hùng ca và sử thi; ông xử lý rốt ráo những kiến thức , hiểu biết về nền văn hoá Trung Quốc mà ông đã dày công nghiên cứu và học tập, từ đó ông vận dụng sở học một cách tài tình và lý giải trọn vẹn chân lý nghĩa hiệp một phần dựa vào lịch sử cổ đại và lịch sử huyền thoại mà ông hài hoà trong cách viết dã sử, bố cục chặt chẻ làm sống lại một bề dày sử liệu Trung Quốc kể cả các thuật như quyền thuật, y thuật, bút thuật về nghệ thuật thì có hội hoạ,thi phú, âm nhạc, ẩm thực và nhất là rượu và nhạc Kim Dung viết đến độ gần như đi tới tôn giáo hoá Tửu đạo và Nhạc đạo vậy.

Tất cả tình tiết của mỗi bộ truyện tác giả đều lồng vào một triết lý tâm sinh lý và tính nhân bản, ngoài ra bộ môn âm nhạc đều có mặt trong hầu hết bộ truyện của Kim Dung và đóng một vai trò không nhỏ.

Tác giả Kim Dung đã viết ra 12 tác phẩm: Thư Kiếm Ân Cừu Lục,Bích Huyết Kiếm,Anh Hùng Xạ Điêu,Thần Điêu Đại Hiệp,Bích Sơn Phi Hổ,Phi Hổ Ngoại Truyện, Ỷ Thiên Đồ Long Đao, Liên Thành Khuyết, Thiên Long Bát Bộ,Hiệp Khách Hành,Tiếu Ngạo Giang Hồ và Lộc Đỉnh Ký. Ông đã viết những bộ truyện trên gần như một trường thiên tiểu thuyết và đến năm ông 48 tuổi (1972) ông gác bút.

Âm nhạc trong truyện là một dữ kiện giữa cuồng nộ và hoà mình giữa tàn bạo với tình yêu; ông muốn chuyển hoá từ có sang không , từ tình thương xoá bỏ hận thù đập tan mọi vọng niệm mà tự cổ chí kim lòng hoài vọng đó không bao giờ tiêu diệt được.Và cũng từ đó ông nhận thức rằng âm nhạc biện minh cho những lý lẽ đã nêu và cũng là nhạc khí (võ khí) một khí giới “tuyệt chiêu” là sức mạnh siêu lực ngăn chận mọi tham vọng và ảo tưởng của con người.

Khởi từ thời Xuân Thu chiến quốc đưa Trung Quốc tới suy tàn,thảm bại nhất vào thời kỳ Hán tộc.Kim Dung nhìn nhận rằng:” Âm nhạc như một thứ võ công, giúp người ta lắng dịu cơn đau, điều trị,mê hoặc và kiềm chế kẻ địch” Ông muốn cho người đời thấy rằng nội lực của âm nhạc là “sứ giả của hoà bình” âm nhạc xử lý mọi hoàn cảnh, mọi hình thức của nội giới và ngoại giới, trở thành ngọn sóng thần đẩy lùi mọi sát khí. Một khí giới mà Kim Dung cho là tuyệt chiêu hơn những tuyệt chiêu khác.Cho nên ông chọn âm nhạc như một hoà giải và được coi như vai trò quan trong trong suốt những bộ truyện võ hiệp của ông. Kim Dung lý luận cụ thể giữa hai bề mặt của hai thế giới nội tại và ngoại tại ; cái “bề ngoài” là sự tranh hùng của võ lâm đầy sát khí nhưng cái “bề trong” chính là tâm hồn thanh thoát vị tha của kẻ sĩ. Kim Dung tả những nhân vật kiếm khách với ý nói đến hai chữ “nghĩa khí” mà nghĩa khí là cơ bản nồng cốt của người hùng kiếm khách, đó là quan niệm đạo đức xử thế và hành xử của những người hiệp sĩ đạo. Nghĩa là bộ phận không thể thiếu vắng trong truyện Kim Dung; chính Khổng Mạnh cũng thừa nhận rằng : Nghĩa là chính nghĩa, hợp lý và thích nghi.Cho nên tinh thần trọng nghĩa được đề cao trong chuyện Kim Dung là điều tất yếu.

Trong tất cả tác phẩm của ông, Kim Dung đã dùng nhiều loại hình âm nhạc khác nhau, ông vận dụng trí tuệ của mình, đưa âm nhạc vào truyện là cả mục đích diễn tả mọi tình huống qua từng thời kỳ, từng thời đại, cốt tuỷ truyện Kim Dung lấy văn minh tứ phương du nhập vào nền văn minh Trung Quốc và mười phương khống lĩnh địa bàn.

Nhưng rồi ông vẫn nhìn nhận âm nhạc xử lý toàn diện.Tiếu Ngạo Giang Hồ là một trường hợp cụ thể.Tiếu Ngạo Giang Hồ thật ra không phải là câu chuyện hiệp khách hay hành hiệp dựng lên tiền đề; mà chính là một nhạc phẩm lừng danh về đờn và sáo (cầm tiêu) có tựa đề Tiếu Ngạo Giang Hồ. Nhạc phẩm có một nội dung, ám chỉ giữa hai hệ phái Bạch đạo và Hắc đạo giữa chính và tà. Đó là một bản hợp soạn giữa hai nghệ sĩ trong giới võ lâm quyền bá, đối địch nhau.

Lưu Chính Phong chưởng phái Hành Sơn và Khúc Dương Trưởng lão thuộc phái Triêu Dương cả hai môn phái nầy thù “bất cộng đái thiên” thù vạn đợi trong việc tranh bá.Nhưng rồi trở thành bạn tâm giao giữa Lưu-Khúc.Phát sinh từ âm nhạc mà ra. Đọc đến đây ta thấy tác giả duy trì cái nghĩa khí lớn lao, đưa tình vào thù. Lưu và Khúc hai tay có biệt tài xử dụng nhạc khí đạt tới mức vô tiền khoáng hậu rồi tự nhiên cảm hoá qua tài năng mà trở thành hiền hữu. Kim Dung xử lý ngọn bút về âm nhạc quá tài tình và điệu nghệ. Kim Dung cho hai tài năng biểu diễn để đi tới tri kỷ với âm nhạc.Lưu Chính Phong trong tay đàn, Khúc Dương tay tiêu hoà nhịp với nhau lên khúc bi hùng ca, đạt tới chỗ tột đỉnh của âm nhạc, điệu nhạc giao thoa vào nhau kết thành bè trong điệu ngủ cung; khoan thai trung chính, tiếng khoan tiếng sập vỗ vào nhau lúc bỗng lúc trầm; đi vào truyện mới thấy ngón nghề âm nhạc Kim Dung tuyệt hảo tới mức nào. Chơi xong tấu khúc Lưu-Khưu tương thông tâm ý.Khi phát hiện ra chân lý của âm nhạc , đạt tới chân như tối thượng .Lưu rủ áo giang hồ lui về ẩn dật ở tuổi lục tuần, gác kiếm vui thú điền dã,ung dung tự tại giữa chốn giang hồ khí phách, nhưng bụi trần lại kéo đến Tả Lãnh Thiền thuộc phái Trung Sơn huy động toàn lực Hoa Sơn,Hành Sơn,Thái Sơn vây hảm hành động của Lưu Chính Phong, vu oan Lưu theo tà giáo,buộc Phong phải ra tay ám hại Khúc Dương, chặt đứt mối quan hệ với Triêu Dương thần giáo phái.Không thể hành động như thế được,với con người mã thượng coi việc bán sống cầu vinh là bất nghĩa.Kim Dung sắp xếp câu chuyện giữa tà với chính giữa thù và không thù, tác giả vẫn duy trì chữ nghĩa trong truyện, ông đưa nhân vật về với lương tâm đạo đức con người, nghĩa khí của hiệp khách, trọng tài hơn danh.Tiếng đàn của Phong là tiếng đàn cảm khái mà Khưu thầm phục trang nghĩa hiệp nầy.

Lưu Chính Phong đang ở trong một tình huống khó xử, một thảm kịch đau đớn.Khúc Dương hiểu được nỗi khổ của bạn ra tay cứu nguy,giải phóng Lưu đưa vào Thất Sơn Hành ẩn trú nơi đây, trả hết cho đời, đôi tài tử không còn là hiệp hành kiếm khách và biến mình vào thi nhạc, đàn địch hợp tấu khúc để đời trước khi đi vào cõi tịch.Nhưng chưa hết;Kim Dung kéo dài giá trị âm nhạc một lần nữa,sang tay cho kẻ hậu sinh, tác giả không muốn người đọc mất đi cái truyền bí âm nhạc, ông đưa những nhân vật khác tiếp tục sứ mạng và giữ lấy như việc trao ngôi. Những khúc bi hùng ca về sau giao lại cho Lệnh Hồ Xung thừa kế phái Hoa Sơn; cầm trong tay tấu khúc của hai vị tiền bối.Lệnh Hồ Xung lên ngựa phiêu bạt giang hồ, hoá thân thành một kẻ lang thang, thân tàn ma dại giữa rừng gươm đao. Phải chăng khát vọng của Tiếu Ngạo Giang Hồ không bao giờ thực hiện được hoài bão giữa một xã hội thời bấy giờ đầy mưu lược, thù độc, chia rẽ, bè phái tranh giựt quyền lực ? Tác giả Kim Dung muốn nhấn mạnh ở điểm này; lòng ham muốn dục vọng của con người triền miên trong kiếp đoạ đày; ông muốn kéo con người về với nghĩa khí, cốt cách nghĩa hiệp dù ở bất cứ hoàn cảnh nào hôm nay hay ngày mai .

Kim Dung làm cho người đọc chạy theo ông những mạch chuyển, những tàng ẩn trong từng nhân vật truyện, những cuộc tranh hùng hay những mối tình lâm ly bi đát từ thâm cung hay chốn phường hoa ong bướm,chốn lầu xanh hay trà đình, tửu quán; ông vẫn đưa cái thế nhân sinh vào từng vai trò xử lý trên nguyên bản “nghĩa khí” đó là “nội công thâm hậu”của Kim Dung mà về sau chúng ta thấy cái thuật võ công đó qua từng nhân vật;cái gọi là nội công hay chưởng lực được tác giả vận dụng như trí tuệ, cái sức mạnh trí tuệ đã đánh ngã địch thất điên bát đảo; có phải là độc chiêu thâm hậu ?

Lệnh Hồ Xung cho rằng đó là một thể loại bí lục vô cùng thượng thặng giữa Lệnh Hồ Xung và người đẹp Doanh Doanh hai người gặp nhau trong ngõ Lục Trúc thuộc thành Lạc Dương; nơi đây Lệnh Hồ Xung gói gém niềm đau của mình với Doanh Doanh người mà hắn thầm yêu trộm nhớ, mối tình đầu tan vỡ.

Tác giả Kim Dung hoán giải cuộc tình tan hợp qua âm nhạc vẫn là chủ đề chính mà ông muốn chứng tỏ, bằng cách cho Doanh Doanh trổ tay nghề, dạy những ngón gảy tuyệt chiêu vô tiền khoán hậu cho Lệnh Hồ Xung những khúc lừng lẫy trong ca khúc Thanh Tâm Phổ Thiện Trú đó là khúc nhạc giữ gìn sanh mạng những lúc lâm nguy. Âm nhạc mà Kim Dung xử dụng trong truyện võ hiệp là một thứ âm nhạc siêu lực giải nguy,cứu chửa, giải bệnh. Đọc giả sẽ sửng sờ khi đọc đến đoạn chơi nhạc của Doanh Doanh truyền tập cho Lệnh Hồ Xung là liều thuốc hoá giải căn bệnh tâm thần,trầm cảm vựt Lệnh Hồ Xung trở lại trạng thái bình thường và hồi phục chức năng, khí thế võ lâm anh hùng. Nhưng cũng nhờ vào tấu khúc đó mà Lệnh Hồ Xung và Doanh Doanh nối lại cuộc tình tưởng như không bao giờ hàn gắn lại được giữa hai kẻ giang hồ khí phách. Đọc ở đoạn nầy ta thấy Kim Dung nâng âm nhạc lên đỉnh cao. Âm nhạc trong Tiếu Ngạo Giang Hồ đã giao thoa giữa ẩn và hiện, giữa chính với tà đầy triết lý nhân sinh; khát vọng của Tiếu Ngạo Giang Hồ xây dựng trên tình yêu và nghệ thuật âm nhạc.Tác giả Kim Dung muốn con người từ chỗ vị tha nhân ái, từ chỗ nhiệt tình và lòng tự phụ,xoa dịu tất cả mọi tình huống qua một thứ âm nhạc trường cửu.

Kim Dung đã xử dụng nhạc lý qua nhiều loại hình âm khác nhau của âm nhạc không những thể loại âm nhạc có chiều sâu, kích thích cảm xúc, lay động nội tại lòng hiếu thắng đưa âm nhạc vào đời để hoán chuyển. Kim Dung tiên sinh còn chơi một thể nhạc khác có tính cách phường chèo đó là loại nhạc lang thang ,vất vơ của môn phái Hành Sơn. Như vậy với hoàn cảnh địa lý,nhân văn tác giả đều xử dụng trọn vẹn giá trị âm nhạc.

Riêng Tiếu Ngạo Giang Hồ chúng ta còn bắt gặp những tiết nhạc mà tác giả còn cho thấy sự vi diệu của nhạc điệu siêu thoát như Tiêu Tương Dạ Khúc của Mạc Đại tiên sinh. Mạc Đại vóc dáng “điêu linh cổ quái” từ chối bả lợi danh,quyền thế để du thân vào một cuộc đời du mục,rày đây mai đó hoà mình trong câu hò tiếng hát, gác kiếm giữa chốn giang hồ và chỉ móc trên vai một cây đao cấm có dấu một thanh kiếm mỏng như lá lúa. Phải thừa nhận Kim Dung rất chi ly từng nhân vật một cách độc đáo trong truyện của ông . Kiếm để diệt hung tàn, đao cấm để giữ vững tâm hồn.Kim Dung lúc nào cũng xây dựng nghĩa khí. Nhưng tiếc thay Mạc Đại chưa thoát tục bởi khúc Tiêu Tương.Mạc Đại tiên sinh chơi nhạc buồn, sương khói, lênh đênh không nói lên được cốt cách của một đạo sĩ mà vô tình tiên sinh hoá thân một kẻ du ca. Đọc tới cái đoạn Mạc Đại ta mới thấy tác giả Kim Dung “thâm hậu” đưa độc giả đi theo với âm nhạc không ngừng nghỉ. Ông lý luận tài tình : Mạc Đại là một trích tiên nhập thế để hành thế.

Trong âm nhạc ông còn thể hiện hết sức kỳ lạ; khúc Sơn Ca Phúc Kiến của Lâm Bình Chi, lấy nhạc của Lâm đem về núi Hoa Sơn dạy cho Nhạc Linh Sơn ca bài”Chị Em Lên Núi Hái Chè” ca khúc này đã làm cho Lệnh Hồ Xung tương tư nàng đó là tương ngộ của một tay tráng sĩ đa tình. Kim Dung tiên sinh cho thấy âm nhạc ngoài tài nghệ nó còn ma lực làm xiêu lòng,quyến rủ,vổ về,mơn trớn. Nhạc Linh Sơn gảy tiếng đàn lúc trầm lúc bổng như dấu trong đó nỗi niềm thầm kín với Lâm Bình Chi.Lệnh Hồ Xung biết thâm ý đó.Chàng đau khổ vô hạn.

Âm nhạc trong truyện võ hiệp Kim Dung nghiêng về nội tâm hơn ngoại giới. Phấn chấn nhưng cũng có suy tàn, một lối chơi nhạc hết sức kỳ bí .
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký; tác giả giới thiệu một nét đặc thù khác của âm nhạc,mang tính chất siêu tưởng.Kim Dung muốn chứng tỏ nguồn nhạc Trung Quốc không những đa dạng mà nó còn chứa cả âm thanh lôi cuốn cả vạn vật vũ trụ cùng hoà nhập,chim muông nghe tiếng nhạc réo rắc mà ngỡ như tiếng hót của chim về đậu trên vai người nghệ sĩ.Từ chỗ nhân sinh vô uý của kiếm khách chính giáo còn tạo được một yếu tố khác là tình yêu,tình yêu luôn luôn hiện diện trong 12 tập truyện võ hiệp của Kim Dung, âm nhạc cũng là võ công,chinh phục tình yêu và được coi như liều thuốc giải thoát …

Ông đưa ra nhân vật Côn Luân Tam Thánh tức Hà Túc Đạo; Hà ngoài tứ tuần, gương mật thô gầy xấu xí nhưng bên trong Côn Luân chứa đựng ba thiên tài mà hiếm có trong thiên hạ : kiếm, cờ và đàn; hành trang với ba thứ độc chiêu bước vào thế giới võ lâm kiếm khách,thử có ai dám thi thố ? Tài múa kiếm như sấm chớp,cờ xuống những nước bí quỉ khốc thần sầu bên cạnh đó Côn Luân xuất chúng với “nội công” chơi đàn.Kim Dung cho chúng ta thấy từng nhân vật trong truyện là những tài tử lừng danh từ bao đời nay ông gián tiếp nói lên cái văn hoá đa dạng của Trung Quốc muôn màu muôn vẽ từ hạ đến thượng;một nền móng cố hữu và lâu đời.

Côn Luân Tam Thánh có một khúc đàn tuyệt vời mỗi lần gảy tiếng đàn tạo nên một âm thanh cao vút,chim muông tụ lại nhảy múa; ông gọi “Bách điểu triêu phụng” không biết có thật như vậy không hay huyền thoại ? Kim Dung diễn tả tiếng đàn khi bổng khi trầm,khi líu lo,khi đùa cợt trong văn chương tiểu thuyết của Kim-Dung , thường tạo ra điển cố đó là lý lẽ hay chủ động trong con người của tác giả. Kim Dung viết dưới một dạng thức ẩn dụ “metaphor” làm cho câu chuyện trở nên phiêu lưu kỳ bí,những hình ảnh thực hư, hư thực thần thông biến hoá làm say người đọc, tài ở cái chỗ người đọc sống trong”vô ảnh” mà hình tượng vẫn sống động với trí tuệ và nhận thức được tiếng vó ngựa,tiếng đàn tiếng địch ngân vang trong vô ảnh, kể cả vật lộn với tình yêu say đắm, đều hiện nguyên hình ,những hình ảnh thể hiện trung thực trong cái gọi là vô ảnh.Người đọc nghe được tiếng đàn của Hà Thúc Đạo, tiếng nhạc của người tài hoa đã làm say mê nhiều người đẹp và đem lòng yêu Tam Thánh, đôi khi nghe như lời biệt ca của một cuộc tình ai oán vậy. Đến đây Kim Dung định nghĩa giá trị của âm nhạc, ông cho rằng cái hay,cái tuyệt mỹ của âm nhạc còn nói lên tinh thần nhân bản qua bài Hoả Ca của giáo chủ Minh Giáo truyền từ Ba Tư sang Trung Quốc;bài nầy được hát trên đỉnh Quang Minh khi quần hùng Trung Quốc vây toả Minh Giáo vì cho rằng Ba Tư giáo là tà giáo.Kim Dung dựa vào bài thơ của nhà thơ Ba Tư là Omar Khayam(Ôn Ca Mạc) tựa đề Hoả Ca :

Đốt tàn thân xác của ta
Ngọn lửa thành bốc cháy đỏ rực
Sống chẳng là có chỉ hạnh phúc thôi
Thì chết đi đâu có khổ gì

Hỷ lạc sầu bi xin gởi về cát bụi
Tội tình thay người đời hoạn nạn lắm thay.

Trương Vô Kỵ nghe bài ca đó và nhận ra Minh Giáo là một tôn giáo nhân bản cho Ba Tư tà giáo là một lý lẽ xuyên tạc vô căn cứ.Từ đó Trương Vô Kỵ được Minh Giáo ngợi ca như anh hùng dân tộc Trung Quốc. Tác giả đưa nhân hoà làm căn bản cho thế gian; một triết lý nhân hậu và đạo đức.

Ở Lục Mạch Thần Kiếm, âm nhạc lại càng phong phú hơn. Nói đến âm nhạc trong truyện nầy phải ghi lại hai nhạc sĩ quái dị trong nhóm Hàm Cốc Bát Hữu (tám bạn ở Hàm Cốc) là Cẩm Tiên Khang Quảng Lăng và Lý Qúi Lỗi. Khang đánh địch bằng sáu cây đao cầm, nghe tiếng đàn của Cẩm Tiên tim óc bấn loạn. Tài đâu mà chơi một lúc sáu cây đàn ? Kim Dung giải quyết rất tài tình về những bí tích đó. Khang Quảng Lăng đặt sáu cây đàn ở mỗi vị trí khác nhau rồi vận chỉ công,khinh công mà đánh vào phím đàn.Hoá ra tiếng đàn của Lão lúc bổng lúc trầm,khi thăng khi giáng , tiếng tơ đồng réo vào nhau phát ra những khúc ngân xuất quỉ nhập thần kinh khiếp , ào ạt như gió thổi như mưa tuôn người ta nghe mà không định lường được nguồn nhạc xuất phát từ đâu cái âm thanh kỳ quái đó.Nhạc của Khang quả là thứ nhạc làm rối tâm can, kẻ địch phải “chạy làng”.

Lúc này Lý Qúi Lỗi ở đâu ? Kim Dung đặt nhân vật này vào vai trò xướng ca mà thôi và hát phụ để làm nổi bậc tiếng đàn của Khang Quảng Lăng, tuy Lỗi xuất hiện ít hơn trong truyện nhưng để lại nhiều ấn tượng cho người đọc.

Ngoài tiếng đàn, tác giả còn cho chúng ta biết qua tiếng địch(sáo). Đàn và địch là hai nhạc khí đặc thù văn hoá của Trung Quốc, thực ra tiếng sáo rút ra từ âm nhạc của Hồ Tăng,Hồ thổi sáo ống đến độ kích thích được loài rắn độc,sai khiến rắn tấn công kẻ địch. Kim Dung giới thiệu với đọc giả Hồ Tăng tức là Ba La Tinh và Triết La Tinh là người nước Tây Vực tức Ấn Độ ngày nay,xứ nầy có thủ thuật thổi kèn ống.Tác giả Kim Dung còn cho chúng ta biết thêm về âm nhạc của đám hạ lưu, đám đầu đường xó chợ, đám ăn xin; đại cái bang cũng có đờn ca, tuy không xuất chúng;như bài “Xin Cơm” cũng có âm hưởng độc đáo.

Truyện Lộc Đỉnh Ký ở đây chúng ta sẽ bắt gặp hai danh sĩ cuối đời Minh đầu Thanh đó là Ngô Mai Thôn và Trần Viên Viên.Tiên sinh mô tả Trần Viên Viên cực kỳ lộng lẫy “mắt đẹp như mắt Quan Âm “ tuy nhiên Viên Viên có một cuộc đời trầm luân “hồng nhan đa truân” tất cả những đau khổ,bi thương đó được đúc kết thành bài ca Viên Viên Khúc cho tới khi nàng xuất gia vào cửa Phật, bài ca vẫn còn được hát;trong số những người thưởng thức nhạc của Viên Viên đạt đến chân như ; tác giả muốn nói lên cái tuyệt chiêu của âm nhạc thì có Ngô Tam Quế nghe được vài chục câu, Hồ Dật Chi nghe đâu dăm ba câu chỉ có Vi Tiểu Bão nghe trọn bài. Kim Dung muốn cho ta thấy rằng âm nhạc cũng có hồn riêng, có nghĩa là nhạc đến với người có cơ may và giới hạn, nhạc không đến với người không có lòng.Thì tại sao Vi Tiểu Bão lại được nghe ? mặc dầu Vi chẳng hiểu gì về âm nhạc mà lại được thưởng thức trong lúc đó có người muốn được nghe thì lại không. Kim Dung giải thích :” Âm nhạc nó đến với người có duyên tình, có một nội công thâm hậu thì âm nhạc đến rất tự nhiên “.

Viên Viên Khúc là một bài ca buồn, đúng là bài ca mất nước chẳng khác gì Hậu Đình Hoa của Lý Hân trong thơ Đổ Mục :

Gái chơi đâu biết hờn vong quốc
Bên sông còn hát Hậu Đình Hoa.

Lộc Đỉnh Ký còn có loại nhạc tự kỷ ám thị dùng trong lúc đánh nhau. Được Kim Dung viết với giọng văn ít học hợp với”trình độ” giáo phường ngu dốt :

Hồng giáo chủ thần thông quảng đại
Giáo chúng ta đánh bại khắp nơi
Địch nhận thấy bóng chạy tơi bời
Cứng rắn cũng tan tành xác pháo.

Trong truyện võ hiệp Kim Dung; âm nhạc xuất hiện khắp nơi trên đất nước Hoa Lục.Trong Lãnh Nguyệt Bảo Đao ta nghe được tiếng hát vùng Sơn Đông,Chiết Giang của tiểu anh hùng Hồ Phỉ trong Độc Bá Hồng Quần và tiếng hát của Islam Hồi Giáo Y Tư Mỹ; nhạc rút ra từ kinh Coran (Kha Lan kinh) là một thể nhạc khát vọng hoà bình dưới dãi lụa mềm trong sa mạc hoang vu,nhạc Y Tư Mỹ chơi nghe vi vu như gió thổi lồng vào cát bụi.

Trong Lộc Đỉnh Ký ta còn nghe được bài Trầm Giang hùng tráng trích từ tác phẩm dân ca Đào Hoa Phiến, ngợi ca người yêu nước Sử Các Bộ.Nhưng không phải ai cũng dể hát khúc Trầm Giang nầy. Đêm mưa gió trên sông Liễu Giang, cả mấy chục người trong khoang thuyền mà chỉ có Trần Cận Nam Tổng đường chủ và Ngô Lục Kỳ của Thiên Địa hội mới đủ nội công cất cao tiếng hát át cả tiếng cuồng phong :

Non nước ngàn năm để tiếng truyền
Đau lòng huyết lộ khắp Tây Xuyên

Đọc Lục Mạch Thần Kiếm ta còn nghe được tiếng hát “Hái Sen ở Giang Nam” hoà với tiếng hồ cầm,thánh thót của A Bích tại Yến Tử Ổ ở Giang Nam

Giang Nam ta hãy hái sen
Lá sen dày khít mọc chen thành đồng
Cá đùa bên lá phía đông
Cá đùa bên lá sen hồng phía tây.

Những tiếng hát đẹp nhất mang nặng tính chất triết lý vẫn là tiếng hát Tiểu Siêu cô gái lai Ba Tư.Tiểu Siêu trở thành ả hầu của Trương Vô Kỵ; 16 tuổi mà đã thầm yêu Trương Vô Kỵ. Nàng biết đó là điều tuyệt vọng,nỗi đau đó khi nàng hát cho Minh chủ Trương Vô Kỵ nghe. Bài ca nầy cũng rút ra từ thơ của Ôn Ca Mạc và được tác giả Kim Dung chuyển ngữ sang Quan Thoại nói lên khát vọng giữa tử sinh :

Lai như lưu thuỷ hề thệ như phong
Bất tri hà xứ lai hề hà sơ chung.

(Chợt đến như dòng sông nước chảy,thoát tan như gió qua mau.Chẳng biết đâu mà đến,cũng chẳng biết nơi đâu mà về)

Kim Dung tiên sinh đưa âm nhạc vào tiểu thuyết võ lâm;bởi vì theo quan niệm của tác giả âm nhạc là võ công là hoá giải từ lòng thù hận đến lòng yêu thương,từ vô thuỷ vô chung đến đạo làm người giữa người và bá tánh, ông xây dựng bối cảnh lịch sử trong truyện qua âm nhạc, thần tượng hoá các nhân vật trong truyện từ lịch sử hay huyền thoại, từ cái “vô ảnh” sang hình ảnh hiện thực,tiềm tàng trong lịch sử đấu tranh của người Trung Quốc từ thời Xuân Thu chiến quốc cho đến thời kỳ cách mạng văn hoá ngày nay.

Kim Dung viết tiểu thuyết không nhất thiết là truyện “chưởng”,bên cạnh đó tác giả lồng vào những chuyện tình đầy tính lãng mạn,pha lẫn tính hài hước dí dõm để truyện trở nên phong phú,sâu sắc thần kỳ. Nhất là âm nhạc Kim Dung đã biện minh bằng một lý lẽ nhân sinh tương quan giữa người với người.

Vì vậy đọc truyện kiếm hiệp Kim Dung, ta lắng nghe chất nhạc qua từng thời kỳ,từng triều đại với địa danh lịch sử Trung Quốc.Kim Dung thần tượng hoá trong các bộ môn nghệ thuật. Chính trong cái dung nạp này;Kim Dung chứng tỏ được rằng ông rất điêu luyện về âm nhạc trong kỷ thuật viết truyện võ hiệp.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Những người tình lên ngôi thánh


Là một vương tử, nhưng tâm hồn đa cảm của Đoàn Dự gần với gió bụi. Ông đi khắp giang hồ. Đến trước tượng thạch nữ sau núi Vô Lượng của phái Tiêu Dao, Đoàn Dự ngây ngất trước một “thiên nhan” mang hai quyền năng gần như mâu thuẫn nhau: sát sinh và tái tạo.

Với những người muốn chiếm đoạt thạch nữ thì sẽ chết dưới chân “nàng”. Với Đoàn Dự, thạch nữ đã “sinh” ra cho ông một niềm ngây ngất, nhẹ nhàng như hương trà mà ông từng nếm trải. Và cũng lạ lùng từa tựa như tâm thái quá thân thương trước một người xa lạ mà ta mới gặp và không giải thích được vì sao. Ngày kia, đôi mắt chứa những cơn sóng tình không ngừng vỗ của ông dừng lại ở một người: “Ôi Vương Ngữ Yên! Nàng ở đâu? Người con gái ấy chưa bao giờ động thủ, nhưng võ công nào cũng thấu triệt… Và mỗi lần nàng mở miệng mách một thế võ cho một cao thủ thượng thừa thì, nghe cái giọng yêu kiều và xa xôi như đến từ một thế giới khác, người ta muốn nghĩ rằng nàng ở giữa cuộc đời như nàng tiên của tri thức thuần tuý (…). Tiếc thay võ học trong đời này chỉ là chuyện phụ. Người con gái ấy, cũng như Đoàn Dự, ngoài tình yêu chẳng coi gì là trọng” (Đỗ Long Vân).

Nhưng Kim Dung không cho họ “yêu nhau ngay” phút đầu, để một mình Đoàn Dự đeo đuổi nàng Vương hết nơi này đến nơi khác. Mặc dầu nắm trong tay tuyệt kỹ độc bá võ lâm là Lục mạch thần kiếm nhưng Đoàn Dự không mơ tưởng tới việc “trường trị giang hồ”. Ông đã không có tham vọng ngồi lên ngai vàng, lại chẳng hề bận tâm đến ngôi bá chủ võ lâm, nhưng người khác như Cưu Ma Trí thì không. Cưu Ma Trí học tuyệt kỹ Thiếu Lâm vẫn còn ham muốn luyện thêm Lục mạch thần kiếm. Thế là, Kim Dung đã bày ra một cuộc chơi giữa hai người. Một đằng nắm giữ tuyệt kỹ nhưng không tham vọng. Một đằng tham vọng nhưng không có tuyệt kỹ trong tay. Họ gặp nhau ở một... đáy giếng. Nơi ấy, nàng Vương của Đoàn Dự cũng có mặt: “Thì ra Đoàn Dự đang hôn mê, mà Bắc Minh Thần Công không phân biệt được bạn thù, nó hút hết nội lực Cưu Ma Trí rồi hút luôn cả nội lực của Vương Ngữ Yên nữa. Một lát sau, cả Vương Ngữ Yên lẫn Cưu Ma Trí đều ngất đi”, đến giờ ngọ khi ba người dần tỉnh lại thì thế giới quanh họ đã thay đổi. “Thoạt kỳ thuỷ” là nàng Vương (lần đầu) ôm lấy Đoàn Dự, khóc, vì ngỡ ông đã chết, khác nào cơn mưa âu yếm dịu ngọt đột nhiên trút xuống người Đoàn Dự. Bởi lúc ấy ông không chết, mà “vui sướng đến phát điên”. Khi nàng hiểu ra là “chàng cố ý không nhúc nhích để được mình ôm lấy, bất giác hổ thẹn vô cùng, thốt lên: Cái anh này! Đoàn Dự cũng thẹn đỏ mặt lên, vội vàng xoay người nhích ra một bên, ngồi tựa vào thành giếng (...). Hai người ra khỏi giếng, nhìn thấy ánh dương quang chiếu vào mặt đối phương trông rất lem luốc, tự hiểu là mặt mình cũng vậy thì không khỏi bật cười. Cả hai tìm đến một khe suối nhỏ, để cả quần áo lội xuống tắm rửa đồng thời giũ bớt bùn sình. Vương Ngữ Yên đã mất nội lực, cũng may mà đang tiết Trung thu, trời chưa lạnh lắm, nên nàng dầm mình xuống nước suối mà vẫn chịu đựng được. Hai người từ dưới suối bước lên, ướt như chuột lột (...). Vương Ngữ Yên nói: “Chúng ta ướt sũng thế này mà để cho người ngoài trông thấy thì thẹn chết đi được”. Đoàn Dự nói: “Chi bằng ở đây phơi nắng cho khô, đến tối hãy về”. Vương Ngữ Yên gật đầu đồng ý rồi ngồi lên một tảng đá. Đoàn Dự ngắm nghía nàng, thấy người đẹp như ngọc, tóc xanh như mây, thì trong lòng vui sướng khôn tả. Vương Ngữ Yên thấy tình lang đứng nhìn qua nhìn lại thì mặt thẹn đỏ bừng. Hai người mải mê nói không hết chuyện, thời gian qua nhanh như chớp, chốc lát đã thấy mặt trời khuất sau núi” (Thiên long bát bộ, Đông Hải dịch, sđd).

Hẳn bạn đọc thấy bức tranh của đôi người yêu nhau trong thế giới võ hiệp Kim Dung vừa lãng mạn, vừa nhẹ nhàng, không khí êm đềm tương tự trong Tiếu ngạo giang hồ, như đoạn trích dẫn bản dịch của Hàn Giang Nhạn tiên sinh về cuộc gặp gỡ giữa Lệnh Hồ Xung và Doanh Doanh: “Hai người sóng vai ngồi trong xe nhìn ra hồ nước. Lệnh Hồ Xung đặt tay phải lên lưng bàn tay trái Doanh Doanh. Bàn tay Doanh Doanh khẽ run lên một cái nhưng không rụt về. Lệnh Hồ Xung nhủ thầm trong bụng: “Ước gì vĩnh viễn ta được ở trong hoàn cảnh này khỏi phải trở lại dấn thân vào làng gió tanh mưa máu trong võ lâm. Dù ta có được làm thần tiên cũng không sướng bằng”. Doanh Doanh thấy chàng vẻ mặt trầm ngâm liền hỏi: “Xung lang đang nghĩ gì vậy?”. Lệnh Hồ Xung liền đem những điều tâm nguyện ấy nói cho nàng nghe. Doanh Doanh xoay bàn tay trái lại nắm lấy tay mặt Lệnh Hồ Xung nói: “Xung lang! Tiện thiếp rất lấy làm sung sướng”. Lệnh Hồ Xung đáp: “Tiểu huynh cũng vậy”. Ngọt ngào là thế. Bây giờ, chúng ta quay về với Đoàn Dự - người đã chứng kiến một kẻ si tình tuyệt vọng lao từ sau lưng mình xuống hố sâu, là Du Thản Chi. Du Thản Chi yêu A Tử một cách cuồng điên, mê dại. Đến nỗi ông ta sẵn sàng biến thành một trò mua vui, một con rối thừa thãi, chịu bị hành hạ, hắt hủi, mắng nhiếc chỉ để được thấy, được gần gũi A Tử. Như thế vẫn chưa đủ, Du Thản Chi còn dâng hiến cho A Tử ngay cả đôi mắt mình để trở nên mù loà, quờ quạng giữa ban ngày. Trong bóng tối, trong niềm cô tịch dày đặc, ông vẫn cảm thấy hạnh phúc khi được nghe dầu không phải giọng cười mà một lời quở trách. Như từ một thế giới khác đến, Du Thản Chi đi tìm khắp trần gian này âm thanh, giọng nói của người mình yêu. Cuối cùng, ông đến gần A Tử trong tình cảnh bi thảm, lúc A Tử cúi mình ôm thi thể Kiều Phong là người A Tử đang yêu và lớn tiếng xua đuổi ông: “Ngươi hãy đi thật xa đi! Ta không muốn nhìn thấy ngươi nữa”. Du Thản Chi đau lòng, nhưng vẫn chưa tuyệt vọng bằng lúc A Tử đột nhiên đưa tay lên móc cặp mắt ra và ném về phía Du Thản Chi: “Trả lại ngươi! Trả lại ngươi! Từ nay ta không còn thiếu nợ ngươi nữa”. Đoạn này khiến liên tưởng đến đôi mắt của một vị thánh đi khất thực gặp một người khác cũng đi khất thực. Ông hỏi người kia: ngươi cần được bố thí những gì? Người kia đáp cần vật thực, quần áo, nhưng cần nhất là một con mắt của ông. Vị thánh bảo: “Được, ta sẽ cho ngươi ngay bây giờ”. Xong ông ta đưa tay lên móc con mắt bên phải đưa cho người kia, máu chảy ròng ròng xuống đôi má lõm sâu vì khổ hạnh. Người kia nhận được mắt, thay vì cám ơn, đã vứt xuống đất, dùng chân đạp lên trên, dí đi dí lại cho nó nát ra, rồi trách: “Thật là vô ích, ông phải cho tôi con mắt bên trái của ông kia”. Vị thánh không hề giận một tí nào, vẫn điềm tĩnh bảo: “Tội nghiệp nhà ngươi quá, ngươi không nói trước, ta chẳng tiếc gì con mắt còn lại, nhưng ta còn để nó trên mặt ta để đi tìm những người cần được bố thí niềm thương khác nữa”. Người kia nổi cơn tức giận một cách vô lý, làm cho máu nóng trong người hắn bốc lên thành một ngọn lửa vô hình đốt cháy tuỷ sống và làm mù đôi mắt của y tức khắc. Một niềm ân hận bất ngờ tràn ngập lòng y. Ngay giây phút đó, vị thánh giảng cho y về sự vô thường của cả những thứ không nắm được bằng tay như ánh sáng. Y thức tỉnh theo vị thánh tu học, và mở được thánh nhãn, không có đôi mắt cũ nhưng vẫn có thể nhìn xuyên qua đại ngàn biển cả, thấy được hết lòng người sâu cạn, thấp cao. Du Thản Chi và A Tử thì không như vậy. Cả hai choáng váng vì tình yêu, mù loà vì không còn đôi mắt và lần lượt lao xuống đáy hang sâu vạn trượng. Kim Dung kết thúc chuyện tình này bi thảm như thế.

Cùng một tác phẩm, hai cuộc tình, hai hoàn cảnh, hai diễn biến, hai kết cục khác nhau cho Đoàn Dự và Du Thản Chi. Cả hai được Vương Hải Hồng và Trương Hiểu Yến đưa vào danh sách Mười hai tình thánh trong giang hồ của cuốn Giải mã tiểu thuyết Kim Dung (Cao Tự Thanh dịch, NXB Trẻ và Công ty Phương Nam ấn hành). Mười nhân vật còn lại trong “tình thánh” gồm: Địch Vân, Vạn Khuê (trong Liên thành quyết), Kiều Phong, Đoàn Chính Thuần (Thiên long bát bộ), Quách Tĩnh (Xạ điêu anh hùng truyện), Vi Tiểu Bảo (Lộc đỉnh ký), Dương Qua (Thần điêu hiệp lữ), Lệnh Hồ Xung, Lâm Bình Chi (Tiếu ngạo giang hồ), Ân Lợi Hanh (Ỷ thiên Đồ long ký). Ở một cuốn khác, nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh viết: “Nhiều nhân vật người tình của Kim Dung chính là những người hùng trong lĩnh vực tình cảm, và vì tình yêu vốn vẫn tự do hơn tài năng và đạo đức nên trong nhiều trường hợp họ còn mạnh mẽ hơn cả những người hùng. Hành xử theo lý lẽ của trái tim, nhiều khi họ phải vượt khỏi chính mình để chống lại sự ràng buộc của thứ đạo nghĩa tầm thường với các tín điều công cộng”. Phải chăng khi “vượt khỏi chính mình” là lúc con người bắt đầu phát hiện những mảnh đất mới lạ, vốn mênh mông không bờ bến nơi mình, trong đó có tình yêu. Nếu không “vượt khỏi chính mình”, con người có thể sẽ tự rơi vào hố thẳm như Du Thản Chi, hoặc sẽ ở lại nhìn trần gian với đôi mắt mù muôn thuở. Chợt nhớ đến vị thánh đã bố thí con mắt của mình cho sự sáng người khác. Cái “tình” của vị ấy đã lên ngôi như một mặt trời tại thế.
15.00
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [65] [66] [67] [68] [69] [70] [71] ... ›Trang sau »Trang cuối