Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [85] [86] [87] [88] [89] [90] [91] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

Khổng Minh nhìn xem ai thì là Trình Đức Khu ở Nhữ Nam liền nói:
- Nho cũng có Nho quân tử, cũng có Nho tiểu nhân. Nho Quân tử thì trung vua yêu nước, giữ chính, ghét tà, chuyên làm những điều lợi ích chung, tiếng để đời sau. Còn như loại Nho tiểu nhân thì chỉ cặm cụi văn chương miệt mài nghiên bút; còn trẻ thì làm phú, đầu bạc thì đọc kinh, dưới bút dầu có nghìn lời, trong bụng không được một mẹo. Xem như Dương Hàng, văn chương có tiếng một đời mà khuất mình đi theo Vương Mãng rồi cũng đến đâm đầu xuống lầu mà chết. Thế gọi là Nho tiểu nhân, dẫu ngày làm nghìn câu thơ cũng có ích gì đâu.
Trình Đức Khu cũng ứ cổ nốt.
Chúng thấy Khổng Minh ứng đối như nước chẩy, cũng sợ mất vía. Lúc đó còn có hai người là Trương Ôn, Lạc Thống sắp vào muốn hỏi. Bỗng bên ngoài có một người chạy vào quát to lên rằng:
- Khổng Minh là bậc anh tài đời nay, các người lấy môi mép vặn người ta, đó không phải là kính khách. Đại quân của Tào Tháo đã đến bờ cõi, tìm kế chống giặc chẳng tìm, cứ ngồi đấu khẩu như thế ích gì?

Các tướng nhìn xem ai, thì là Hoàng Cái biểu tự Công Phúc.
Sau khi Gia Cát đè bẹp phe chủ hàng, Tôn Quyền lòng đã muốn đánh nhưng vẫn chưa quyết. Quyền cho người mời Chu Du lại thương nghị. Chu Du quyết định nghênh chiến. Du đề ra 3 điểm chiến mà Đông Ngô có khả năng thắng lợi.
1- Tào Tháo cần phải thực hiện một cuộc chiến tranh tốc quyết vì Mã Siêu, Hàn Toại vẫn là mối lo sau lưng của Tào Tháo.
2- Nhân dân Kinh Châu chưa hoàn toàn qui phục họ Tào.
3- Giữa mùa đông lương thảo khan hiếm, khí hậu cũng không hợp với quân Bắc phương.
Quyền thấy Chu Du cương quyết như thế mới cầm kiếm chém xuống đất ra lệnh cấm bàn chuyện đầu hàng.

Binh lực đương thời của hai bên rất so le. Bắc quân riêng lực lượng Tào Tháo đã có ngót hai mươi vạn, cộng thêm bẩy tám vạn quân Kinh Châu.
Bên Đông Ngô, quân Lưu Bị có một vạn, quân Lưu Kỳ một vạn, quân Chu Du, Trình Phổ chừng hai vạn, Lỗ Túc thâu thập được thêm một vạn. Như vậy là một chọi sáu!
Trận đánh lớn nhất xẩy ra ở huyện Gia Ngư, khu vực Xích Bích. Kết quả Tào Tháo đại bại phải rút lui và lưu Tào Nhân chống giữ ở Giang Lăng. Chu Du thừa thắng đánh tràn. Tào Nhân phải bỏ Giang Lăng mà chay. Cả một giải lưu vực trường giang mất hẳn tung tích Bắc quân. Hình thế Nam Bắc phân lập bắt đầu từ đó.
Trận Xích Bích phá vỡ tan tành kế hoạch thống nhất toàn quốc của Tào Tháo, ổn định địa vị Tôn Quyền ở Giang Nam, đồng thời cũng tạo cho Lưu Bị cơ hội lấy bàn đạp Kinh Châu tiến vào Ích Châu, từ chỗ vẫn đi nương nhờ người khác, đến chỗ có một thế lực riêng biệt lớn mạnh. Trận Xích Bích thực là then chốt cho sự hình thành của cái thế chia ba chân vạc.

Chu Du
Độc giả Tam quốc thường nhìn Chu Du là một nhân vật tuổi trẻ tài cao, nhưng tính khí bồng bột, hẹp hòi ghen ghét.
Lối nhìn đó là bởi ảnh hưởng của Tam Quốc Chí diễn nghĩa qua câu chuyện đấu khí giữa Chu Du và Gia Cát Lượng. Du thua, tức đến nỗi thổ máu mà chết, lúc sắp chết Du có than rằng: “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?”.
Thật ra Chu Du là con người rất có tu dưỡng, nhiều mưu trí và tính tình khiêm cung hoà nhã.
Tôn Quyền đặt ngôi vị Chu Du ở trên lão tướng Trình Phổ, Phổ không bằng lòng, thế mà Chu Du đã đem độ lượng và tài cán của mình khuất phục được Trình Phổ. Phê bình về Chu Du, Trình Phổ đã phải nói: Giao du với Chu Công Cẩn như uống rượu ngọt, say lúc nào không biết.
Nhưng chỉ có hai người thời đó đánh giá nổi Chu Công Cẩn là Tào Tháo và Khổng Minh. Cho nên ở trận Xích Bích cả Gia Cát Lượng và Tào Tháo đều ra sức tranh thủ Chu Du. Gia Cát thì vận dụng Lỗ Túc, Tào Tháo thì vận dụng Tưởng Cán.
Chu Du chết sớm, ảnh hưởng tai hại cho cục diện ba nước không nhỏ. Thiết tưởng Tôn Quyền có tiếc Chu Du mà nói: “Ta mất Chu Du thì nghiệp đế của ta cũng hỏng” thì cũng không lấy gì làm quá đáng.

Lỗ Túc
Lỗ Túc đáng kể như một nhân vật khả ái nhất Tam quốc.
Tử Kính tuy không có những biệt tài nổi bật như Cố Ung, Tưởng Uyển, Tuân Úc, nhưng ông cũng rất thông hiểu chính trị, ngoại giao, quân sự và rất cẩn trọng mỗi khi áp dụng định kiến của mình. Thêm nữa Lỗ Túc là người có phong độ, trung, dũng, trí, kiệm, có tu dưỡng nhân nghĩa lễ tín.
Căn cứ vào tình thế đương thời mà bàn thì chủ trương Ngô Thục liên minh của Lỗ Túc thật chính xác. Thâm ý trong đường lối liên minh với Thục của Lỗ Túc là: “Gây cho Tháo nhiều kẻ địch, để xây dựng thêm vây cánh cho Đông Ngô”. Bởi vì so sánh với lực lượng Nguỵ và lực lượng Đông Ngô thì Nguỵ thừa sức nuốt sống Đông Ngô, nếu không có những lực lượng khác khiên chế Nguỵ.
Thế chia ba chân vạc do Lỗ Túc đóng góp một phần cực to tát. Ông dám khuyên Tôn Quyền cho Lưu Bị mượn Kinh Châu để làm tư bản chính trị. Giả thử Tôn Quyền không nghe Lỗ Túc, đương nhiên không có nước Thục. Giả thử Lưu Bị không kiến tạo nổi Thục thì liệu Đông Ngô có đứng vững nổi với Nguỵ chăng?
Tôn Quyền phê bình Lỗ Túc nói:

- “Khuyên ta cho Huyền Đức mượn Kinh Châu là chỗ kém nhất của Tử Kính”. Nói như vậy, Quyền chỉ nghĩ đến cừu địch là Thục mà không kể chi đến Nguỵ, chỉ nghĩ đến bực bội trước mắt mà không tưởng đến hiểm hoạ xa.
Trí lực ngắn ngủi của Tôn Quyền cũng như mấy võ tướng Quan Vũ và Lã Mông đã gây thành đường lối ngoại giao đổ máu, trái ngược với lòng mong mỏi của Tử Kính, không ngừng dàn xếp để các cuộc quyết đấu giữa Ngô – Thục không xẩy ra.
Tại Đông Ngô, duy Chu Công Cẩn mới nhận nổi giá trị của Lỗ Túc, cho nên lúc Du sắp mất, Tôn Quyền hỏi Du, ai khả dĩ thay thế. Chu Du nói: “Lỗ Túc là người trung liệt, lâm sự không cẩu thả”. Đề nghị cho Lỗ Túc thay mình, chứng tỏ Chu Du cũng là người rất nhiệt thành với đường lối ngoại giao liên kết với Thục lắm. Riêng lời ấy đủ lột hết sắc thái con người Lỗ Tử Kính.
Cố Ung Bất cứ đường lối chính trị nào, hình thế chính trị nào đều liên hệ với một quyền lực thống trị thì mới mong lâu dài, bền vững.
Thời Tam quốc, Nguỵ, Ngô, Thục do đường lối chính trị khác nhau, hình thể chính trị khác nhau, nên quyền lực thống trị cũng sai biệt.
Nước Nguỵ quyền lực thống trị để bình định một tình trạng đã hỗn loạn đến cực độ nên phải áp dụng đạo hình danh của pháp gia, phải có những biện pháp mạnh, thủ đoạn nhiều trí thuật hơn từ ái nhân nghĩa.
Nước Thục vì dân tình hiểm ác, nên quyền lực thống trị tuy chủ trương nhân nghĩa nhưng cũng không thể không dùng đến đường lối mãnh liệt của pháp gia. Ở đây quyền lực thống trị mang tính chất “pháp đa nho thiểu”, “pháp nho kiêm dụng”. Nước Ngô nhờ địa lý phì nhiêu, dân tình khoan hậu, nhờ tâm lý nhất trí để chống đối với dị tộc của dân chúng, nên quyền lực thống trị ở đây chỉ cần một chính sách thi hành nhân ái, khoan hình giảm chính, tóm lại Đông Ngô thuần dụng đạo trị của nho gia để ổn định xã hội. Xã hội Đông Ngô bấy giờ so với các khu vực khác đáng gọi là thiên đường.

Công lệnh áp dụng trị đạo của nho gia ở Đông Ngô của ai?
Của Tôn Quyền?
Không đúng.
Của thừa tướng Cố Ung đó.
Lịch sử tuy không chú ý mấy đến ông, thậm chí còn xếp Cố Ung đừng hàng dưới Trương Chiêu một bậc. Chuyển sang diễn nghĩa thì những người như ông không có chuyện lạ gì để nhà văn miêu tả hấp dẫn thì lại càng bị lu mờ hơn.
Thực ra đối với Đông Ngô, Cố Ung là người có công lao lớn nhất. Sở dĩ ông gần như bị quên lãng là vì chức vị của ông là chức vị thủ tướng hành chính, trong khi đương thời Tam quốc chỉ trọng những tranh phong chính trị, quân sự.
Tôn Quyền tuy không có đại bản lĩnh, nhưng ở địa vị lãnh tụ. Sở trường của Quyền ở chỗ: Biết dụng người, biết tin và biết phân phối. Quyền rất nể Cố Ung, nhận thấy ở Ung một tài năng xuất chúng về nội chính nên giao phó trách nhiệm này cho Ung tới 19 năm trường.

Hoàng Vũ tứ niên, Cố Ung từ giã mẹ già đi nhận lãnh chức vụ, Quyền ra tận ngoài tiếp đón, rồi lại gọi Thái tử tới lậy chào, trong khi Trương Chiêu tuổi lớn, tiếng xa mà Chiêu không được Quyền dùng ở ngôi vị này. Tại sao?
Tại Quyền nhận thấy Chiêu khí lượng hẹp hòi hay câu nệ câu chấp, một lần Quyền và Chiêu xích mích. Trương Chiêu cáo ốm không đến chầu. Tôn Quyền hối hận đến tạ lỗi, Chiêu cũng không ra, đến nỗi Quyền phải sai người đốt nhà Chiêu mới chịu ra. Do đó nhiều lần, mọi người khuyên Quyền đặt Chiêu vào ngôi vị Thừa tướng Quyền đều lờ đi. Khi thừa tướng Tôn Thiệu chết, mọi người lại đề cập đến Trương Chiêu thì Quyền từ chối khéo: “Bây giờ đương lúc gay go, chức cao thì trách nhiệm thêm nặng, lão thần đã già không nên phiền nhiễu ông ta làm gì”.

Cố Ung đủ sở trường của Trương Chiêu, nhưng Ung hơn Chiêu ở điểm không có những sở đoản như Chiêu. Ung cương trực mà ý khí không loạn, nói thẳng, ưa điều hợp lý, mà vẫn giữ được thái độ khiêm nhượng, hoà nhã, luận đoán, kiến giải nhất nhất đều chính xác, đối xử với người rất chân thành.
Ở chức Thừa tướng, tất phải có phong độ đại thần, công bình, dung hợp, tầng trên điều chỉnh trăm quan, tầng dưới yêu mến bảo vệ trăm họ.
Những điều Trần Bình nói về trách nhiệm tể tướng, đại thần:
- “Trên thì phò thiên tử, điều hoà âm dương, thuận tứ thời, dưới thì nuôi vạn vật cho no đủ, sử dụng cho đúng mức, ngoài thì chấn áp tứ di, trong thì vỗ về trăm họ”. Cố Ung đều có cả.
Cố Ung bao giờ cũng dùng nhân chính. Lần Tôn Quyền đi khảo sát dân tình, Cố Ung đã thảo cho Quyền một tờ lệnh như sau:
- “Nạn binh đao đã lâu ngày, khiến cho dân gian bê trễ việc ruộng nương cày cấy, chồng con bố mẹ không đủ nuôi thương nhau, ta rất lấy làm buồn. Nay giặc đã tạm yên, bên ngoài không có gì lo ngại, vậy truyền cho dân chúng ai về nhà nấy mà nghỉ ngơi, tiếp tục canh nông, phụng dưỡng tôn tộc”.
Năm Xích Ô thứ ba, Cố Ung lại thay Tôn Quyền thảo chiếu lệnh:
- “Vua không có dân không lập, Dân không thóc gạo không sống. Gần đây dân bị phiền nhiễu vì binh dịch nên thóc không sinh sản nhiều. Thêm nạn quan tham lại nhũng chiếm đoạt của dân, khiến dân càng cùng khổ. Nay ra lệnh: bất cứ kẻ nào làm việc phi pháp đều gia tội nặng”.
Nhờ Cố Ung, Tôn Quyền chẳng còn phải lo gì đến hậu phương nữa.
Luận về Tôn Ngô

Cục thế Tam quốc, Tôn Ngô chiếm toàn bộ Giang đông. Địa bàn Giang đông hẹp hơn Nguỵ, tốt hơn Thục. Nhân tài Giang đông không thiếu. Thế mà thanh thế Giang đông không lúc nào vượt nổi khu vực mình, suốt bao nhiêu năm chỉ đứng địa vị cố thủ là cớ sao?
Trước hết, Giang đông ngoài đường lối chính trị thu hẹp trong khu vực, không có hiệu triệu chính trị đại thể. Khác với Thục, mỗi lần xuất sư phạt Nguỵ đều dùng danh nghĩa “Hán tặc bất lưỡng lập, vương nghiệp bất thiên an”.
Một lần Tôn Sách tính chuyện xuất binh phát triển thế lực quá giang lên miền Bắc, chẳng may việc chưa thu xếp xong Sách đã bị bộ hạ của Hứa Cống giết chết.
Lỡ cơ hội, từ đó về sau, chính trị Đông ngô rơi hẳn vào thế thủ. Thêm nữa thế thủ Đông Ngô phần lớn cũng tại người lãnh đạo, nó đã rõ ràng ngay lúc Tôn Sách giao phó quyền bính cho Tôn Quyền, Sách nói:

- “Vận dụng dân chúng Giang đông để quyết cơ chốn trận địa thì Quyền không bằng ta. Nhưng cử người hiền, dùng người tài khiến ai cũng tận tâm tận sức bảo vệ Giang đông thì ta không bằng Quyền”
Xét về nhà họ Tôn, riêng Tôn Sách rộng tầm mắt hơn cả. Tôn Quyền kém Tôn Sách rất xa, bản chất chính trị của con người Tôn Quyền là: “khuất thân nhẫn nhục, nhiệm tài đương kế”. Quyền chỉ biết thu vén tính toán hẹp hòi, không có cái phóng dật thiên tài của Khổng Minh và cái say sưa tàn bạo già dặn của Tào Mạnh Đức.
Đối ngoại, Tôn Quyền biết khuất thân nhẫn nhục nhưng đối với chính sự nội bộ, tâm tính Tôn Quyền lại khác hẳn, nó chỉ mang khí chất một thanh niên con nhà nuông, với tác phong bồng bột, khinh thị, kiêu căng thừa tự của Tôn Kiên, Tôn Sách. Cho nên Tôn Quyền chỉ vì nóng nẩy hờn dỗi mà bốn phen lập tự, tạo thành những rối ren phiền nhiễu không đâu.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Nguyên nhân thứ ba hãm Đông Ngô vào thế thủ là: Đông Ngô luôn luôn phải đối phó với các dân tộc biên cảnh, chiến tranh thường xuyên với các dân tộc này đã làm trở ngại cho sức phát triển của Đông Ngô ghê gớm vì biết bao nhiêu vật lực đã tiêu hao đi. Chỉ một khu vực Đan Dương thôi, Đông Ngô từng chống chọi hàng mấy trăm lần với dân tộc Sơn Việt. Sử chép rằng: dân tộc Sơn Việt rất hay việc võ, thiện chiến, sùng thượng khí lực, ở vùng hiểm trở, họ đi trong rừng như cá dưới nước, lúc đánh họ đến đông như kiến, lúc rút thì trận địa vắng teo, thật khó lòng mà chế ngự”. Xem nhận xét của Ngô Sử đủ biết dân tộc Sơn Việt là mối đại hoạ cho Đông Ngô. Trong Lục Tốn truyện còn cho biết: “Dân tộc Sơn Việt mỗi lần gây can qua đều mang tác dụng chính trị do âm mưu của Tào Tháo”.

Muốn bảo vệ ta thì phải tấn công địch. Đó là một quy luật chiến tranh. Tôn Quyền giỏi thế thủ, nhưng không giỏi thế công, thường thường thế thủ tuyệt đối cũng là khó khăn tuyệt đối. Trận Xích Bích chứng minh sự khó khăn tuyệt đối đó.
Tào Tháo xâm nhập Kinh Châu, Lưu Tông sợ hãi đem thuyền bè, bộ binh dâng cho Tháo. Binh Tào thừa thế uy hiếp Giang Đông, quân số ước chừng hơn ba mươi vạn. Dưới áp lực to lớn ấy, Giang Đông chỉ có hai con đường phải chọn, “đánh hay hàng”. Hàng lúc này không thể là hoà mà là tiêu diệt. Đánh thì sức lực Giang Đông so với Nguỵ quân quá kém sút. Trong triều đình phái chủ hoà chiếm đại đa số. Thế thủ Tôn Quyền chủ trương bị đe doạ lung lay đến tận cội rễ.
Nhưng kết quả của chiến tranh Ngô Nguỵ lại hết sức đột ngột. Tào quân thua lớn. Tại sao? Tam quốc chí và Tam quốc chí diễn nghĩa nêu ra mấy nguyên cớ chính:
Ngô Thục liên kết chặt chẽ.
Tào Tháo thất bại trên mặt trận gián điệp (các việc Hoàng Cái chịu khổ nhục kế, Phượng Sồ, Tưởng Cán).

Binh sĩ Trung nguyên không giỏi thuỷ chiến.
Tào Tháo chưa khắc phục trọn vẹn tâm lý của mười vạn hàng quân của Lưu Biểu.
Tào Tháo còn bị hạn chế bởi lực lượng Hàn Toại, Mã Đằng phía Bắc.
Thua ở Xích Bích, nước Nguỵ tìm ra một đại thắng về sau là: nhận được rõ tính cách lợi hại của liên kết Ngô Thục. Tháo liền quay về sửa sang xây dựng địa bàn rộng lớn của mình, đợi Ngô Thục mâu thuẫn sẽ ra tay.
Thắng ở Xích Bích, Tôn Ngô đi đến thất bại tương lai vì lòng kiêu hãnh nóng nẩy của những người lãnh đạo say sưa với thắng lợi nhất thời. Tôn Ngô phạm vào lỗi lầm tai hại trên chính lược đúng như Tào Tháo dự đoán là phá bỏ chính sách liên minh Ngô Thục. Mặc dầu Lã Mông đã giết được Quan Vũ, chiếm cứ toàn cõi Giang Lăng, nhưng cũng bởi thế mà Đông Ngô bị lôi cuốn vào một cuộc chiến tranh tai hại. Mặc dầu Lục Tốn đập tan vỡ lực lượng Lưu Bị, nhưng Đông Ngô vẫn còn bị hãm vào một cuộc chiến tranh du kích tiêu hao khiến Đông Ngô vướng vít. Trong khi ấy, kẻ đại địch của Giang Đông là Tào Tháo thừa thế phát triển.

Tôn Quyền bồn chồn vì thế lực Quan Vũ, uất ức vì vài lời khinh bạc và hấp tấp với mấy mối lợi do Tào Tháo nhử; nhãn quan chính trị của Tôn Quyền quả thật là quá ngắn. Tôn Quyền chỉ đụng độ với Tào Tháo một lần tại Xích Bích, trận này Tôn Quyền đại thắng. Thế mà đời sau vẫn bảo Tôn không bằng Tào. Ấy là vì cái khả năng chiến lược, khả năng nhìn thế lớn của Tôn không đáng học trò Tào vậy.
Mưu sĩ Tuân Úc
Nhân tài thời đại Tam quốc rất nhiều. Đem so sánh số nhân tài qui tụ tại ba nước Nguỵ Ngô Thục thì số trí thức dưới trướng Tào Tháo cao nhất, thứ nhì Ngô, thứ ba Thục.
Trong đám mưu sĩ nước Nguỵ, có Tuân Úc được Tào Tháo thưởng thức hơn cả.
Tào Tháo vốn đã là người túc trí, đa mưu, kẻ làm mưu sĩ cho Tào Tháo không phải dễ dàng gì.

Tuân Úc xuất thân từ gia đình môn phiệt. Tổ phụ Tuân Úc là Tuân Châu nổi tiếng học rộng, thày dạy các danh sĩ Lý Ưng, Vương Xướng. Tuân Châu có tám người con được đời xưng tụng làm “tám con rồng nhà họ Tuân”. Chú của Úc là Tuân Sảng làm quan đến chức Tam Công. Tuân Úc ngay từ lúc còn trẻ đã nhận thức những cái thối nát của bọn danh sĩ Thái học sinh, tự mình từ bỏ con đường từ chương hoa mỹ để đi tìm thực học.
Tuân Úc có 5 sở trường:
- Thứ nhất: giàu mưu trí, kế hoạch của ông có một tính chất đặc biệt là ẩn trọng tính xa. Lúc Đổng Trác nắm quyền, Tuân Úc đang làm một chức huyện quan, từ dịch trở về quê quán. Úc nhận thấy sắp loạn to đến nơi mới hội họp các bô lão trong làng nói rằng: “đất Dĩnh Xuyên chúng ta chẳng chóng thì chầy cũng thành chiến địa vì nó ở chính giữa chỗ binh xung, vậy phải tính chuyện rời đi không thể chậm trễ nữa. Các bô lão dùng dằng chưa quyết, Tuân Úc gặp dịp Hàn Phức mời ra giúp việc liền thu xếp cho gia tộc thân thích bỏ đất Dĩnh Xuyên ngay. Quả nhiên không bao lâu, quân Đổng Trác tới cướp bóc vùng Quang Đông, đất Dĩnh Xuyên bị tàn hại hơn cả.

- Tào Tháo khởi binh đánh Đào Khiêm, giao phó Tuân Úc cai quản hậu phương, quân còn lại rất ít. Trương Mạo, Trần Cung, Lã Bố thừa cơ tấn công, tình thế mười phần nguy cấp. Tuân Úc cùng Hạ Hầu Đôn bình tĩnh ứng phó. Giữa lúc nguy nan này, có quan Thứ sử Dự châu là Quách Cống đem mấy vạn quân đến dưới thành đòi tiếp kiến Tuân Úc. Ai cũng cho rằng Quách Cống đồng mưu với Lã Bố nên muốn giữ không để Úc ra nói chuyện. Úc nghĩ, từ chối Cống tức là đẩy Cống hùa theo Lã Bố, bất nhược nếu không thu dụng được Cống thì ít nhất cũng làm cho lực lượng Cống trung lập. Nghĩ vậy rồi Tuân Úc thản nhiên ra hội đàm với Quách Cống. Cống thấy Úc không hề có sắc mặt hoảng hốt lo âu nên bụng bảo dạ, chắc Úc đã bố trí chu đáo rồi nên kéo quân đi thẳng. Cái kế thành bỏ ngỏ chứng tỏ thủ đoạn quyền biến của Úc rất cao vậy.
Ở với Tào Tháo, Tuân Úc đã giúp cho họ Tào những kế sách lớn như:
a- Khi Tháo đánh nhau với Viên Thiệu, quân Viên Thiệu cực thịnh, quân Tào Tháo thì ít, lương lại thiếu. Hai bên cầm cự dằng dai, Tháo muốn rút quân bèn biên thư hỏi ý kiến Úc, Úc trả lời:

- Hiện tại lương tuy thiếu, nhưng kẻ thoái trước tất là gẫy nát hết, xưa kia Lưu Bang cầm cự Hạng Võ ở Hàm Dương, cả hai bên đều nhất quyết không chịu thoái quân trước. Bây giờ ta chống giữ Viên Thiệu, chẹn họng Thiệu tính ra đã quá nửa năm, tình hình sắp chín sắp biến, chính là lúc ta nên dùng kỳ binh đó.
b- Tào Tháo muốn chiếm Từ Châu của Đào Khiêm trước, trừ Lã Bố sau, Tuân Úc chủ trương ngược lại, Úc nói: “lấy lớn đổi nhỏ, lấy an đổi nguy, chỉ biết cái kế nhất thời mà quên rằng căn cứ mình còn chưa vững là không phải”. Tháo chịu.
Tào Tháo chiếm Nghiệp thành, lĩnh chức Ký Châu Mục, nhiều người khuyên nên trở lại chính chế cũ, phân định cửu châu. Tháo bằng lòng, đem ý kiến ấy hỏi Tuân Úc, Tuân Úc bàn rằng:

- “Ký Châu đất rộng người đông, ta mới chiếm đoạt, hết thẩy đều lo sợ, nếu dân chúng sinh biến mà ta chống giữ tất nhiên phải đàn áp. Đàn áp là ta mất chính nghĩa. Đã mất chính nghĩa rồi thì càng khó giữ. Chẳng bằng ngài hãy đem binh đánh dấn lên Hà Bắc, tiến xuống Kinh Châu để làm sáng tỏ chính sách to tát quang minh của ta cho thiên hạ rõ đại thể, mà biết tự an, đấy mới là kế lâu dài vậy”.
Tào Tháo tỉnh ngộ bãi bỏ việc tái lập cựu chế tại Ký Châu. Việc Tô Châu, Duyện Châu, Tuân Úc chủ trương củng cố trước, phát triển sau. Việc Ký Châu Tuân Úc lại chủ trương phát triển trước, củng cố sau. Trông bề ngoài thì trước và sau có vẻ phân cách riêng biệt, sự thật Tuân Úc chỉ là: trong phát triển đi tìm cái củng cố, trong củng cố mở đường tái phát triển. Chỗ khó là vấn đề thích đáng “sự thích thời giả kỳ công đại!” (làm việc đúng thời mới nên đúng). Đáng tiếc Tam Quốc chí diễn nghĩa không cho người đời sau đủ tư liệu cần thiết để phân tích, chứng minh rõ ràng khúc triết hai đường kế sách của mưu sĩ họ Tuân.

Thứ hai: Tuân Úc sáng suốt và rộng lượng đề cử người tài giỏi. Thông thường các mưu thần sách sĩ vẫn có lối trông người thiên hạ bằng nửa con mắt. Tuân Úc trái lại, lúc nào ông cũng tha thiết quý trọng nhân tài, tìm cách tiến cử. Tuân Du, Vương Lãng, Quách Gia, Tư Mã Ý, Hoa Hâm, Trần Quân (Quần?) hết thảy đều do một tay Tuân Úc đề bạt.
Thứ ba: Nhân phẩm thuần hậu, làm việc thẳng thắn. Sách “Điển lược” nói Tuân Úc là người khiêm nhượng, không đài các, không để cho tư dục loạn tâm ý. Úc có một tên tuỳ tùng tận tuỵ hầu hạ. Lúc ông nắm quyền lớn, có người nói: “bây giờ ông ở ngôi cao, tại sao không nhân tiện xin phong chức cho hắn? Tuân Úc cười nói: Quan chức dùng để tỏ tài hành sự của người ta, hắn tuy tận tuỵ với tôi nhưng không phải vì thế mà tôi dùng bậy”.

Sau khi địa vị Tào Tháo củng cố, các bạn của Tuân Úc sốt sắng, nhất là Đổng Chiêu đều chạy đua vận động tước vị. Chiêu đem ý kiến bàn với Tuân Úc. Họ Tuân trả lời: Thái Tổ vì đại nghĩa hưng binh để lập kỷ cương triều đình, ổn định nhà nước, riêng tôi, tôi muốn giữ lòng thành thực trung trinh mà yêu mến Người qua đức độ, chẳng ham như thế”.
Thứ bốn: Mỹ đức giản dị tiết kiệm. Thường thường Tuân Úc vẫn đem bổng lộc của mình phân phát cấp đỡ cho tôn tộc, họ hàng, bạn bè thân mật cũ, cho nên nhà không có của thừa. Tào Tháo đem con gái mình gả cho (con?) Tuân Úc và cấp ruộng nương tiền bạc vô kể, nhưng cha con Tuân Úc đều khiêm nhượng từ chối.
Thứ năm: dáng dấp đường bệ, dung mạo chín chắn, Tuân Úc có một nghi biểu ít thấy. Chẳng thế mà khi Nễ Hành chửi Úc cũng phải công nhận rằng: “Tuân Văn Nhược chỉ đáng đi viếng đám tang”. (Tuân Văn Nhược khả tá diện điếu tang).
Về cái chết của Tuân Văn Nhược
Tuân Úc thọ đúng 50 tuổi. Cái chết của ông, dư luận chia làm hai thuyết. Tam Quốc chí viết: “Tuân Úc không tán thành việc Tào Tháo tấn phong Quốc công, Tào Tháo e dè để bụng, Tuân Úc buồn phiền lâm bệnh nặng”. Sách Nguỵ thị Xuân thu viết: “Tào Tháo sai người biếu Tuân Úc một mâm gỏi, Úc mở ra, ở trong không có gì, biết Tào Tháo muốn mình tự xử bèn uống thuốc độc chết”. Tâm sự người xưa ra sao? Thuyết nào cũng đúng, ngày nay ta chẳng có tài liệu xác thực nào để mà chứng minh cả.
Tuân Úc, Nễ Hành, Trần Cung
Phần tử trí thức bình dân thời đại Xuân Thu đặt chủ trương cho mọi hoạt động chính trị phải:

- Lấy Trung, Thứ làm lập trường.
- Lấy Nhân, Nghĩa làm nguyên tắc.
Cả ba Tuân Úc, Nễ Hành, Trần Cung đều chịu ảnh hưởng tư tưởng mà phần tử trí thức Xuân Thu đã nêu lên.
Khi thể hiện trên hành động, ba người lại khác hẳn nhau. Tuy vậy kết quả cùng quy vào một mục tiêu là đề cao Trung Thứ Nhân Nghĩa.

Mặc dầu cả ba cùng cống hiến cho mục tiêu giống nhau, nhưng nếu đem so sánh, phán đoán thì việc làm và thái độ Tuân Úc tỏ ra đáng kính trọng, đáng khâm phục hơn cả, cho nên công lao cống hiến của Tuân Úc cho thời đại cũng lớn nhất. Vì Tuân Văn Nhược là người sáng suốt, biết thoả hiệp lý tưởng chính trị với hiện thực, tuy phải ứng phó với hiện thực mà vẫn không hề quên công tác chỉnh đốn thể hệ nhân văn.
Trần Cung thì ý thức đấu tranh quá ngắn hơi. Còn Nễ Hành chỉ là một loại trí thức không tưởng, điên cuồng. Một tâm trạng yếu ớt và nông nổi. Tâm trạng nổi loạn bằng những cơn giận cơn điên, nhắm mắt lao đầu vào chướng ngại để hòng phá nó. Tâm trạng chống đối vô ích, chỉ bàn chỉ nói, chỉ chửi mà không làm gì cho đúng mức cả.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

9
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
- 8 -
CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ ÍCH CHÂU VÀ KINH CHÂU




Trận Xích Bích buộc Tào Tháo Tháo phải từ bỏ luôn cả Giang Lăng. Lúc này Ích Châu còn trong tay Lưu Chương. Quân Bắc rút hết, hình thế phân lập Nam Bắc tuy đã rõ rệt, nhưng nếu gọi ngay là chia ba chân vạc thì quá sớm, bởi địa bàn của Lưu Bị hãy còn nhỏ hẹp, chưa đáng kể như một thế lực khả dĩ đương đầu với Nam Bắc. Vì vậy đi trước sự phân lập ba nước là những cuộc đấu tranh chính trị gay go của tập đoàn Lưu Bị tại Giang Đông và Trung Nguyên tại các khu vực Ích Châu và Kinh Châu.

Trọng tâm của đấu tranh chính trị ở Kinh châu và Ích châu là ngoại giao. Sách Tam Quốc chí của Trần Thọ, thiên “Lã Mông truyện” viết lời phê bình của Tôn Quyền về Lỗ Túc: “Khuyên Ngô tá Huyền Đức địa, thị kỳ nhất đoản” (khuyên ta cho Huyền Đức mượn đất, là một điểm kém của Lỗ Túc). Mượn đất ý chỉ vào tờ ký kết giữa Lưu Bị, Gia Cát Lượng và Lỗ Túc mượn Kinh châu. Hiệp ước và danh từ mượn chẳng qua chỉ là một thuật ngữ ngoại giao của Khổng Minh để giữ gìn êm đẹp mối liên hệ Đông Ngô và Lưu Bị mà thôi, chứ sự thực không phải như thế vì Kinh Châu đâu có phải là đất đai Đông Ngô.
Kinh Châu đời Hậu Hán, từ bờ vực phía Đông chạy suốt đến quận Giang Hạ mới hết. Thái thú Giang hạ vẫn là Lưu Kỳ con Lưu Biểu, Tôn Quyền nào đã có thế lực gì, mặc dầu Quyền đánh bại Hoàng Tổ rồi, nhưng chính quyền của họ Tôn vẫn chưa đặt được ở đây. Căn cứ vào tập quán thời đại thì ai có thế lực chiếm được đất, đất ấy sẽ thuộc mình, cha truyền con nối dùng sức mạnh mà bảo vệ. Chiến trận Xích Bích kết liễu, Lưu Kỳ vẫn còn thế lực để phòng giữ Kinh châu, chính quyền họ Lưu vẫn tiếp tục. Cho nên Lưu Bị mới biểu tấu xin phong cho Lưu Kỳ làm Thứ sử Kinh châu.

Lúc này Lưu Bị được đặt trước một cơ hội độc nhất để kiến lập địa bàn dựng nghiệp lớn. Phía Giang đông, Chu Du cũng nóng lòng với vấn đề phát triển thế lực Giang đông, chiếm toàn vùng Hán Giang. Tranh chấp giữa hai lực lượng Lưu Bị và Đông Ngô không thể tránh khỏi. Điểm xung yếu của cuộc tranh chấp là Nam Quận, cổ họng khống chế toàn bộ lãnh thổ Kinh châu. Nam Quận sau khi Tào Tháo thua trận Xích Bích đã lưu Tào Nhân ở đây trấn giữ. Muốn đoạt Kinh châu, điều kiện căn bản là phải quét nốt thế lực

Tào Tháo tại Nam quận.
Lưu Bị chỉ có ít lực lượng.
Chu Du thì lực lượng hùng hậu vượt xa Lưu Bị.
Cả hai đều cùng muốn đánh chiếm Nam quận để tăng cường thế lực của mình. Kết cục Lưu Bị thắng, Giang đông hao quân mà xôi hỏng bỏng không. Sự thắng lợi của Lưu Bị nhờ kế hoạch dùng đòn bẩy tài tình do Khổng Minh bố trí. Tam Quốc chí diễn nghĩa kể như sau:
- Chu Du thu quân kiểm tướng, xét thưởng công lao rồi báo tin cho Ngô hầu biết. Bao nhiêu quân hàng Du đem cả sang sông, mở tiệc rất to khao thưởng ba quân rồi tiến đánh Nam quận. Tiền đội đến bờ sông, trước sau đóng năm trại, Chu Du ở trại giữa.
Du đang cùng tướng sĩ bàn kế đánh, thì có tin báo Huyền Đức sai Tôn Càn đến mừng. Du cho mời vào. Càn chào hỏi xong nói rằng:
- Chúa công sai tôi đến bái tạ đức lớn của Đô đốc, có chút lễ mọn dâng lên.
Du hỏi:
- Huyền Đức nay ở đâu?
Càn thưa:
- Hiện đã đóng quân ở cửa sông Du giang.
Du giật mình hỏi:
- Khổng Minh có ở đó không?
Càn thưa:
- Chúa công tôi và Khổng Minh cùng ở đó cả.
Du nói:
- Ông hãy về trước, tôi cũng thân đến tạ lễ.
Du nhận lễ vật và cho người tiễn Tôn Càn về.
Lỗ Túc hỏi:
- Vừa rồi đô đốc làm sao mà giật mình như thế?
Du nói:
- Lưu Bị đóng quân ở Du giang, tất có ý lấy Nam quận. Chúng ta tổn thất bao nhiêu tiền lương, quân mã, nay Nam quận chỉ trở bàn tay là lấy được. Thế mà bọn Lưu Bị mang lòng bất nhân, chực ăn cỗ sẵn. Chết thì thôi chứ ta còn đây, sao chịu cái nước thế.
Túc hỏi:
- Dùng kế gì để lui được quân bên kia đi?
Du nói:
- Ta đến chơi nói chuyện phải chăng cho họ nghe, họ biết điều thì thôi, bằng không thì ta phải sửa trước Lưu Bị đi mới được.
Túc nói:
- Tôi xin đi theo.
Thế rồi Chu Du cùng với Lỗ Túc dẫn ba nghìn quân khinh kỵ sang cửa Du giang.
Trước hết nói về Tôn Càn về ra mắt Huyền Đức, thuật chuyện Chu Du muốn lại tạ ơn. Huyền Đức hỏi Khổng Minh:
- Chu Du muốn đến đây là ý thế nào.
Khổng Minh cười nói:
- Có phải vì một chút lễ nhỏ mà đến tạ ơn đâu, chỉ vì Nam quận đấy thôi.
Huyền Đức nói:
- Họ đem quân mã đến thì làm thế nào?
Khổng Minh đáp:
- Họ đến thì Chúa công cứ nói như thế …….. như thế.
Bàn định rồi, sai dàn thuyền ra cửa Du giang, trên bờ sông cũng bố trí quân mã nghiêm chỉnh. Một lát sau có tin báo Chu Du, Lỗ Túc dẫn quân đến. Khổng Minh sai Triệu Vân dẫn vài tên lính kỵ ra tiếp. Du trông thấy quân oai hùng tráng lắm, trong bụng áy náy không yên. Đến cửa dinh, Huyền Đức, Khổng Minh cùng ra đón vào trong trướng, chào hỏi xong xuôi, mở tiệc khoản đãi.
Huyền Đức nâng chén cảm ơn Chu Du đã giúp mình đem quân đánh lui Tào Tháo. Rượu được vài tuần Chu Du hỏi rằng:
- Dự Châu dời quân đến đây có ý muốn lấy Nam quận chăng?
Huyền Đức đáp:
- Nghe tin đô đốc muốn lấy Nam quận nên tôi dẫn quân đến giúp. Nếu đô đốc không lấy thì tôi lấy vậy.
Du cười nói:
- Đông Ngô tôi muốn chiếm cả Hán Giang đã lâu. Nay Nam quận đã ở trong tay rồi, lẽ đâu lại không lấy.
Huyền Đức nói:
- Được thua cũng chưa biết đâu mà nói trước được. Khi Tào Tháo về, giao các xứ Nam quận cho Tào Nhân giữ, thế nào chẳng có kế lạ để lại. Lại thêm Tào Nhân sức khoẻ vô địch, e rằng đô đốc không lấy nổi.
Du nói:
- Nếu tôi không chiếm được Nam quận, bấy giờ tuỳ ý Ngài muốn lấy thế nào thì lấy.
Huyền Đức nói:
- Có Tử Kính, Khổng Minh ở đây làm chứng, sau này xin đô đốc đừng có hối.
Lỗ Túc ngần ngừ chưa lên tiếng. Du nói:
Đại trượng phu đã hứa ra một lời, can chi mà phải hối.
Khổng Minh nói:
Đô Đốc nói phải lắm. Ta hãy nhường đô đốc lấy trước, nếu không xong Chúa Công sẽ lấy, có ngại gì đâu.
Du và Túc từ biệt Huyền Đức và Khổng Minh ra về.
Huyền Đức hỏi Khổng Minh:
Vừa rồi tiên sinh bảo tôi nói như thế, nhưng nghĩ cho kỹ thì thấy chưa hợp lý lắm. Tôi nay cô đơn, không nơi nương tựa, muốn được một xứ Nam Quận này để làm chốn dung thân. Nếu để Chu Du lấy trước thì thành trì đã thuộc về tay Đông Ngô rồi, ta ở vào đâu cho được?
Khổng Minh cả cười đáp:
Trước kia tôi khuyên mãi Chúa công lấy Kinh Châu, Chúa công chẳng nghe. Nay Chúa công lại còn tưởng đến Kinh Châu à?
Huyền Đức nói:
Trước là đất của Lưu Biểu, nên không nỡ cướp lấy. Nay về tay Tào Tháo rồi, lấy là hợp lý lắm chớ.
Khổng Minh nói:
Chúa công đừng ngại, cứ mặc cho Chu Du quần nhau với Tào Nhân. Nay mai sẽ rước Chúa công vào ngồi chĩnh chệ ở trong thành Nam Quận.
Huyền Đức hỏi:
Kế ấy thế nào?
Khổng Minh đáp:
Chỉ cần như thế …….. như thế.
Huyền Đức mừng lắm, cứ đóng quân ở cửa Du Giang, không động tĩnh gì nữa.
Lại nói Chu Du, Lỗ Túc về đến trại. Túc hỏi:
Làm sao đô đốc hứa cho Lưu Bị lấy Nam Quận?
Du nói:
Tôi gẩy móng tay cũng lấy nổi Nam Quận, ta nói thế chẳng qua để lấy lòng họ đấy thôi.
Và hỏi luôn các tướng:
Ai dám đi lấy Nam Quận trước?
Một người xin đi bước ra. Đó là Tưởng Khâm.
Du nói:
Người làm tiên phong, Từ Thịnh, Đinh Phụng làm phó tướng, dẫn năm nghìn quân mã tinh nhuệ sang sông trước. Ta dẫn quân theo sau tiếp ứng.
Quả như Khổng Minh đã đoán định trước, trận đầu Tưởng Khâm thua. Trận thứ hai Chu Du bị tên độc của quân mai phục trong thành Di Lăng. Trận thứ ba quân Đông Ngô toàn thắng vì Tào Nhân trúng kế Chu Du dụ Nhân vào cướp trại. Nhưng trong khi đó thì Khổng Minh đã đem quân phỗng tay trên những thành trì mà bọn Tào Nhân bỏ trống.
Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể như sau:
Tào Nhân ở trong thành, bàn với các tướng rằng: Chu Du cơn tức uất lên, nhọt tên bật vỡ đến nỗi mồm thổ ra huyết, ngã lăn xuống dưới ngựa chẳng mấy bữa tất chết.
Mọi người đang bàn bạc thì có vài chục tên lính kỵ bên Ngô sang hàng, trong đó có hai tên nguyên là lính cũ bị Đông Ngô bắt được. Tào Nhân vội gọi vào hỏi. Chúng bẩm rằng:
Chu Du hôm nay vỡ cái nhọt tên, về đến trại thì chết. Hiện các tướng đã cử ai để trở. Chúng tôi bị Trình Phổ uy hiếp quá cho nên đến hàng và báo tin ấy.
Tào Nhân mừng lắm, dự định đến đêm đi cướp trại và chém lấy đầu Chu Du đưa về Hứa Đô.
Trần Kiều nói:
Kế ấy phải làm ngay không nên trì hoãn.
Tào Nhân sai ngay Ngưu Kim làm tiên phong, tự mình cầm quân trung quân, Tào Hồng, Tào Thuần làm hợp hậu. Bao nhiêu quân kéo đi cả, chỉ có Trần Kiều và một ít quân ở lại giữ thành.
Đầu canh một, quân Tào trong thành kéo thẳng đến trại Chu Du nhưng không thấy một người nào, chỉ có cờ giáo cắm dàn ra đó thôi. Tào Nhân biết là mắc mẹo, vội vàng rút lui. Bỗng đâu bốn mặt pháo nổ ầm ầm. Rồi mé Đông Hàn Dương, Tưởng Khâm kéo vào. Mé Tây: Chu Thái, Phan Chương đổ lại. Mé Nam: Từ Thịnh, Đinh Phụng đánh sang. Mé Bắc: Trần Võ, Lã Mông ập tới. Quân Tào thua liểng xiểng, ba lộ quân tan vỡ, đầu đuôi không cứu được nhau. Tào Nhân dẫn vài mươi tên quân kỵ chọc thủng vòng vây, gặp ngay Tào Hồng liền cùng nhau dắt một toán quân mã linh tinh mà chạy. Mãi đến canh năm, gần tới Nam quận, bỗng lại có một hồi chiêng trống nổi lên rồi Lăng Thống dẫn quân ra chặn đường đánh giết một hồi. Tào Nhân lẻn chạy theo đường tắt, lại gặp Cam Ninh bồi luôn cho trận nữa. Tào Nhân không dám về Nam Quận nữa, trốn thẳng một mạch về Tương Dương.
Chu Du, Trình Phổ thu cả quân mã, kéo nhau đến Nam Quận. Vừa đến nơi đã thấy trên mặt thành tinh kỳ đỏ rực cả, một tướng trên địch lâu gọi to lên rằng:
Xin lỗi Đô Đốc, tôi phụng mệnh quân sư lấy được thành này đã lâu rồi. Tôi là Triệu Tử Long ở Thường Sơn đây.
Chu Du giận lắm, liền sai đánh thành. Trên thành tên bắn xuống rào rào. Du truyền rút quân về để thương nghị và sai Cam Ninh dẫn quân đến lấy Kinh Châu, Lăng Thống dẫn quân đến lấy Tương Dương rồi sẽ tính đến Nam Quận cũng vừa. Du đang cắt đặt mọi việc thì có thám mã lại báo rằng: Gia Cát Lượng lấy được Nam Quận liền dùng binh phù của Tào Nhân cấp tốc điều quân giữ thành Kinh Châu đến cứu rồi sai Trương Phi úp lấy Kinh Châu.
Lại có thám mã về báo rằng:
Hạ Hầu Đôn giữ ở Tương Dương, Gia Cát Lượng cho người đem binh phù đến nói dối rằng Tào Nhân cầu cứu, dụ cho Hạ Hầu Đôn ra khỏi thành rồi sai Vân Trường úp lấy Tương Dương. Thành trì hai nơi ấy đều rơi vào tay Huyền Đức mà Huyền Đức không hề tốn một công sức nào.
Chu Du hỏi:
Gia Cát Lượng làm thế nào lấy được binh phù?
Trình Phổ nói:
Hắn tóm được Trần Kiều thì binh phù lọt vào tay hắn chứ gì.
Chu Du nghe nói, hét lên một tiếng, nhọt đau vỡ tung ra. Ngay lúc còn ở Long Trung chưa ra giúp Lưu Bị, chủ trương chính trị của Gia Cát Lượng vẫn có một điểm chủ yếu là: “Liên hợp với Đông Ngô, lấy địa bàn Kinh Châu làm vốn chính trị”. Cho nên sau khi dùng mẹo phỗng tay trên Kinh Châu, Khổng Minh lập tức trở về chính sách Liên Ngô, mặt khác tích cực chuẩn bị phát triển thế lực sang Ích Châu.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Trở về chính sách Liên Ngô như thế nào?
Trước hết chính sách Liên Ngô mà thành tựu phần lớn cũng nhờ quan niệm rộng rãi của Lỗ Túc. Chu Du thấy Khổng Minh lấy được Nam Quận, Kinh Châu, Tương Dương, nổi giận muốn mang quân đánh ngay, hỏi ý kiến Túc.
Túc nói:
Không nên. Hiện nay ta còn phải kình nhau với Tào Tháo chưa biết được thua thế nào. Vả lại Chúa công cũng chưa hạ được Hợp Phì. Ta với Huyền Đức không nên thôn tính lẫn nhau, quân Tào thừa cơ kéo tới thì nguy lắm. Huống chi Huyền Đức lại quen thân với Tào Tháo. Nếu ta làm quá, hắn tất dâng thành trì cho Tào Tháo, hợp sức lại đánh Đông Ngô thì làm thế nào.

Nhờ ở lời nói ấy mà chiến tranh Lưu-Tôn không bùng nổ. Theo Lỗ Túc, ông muốn lấy lại Kinh Châu bằng thủ đoạn ngoại giao, phía Khổng Minh, ông cũng muốn giữ Kinh Châu với đường lối ôn hoà. Do đó Khổng Minh mới hứa với Lỗ Tử Kính mượn Kinh Châu, bao giờ Lưu Kỳ chết thì sẽ hoàn về Đông Ngô. Để tranh thủ thời gian, khi Lưu Kỳ chết, Lỗ Túc sang đòi, Khổng Minh thấy lực lượng của mình đã đủ khả năng đứng (đương?) đầu rồi, bèn chuyển sang luận điệu “sẵng”, nhưng cũng không để hai bên rơi vào tình trạng cừu địch chiến tranh. Khổng Minh thuyết phục Lỗ Túc ký hiệp ước cho mượn Kinh Châu đến khi Lưu Bị có địa bàn mới là Ích Châu. Giai đoạn thứ ba của đường lối ngoại giao bảo vệ Kinh Châu là Lưu Bị mạo hiểm sang làm rể bên Đông Ngô, vận dụng tình cảm để phá kế hoạch của Chu Du, Tôn Quyền.

Nói về địa bàn Kinh Châu của Lưu Bị thì từ Tương Dương trở lên phía Bắc vẫn còn ở trong tay Tào Tháo; dọc theo bờ sông thì còn nhiều địa điểm hiểm yếu vẫn do Đông Ngô kiểm soát. Kinh Châu trống trải, bốn mặt bị địch dòm dỏ, muốn sống Lưu Bị cần phải có Ích Châu. Ích Châu bấy giờ đặt dưới quyền thống trị của Lưu Chương, Chương bất tài nhưng nhờ địa thế Ích Châu hiểm hóc nên Lưu Bị khó lòng thực hiện dã tâm thôn tính.
Nhưng kết cuộc Ích Châu vẫn bị mất về tay Lưu Bị.

Tại sao?
Vì Khổng Minh đã thôn tính Ích Châu bằng chính trị mà không bằng quân sự. Muốn rõ đầu đuôi, ta phải đi ngược dòng và trở về hiệp ước ký kết giữa Lưu Bị-Lỗ Túc giải quyết vấn đề Kinh Châu lúc công tử Lưu Kỳ mất. Nội dung bản ký kết đó, biểu hiện trong cuộc đàm phán Lưu Bị-Lỗ Túc-Khổng Minh. Tam Quốc chí diễn nghĩa kể như sau:
Túc nói:
Khi xưa Hoàng Thúc bị khốn ở Kinh Dương, chính Túc này dẫn tiên sinh đến ra mắt chúa công tôi. Về sau Chu Công Cẩn định cất quân lấy Kinh Châu, tôi lại ngăn được. Đến việc Hoàng Thúc hứa đợi khi nào công tử Lưu Kỳ qua đời sẽ trả Kinh Châu, tôi lại gánh vác cho nốt. Nay Hoàng Thúc không giữ lời hứa, bảo tôi về ăn nói làm sao bây giờ. Chủ tôi và Công Cẩn tất nhiên bắt tội tôi, tôi có chết cũng không oán hận, chỉ sợ Đông Ngô bực tức, dấy động can qua thì Hoàng Thúc cũng chẳng ngồi yên được ở Kinh Châu, thành ra chỉ bày trò cười cho thiên hạ đó thôi.

Khổng Minh nói:
Tào Tháo cầm quân trăm vạn, hơi một tý cũng mượn tiếng thiên tử tôi cũng chẳng coi ra gì, huống hồ là Chu Công Cẩn. Để ông khỏi mất thể diện, tôi xin khuyên chúa công tôi lập văn tự mượn Kinh Châu làm vốn, đợi khi nào lấy được chỗ khác sẽ đem Kinh Châu trả lại Đông Ngô, ý ông thế nào?
Túc hỏi:
Tiên sinh đợi lấy được chỗ nào rồi mới trả Kinh Châu cho Đông Ngô tôi?
Khổng Minh đáp:
Trung Nguyên chưa dễ đã lấy được, chỉ có Lưu Chương ở Tây Xuyên hèn yếu lắm, chủ tôi sẽ tính. Nếu lấy được Tây Xuyên thì sẽ trả Kinh Châu cho Đông Ngô.
Túc không biết làm sao hơn được đành phải nghe vậy, ký kết và nhận lấy văn tự. Khi Lỗ Túc từ biệt ra về, Huyền Đức, Khổng Minh tiễn ra thuyền, Khổng Minh dặn rằng: Tử Kính về nói với Ngô Hầu cho khéo, đừng có nghĩ càn. Nếu không nhận văn tự đó, chúng ta trở mặt thì cả tám mươi mốt châu Giang Nam cũng bị mất nốt đó. Nay chỉ cốt hai nhà hoà thuận với nhau, chớ nên để cho giặc Tào chê cười.
Trải qua một thời gian, Tào Tháo đã ổn định xong nội bộ, lại muốn thực hành chính sách thôn tính thống nhất, ngặt vì Lưu Bị và Tôn Ngô vẫn dựa lưng nhau. Thế của Tháo là phải phá hoại sự liên kết Lưu-Tôn, bèn xin phong cho Tôn Quyền chính thức làm Châu mục Kinh Châu, dùng danh nghĩa pháp lý mà chuyển mâu thuẫn Lưu-Tôn thành chiến tranh. Đúng như Tháo dự tính, Tôn Quyền thụ phong và sai Lỗ Túc lại sang hạch hỏi Kinh Châu. Khổng Minh thấy cơ sự khó khăn, không sẵng nữa mà đáp lại Lỗ Túc bằng thái độ cực ôn hoà nhu thuận, xui Huyền Đức làm ra vẻ sầu não, còn tự mình nói chuyện quanh co:
Tử Kính có hiểu cớ sao mà chúa công tôi khóc thế không?
Túc nói:
Tôi thật không biết.
Khổng Minh nói:
Có gì mà không biết. Trước kia chúa công tôi mượn Kinh Châu có hẹn rằng bao giờ lấy được Tây Xuyên thì trả. Nhưng suy đi nghĩ lại, Lưu Chương ở Ích Châu là em chúa công tôi, đôi bên cùng là máu mủ nhà Hán cả. Nếu cất quân sang cướp lấy thành trì, e thiên hạ chê cười. Ích Châu đã không cướp lấy được mà lại phải trả Kinh Châu thì còn chỗ nào mà ở? Mà không trả thì e mất thân tình, việc thực khó nghĩ, bởi thế mới đau lòng mà khóc.
Khổng Minh nói động đến niềm tâm sự của Huyền Đức, Huyền Đức càng ôm bụng dậm chân khóc ầm lên. Lỗ Túc khuyên rằng:
Hoàng Thúc chớ nên phiền não, hãy bàn với Khổng Minh thế nào cho phải thì thôi.
Khổng Minh nói:
Nhờ Tử Kính về ra mắt Ngô Hầu, xin chớ tiếc lời, hãy tha thiết bày tỏ cái tình cảnh này mà cho khoan hạn ít lâu nữa.

Thấy đòi không xong, Chu Du lập kế động binh với danh nghĩa đi đánh Tây Xuyên hộ cho Lưu Bị, dự tính lấy xong Ích Châu thì cho Tôn Du điều khiển. Việc này Tam Quốc Chí diễn nghĩa với chính sử khác nhau. Theo Tam Quốc Chí thì Gia Cát Lượng giả tảng bằng lòng. Nhưng lúc Chu Du kéo quân sang thì Khổng Minh sai Triệu Vân chặn đường và Quan Vân Trường, Trương Phi, Nguỵ Diên bao vây buộc Chu Du phải lui quân. Chu Du lui rồi, Gia Cát Lượng mới viết thư cho Chu Du như sau:
Quân sư Trung Lang Tướng nhà Hán là Gia Cát Lượng đưa thư này đô đốc nước Ngô là Công Cẩn được biết:
Tôi từ khi biệt nhau với Ngài ở Sài Trang đến giờ, vẫn còn lưu luyến chưa quên, nay nghe thấy Ngài muốn cất quân sang lấy Tây Xuyên, tôi thiết nghĩ không nên. Ích Châu dân thì mạnh, đất thì hiểm. Lưu Chương tuy rằng hèn đốn nhưng giữ cũng nổi. Nay muốn thành công mà bắt quân khó nhọc đi đánh xa, vận tải hàng muôn dặm, tôi chắc dẫu đến Ngô Khởi, Tôn Vũ ngày xưa cũng không sao làm nổi được.
Tào Tháo mới thua ở Xích Bích đâu đã quên bẵng việc báo thù. Nay Ngài cất quân đi đánh phương xa, Tào Tháo thừa cơ đến đánh thì Giang Nam ra cám mất. Tôi không nỡ ngồi nhìn mà không báo trước, xin Ngài soi xét.
Sự thật chỉ có dự định mà không có động binh, cũng không có việc Triệu Vân ngăn chặn, Vân Trường, Trương Phi, Nguỵ Diên bao vây, bởi vì Khổng Minh dùng kế của một người tên là Ân Quan, thoả thuận để cho Tôn Quyền mượn đường Kinh Châu đánh Tây Xuyên nhưng với những điều kiện:
Hợp tác với quân Kinh Châu cùng đánh Tây Xuyên.
Kinh Châu kiểm soát chặt chẽ số quân Giang Đông, qua Kinh Châu chỉ đến một hạn độ nào thôi.
Quân Giang Đông sẽ làm tiên phong vào Tây Xuyên.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Đương nhiên với những điều kiện ấy, Tôn Quyền, Chu Du không chấp nhận được. Nhận như thế khác gì bằng lòng cho quân Lưu Bị sẽ hợp cùng Tây Xuyên mà tiêu diệt quân Ngô chứ không phải hợp với Đông Ngô mà tiêu diệt Tây Xuyên nữa.
Trong tình trạng dằng co giữa Đông Ngô và lực lượng Lưu Bị, nếu Tây Xuyên biết lợi dụng thì chắc hẳn Tây Xuyên vững như bàn thạch.
Chẳng ngờ lại chính Lưu Chương đi mời Lưu Bị vào chiếm cứ Tây Xuyên. Tướng Tây Xuyên là Nghiêm Nhan gọi hành động này là: “ngồi một mình trong núi sâu lại thả hổ ra tự vệ” (Độc toạ cùng sơn, phóng hổ tự vệ”). Nguyên lai, từ khi Lưu Yên chiếm cứ Ích Châu, trước sau người bản địa vẫn không quy phục bởi vì Lưu Yên đã tiêu diệt một số lãnh tụ kính mến của họ, thêm nữa Lưu Yên còn mang một số dân nơi khác đến lập nền thống trị ở đây, khinh bỉ lăng nhục người bản địa.

Lưu Yên chết, Lưu Chương kế vị, Triệu Vĩ nổi loạn. Tuy Chương đàn áp nổi nhưng nội bộ chia bè, chia phái. Ngoài mặt tuy có vẻ an bình, nhưng nếu bất cứ lúc nào xẩy chuyện thì sự biến loạn cũng rất dễ dàng.
Năm Kiến An thứ 16, Tào Tháo cất quân đánh Trương Lỗ, tin này truyền đến Ích Châu, thủ hạ của Lưu Chương là Trương Tùng nói với Lưu Chương rằng: “Hán Trung là cửa ngõ của Ba Thục, nếu Tào Tháo mà chiếm cứ được Hán Trung thì Ba Thục nguy mất. Vả lại các tướng Ba Thục như bọn Lý Dị, Bàng Hi không chống nổi Tào Tháo đâu. Nay có Lưu Bị là họ hàng với chúa công, Bị giỏi dùng binh, chẳng bằng ta vời Lưu Bị đến đánh Trương Lỗ giữ Hán Trung thì không còn lo chi Tào Tháo.”
Lưu Chương cho là phải, sai Pháp Chính dẫn bốn ngàn quân đi đón Lưu Bị. Pháp Chính đưa cho Lưu Bị một bức thư của Lưu Chương viết rằng:
“Em là Lưu Chương xin có mấy lời kính gởi lên tôn huynh Huyền Đức tướng quân, lâu nay Em vẫn khâm phục uy trời, nhưng vì đường sá gập ghềnh, chưa kịp cống hiến, rất là áy náy không yên. Em thường nghe nói xấu tốt hoạn nạn cùng cứu giúp nhau, bè bạn còn thế huống chi chỗ bà con họ hàng.
Nay Trương Lỗ ở phía Bắc, thường muốn cất quân xâm phạm bờ cõi. Em chẳng được an tâm nên cho người dâng thư này xin ý kiến tôn huynh. Nếu tôn huynh nghĩ đến tình nghĩa Anh Em họ hàng thì mang quân mã, tiêu diệt giặc cướp, giúp đỡ nhau mãi mãi, sẽ xin báo đáp xứng đáng. Thư chẳng hết lời, mong tôn huynh chiếu cố.”
Trên hình thức, việc Lưu Chương mời Lưu Bị vào Tây Xuyên tiêu diệt Trương Lỗ, chiếm Hán Trung, Lưu Bị thế mạnh làm bình phong che đỡ mặt Tào Tháo cho Tây Xuyên quả là có kế hoạch tính toán hẳn hoi.

Nhưng xét sâu vào kế hoạch thì tính toán ấy chỉ có hình thức, chỉ biết nhìn hiện tượng. Lưu Chương đã bỏ quên quy luật phát triển của chính trị là nội dung và bản chất. Hơn nữa Lưu Chương cũng không nhận thức rõ tình trạng nội bộ Tây Xuyên như thế nào. Ngay khi liên lạc được với Lưu Bị, Trương Tùng và Pháp Chính đã âm mưu với Bàng Thống giết luôn Lưu Chương giữa cuộc hội đàm giữa Chương và Bị ở Bồi Thành, việc làm của Pháp Chính và Trương Tùng đều do tranh chấp bè phái mà ra. Nhưng Lưu Bị vốn không có khả năng bạo động, khả năng âm mưu, nên không nghe. Cơ sở lý luận trên chính sách của Lưu Bị đối phó với Tào Tháo bao giờ cũng là:
- “Ta địch với Tào Tháo khác nào nước địch với lửa. Tháo vội vàng, ta thư thả. Tháo bạc ác, ta nhân từ. Tháo dối trá, ta thực thà. Việc gì ta cũng phải khác Tháo thì mới thành công. Nếu vì một chút lợi nhỏ mà bỏ cả tín nghĩa với thiên hạ, ta không nỡ làm”.
Lưu Bị tới Bồi Thành gặp Lưu Chương, Chương cấp cho Lưu Bị rất nhiều binh mã, lương thực tiền bạc. Cho quyền Lưu Bị điều khiển quân đội ở Bạch thuỷ quan để đánh Trương Lỗ.
Lưu Bị thêm thế lực rồi, chẳng những không đi đánh Trương Lỗ ngay, Bị còn đồn trú quân tại huyện Hà Manh, vận dụng chính trị tranh thủ nhân tâm bằng cách thi ân bố đức.
Điểm này cho thấy rằng Lưu Bị đâu có phải là người thiếu thủ đoạn. Nếu Lưu Bị làm theo kế Trương Tùng, Pháp Chính thì đương nhiên sẽ gặp khó khăn vì quân dân Tây Xuyên phản đối kháng cự, đẩy Lưu Bị vào con đường không có lối thoát.
Trở về sự kiện Tào Tháo mang quân đánh Trương Lỗ, lúc sửa soạn vừa xong thì mặt Tây, Hàn Toại, Mã Siêu cũng rục rịch khiến Tháo phải đích thân Tây chinh. Việc đánh Trương Lỗ vì thế phải đình chỉ.
Năm Kiến An thứ 17, Tào Tháo lại khởi binh đánh Tôn Quyền. Quân Tháo ầm ầm kéo đến Nhu Tu. Hai bên cầm cự nhau chừng hai tháng, đánh mấy trận, khi được khi thua. Qua tháng giêng, mưa tầm tã, ngòi lạch đầy nước, quân sĩ ở trên đám bùn lầy vô cùng khổ sở. Tháo lo lắm, hội các tướng lại thương nghị, người thì khuyên rút quân về, kẻ thì nói rằng nên nhân lúc mùa xuân ấm áp cứ đánh. Tháo trong bụng phân vân, chợt có sứ giả Đông Ngô đưa thư đến, Tháo mở thư ra xem, đại ý viết:
Tôi với Thừa tướng cùng là bầy tôi nhà Hán. Thừa tướng không biết báo ân nước, trị an nhân dân mà cứ động việc binh đao, tàn hại sinh linh, người nhân đức đâu có thế. Hiện nay mưa xuân đang thịnh, ông nên quay về đi. Nếu không lại có vạ Xích Bích nữa đó.

Ông nên nghĩ kỹ.
Sau thư lại phê hai câu rằng:
Ông mà không chết,
Tôi cũng khó ngồi yên.
Tào Tháo xem xong cười mà nói rằng:
Tôn trọng Mưu biết điều lắm.

Lập tức hậu thưởng cho Sứ giả, truyền lệnh rút quân về rồi sai quan Thái thú Lư Giang là Chu Quang trấn giữ Hoàng thành còn mình thu đại quân về Hứa Xương. Tôn Quyền cũng thu quân về Mật Lăng, bàn với các tướng rằng:
Tào Tháo tuy đã về Bắc, nhưng Lưu Bị còn ở Hà Manh. Sao không đem quân chống Tào đến lấy Kinh Châu?
Kết quả cuộc chiến tranh Tôn-Tào ở Nhu Tu đã rõ rệt như thế. Nhưng ở bên Tây Xuyên, để thực hiện chính sách xâm chiếm Tây Xuyên, Lưu Bị cùng Bàng Thống lại nguỵ tạo một tình huống khác hẳn để lừa Lưu Chương.
Bàng Thống khuyên Lưu Bị điều đình với Lưu Chương hãy tạm gác việc chinh phạt Trương Lỗ mà cấp cho mình quân lương để đi cứu viện cho Tôn Quyền. Nhưng lần này kế hoạch không thi hành được trót lọt như các lần trước vì Lưu Chương đã bắt đầu nghi ngờ, nên chỉ cấp binh lương cho Lưu Bị một cách rất hạn chế. Thấy cơ sự này, Lưu Bị bèn vấn kế Bàng Thống, Bàng Thống bầy cho Lưu Bị ba mẹo:
Kén tinh binh, không kỳ ngày đêm đánh úp Thành Đô.
Quay binh về cửa ải Bồi Quan, giả tiếng về Kinh Châu, bắt giết tướng giữ ải, cướp lấy cửa ải rồi sẽ tiến quân vào Thành Đô.
Lui về Bạch Đế thành liền đem rút quân về Kinh Châu, dần dần về sau lại liệu kế khác.

Huyền Đức nói:
Mẹo thứ nhất táo bạo cấp bách quá, mẹo thứ ba trì trễ quá. Chỉ mẹo thứ hai có thể theo được.

Lưu Bị mới viết thư cho Lưu Chương nói thác rằng Tào Tháo sai Nhạc Tiến đem quân đến Thanh Nê, các tướng không cự nổi nên phải về cứu, lưu mấy lời tạm biệt.
Cùng lúc ấy thư của Trương Chiêu bên Giang Đông gửi cho Lưu Chương vạch vòi âm mưu của Lưu Bị vừa tới nơi, lại bị vụ Trương Túc tố cáo Trương Tùng bội phản, Lưu Chương tỉnh ngộ, sai chém Trương Tùng và ra lệnh khắp các cửa ải phải đề phòng nghiêm ngặt, cấm không cho người nào được phép vãng lai với Lưu Bị.
Nhưng mọi biện pháp chống giữ của Lưu Chương vô hiệu quả, vì thời thế đã chín rồi.
Lưu Bị bắt đầu chiếm Bồi Thành, đánh sang Lạc huyện. Quân Lưu Chương đến tiếp cứu chỗ nào cũng thua. Năm Kiến An thứ 19, Lưu Bị vây Thành đô, Lưu Chương chống giữ thêm mấy ngày rồi đầu hàng. Toàn bộ Ích Châu rơi vào tay Lưu Bị. Kế hoạch của Gia Cát Lượng đến đây có thể nói đã thực hiện được quá nửa.

Năm Kiến An thứ 17 và 18, tranh chấp Lưu Chương, Lưu Bị chưa thực sự bùng nổ ác liệt, lại thêm Mã Siêu ở Quan Trung khuấy loạn nên kế hoạch chiếm Hán Trung của Tào Tháo không sao thực hiện được. Tháo lưu Hạ hầu Uyên tại Quan Trung, ròng rã tác chiến mãi tới năm Kiến An thứ 19 mới bình định xong lực lượng Mã Siêu, luôn cả vùng Lương Châu nữa, thời gian này Lưu Bị cũng giải quyết hoàn toàn đất Tứ Xuyên.
Năm Kiến An thứ 22, tháng 3, Tào Tháo một lần nữa đề cập đến vấn đề tấn công Trương Lỗ. Bên Lưu Bị, một lần nữa, Tôn Quyền lại sai người sang đòi Kinh Châu. Bị vẫn thoái thác, tạ sự rằng quân lương hãy còn thiếu, đợi lấy nốt Lương Châu, sau sẽ trả Kinh Châu. Tôn Quyền giận lắm, hội các tướng thảo luận tuyên chiến. Lưu Bị cũng sẵn sàng chống cự, sai Quan Vũ chặn giữ vùng Ích Dương còn tự mình thống lĩnh đại quân dàn ra vùng Công An. Nhưng khi nghe tin Tào Tháo đã đánh vào Hán Trung rồi, Lưu Bị đành phải quay về chính sách mềm dẻo, đem đất Kinh Châu chia ra hai mảnh, từ Giang Hạ xuống phía Nam thuộc Tôn Quyền, từ Nam Quận xuống phía Nam thuộc Lưu Bị.
Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể đầu đuôi việc cắt Kinh Châu như sau:
- Tào Tháo lấy xong Hán Trung, quan chủ bộ là Tư Mã Ý hiến kế rằng Lưu Bị dùng mẹo lừa, cố cướp lấy Ích Châu của Lưu Chương, nhân dân Thục chưa quy phục. Nay Chúa công đánh phá được Hán Trung, chấn động cả Ích Châu, nên tiến binh đến đánh cho mau thì đất này vỡ lở. Có câu rằng “Dẫu có trí khôn không bằng thừa thế”. Dịp này chúa công chớ nên để lỡ.

Lưu Hoa nói:
- Tư Mã Trọng Đạt nói phải đấy. Nếu để chậm thì Gia Cát Lượng sáng suốt việc trị nước mà làm tướng văn, bọn Quan Trương trùm ba quân mà làm tướng võ. Dân Thục yên rồi chia ra giữ các nơi cửa ải thì không sao lay chuyển được đâu.
Tháo nói:
- Quân sĩ đi xa mệt mỏi lắm rồi, hãy nên cho nghỉ ngơi đã.
Liền đóng quân ở yên một chỗ.
Nói về nhân dân Tây Xuyên, nghe tin Tào Tháo lấy được Đông Xuyên (tức Hán Trung) rồi, trong một ngày ba lần kinh hãi. Huyền Đức đâm lo, mời Khổng Minh đến thương nghị, Khổng Minh nói:
- Tôi có một kế này, khiến cho Tào Tháo phải rút quân về.
Huyền Đức hỏi mẹo gì thì Khổng Minh đáp:
- Tào Tháo chia quân ra đóng ở Hợp Phì là có ý sợ Tôn Quyền. Nay nếu ta đem ba quận Giang Hạ, Tràng Sa, Quế Dương trả cho Đông Ngô, sai một biện sĩ sang bày tỏ lợi hại, xui Đông Ngô đánh Hợp Phì, Tào Tháo tất phải quay binh về mặt Nam.
Trương Liêu nghe tin Tôn Quyền sắp đem thêm quân đánh, sợ Hợp Phì ít quân không chống nổi, vội vã sai Tiết Đễ gấp rút về Hán Trung xin viện binh. Tháo bàn với các quan rằng:
- Bây giờ có nên đánh Tây Xuyên nữa không?
Lưu Hoa thưa:
- Chi bằng hãy đem quân về cứu Hợp Phì, nhân thể đánh lấy Giang Nam.
Sở dĩ Tháo không nghe lời Lưu Hoa và Tư Mã Ý đánh Tây Xuyên ngay, vì mưu kế của Ý và Hoa tuy đúng nhưng chỉ đúng có một mặt và vì tính chất phiến diện ấy sẽ đẩy việc làm vào cảnh phiêu lưu. Đánh Tây Xuyên có thắng chăng nữa cũng phải mất hàng năm, trong khi chưa khắc phục xong Tây Xuyên mà Tôn Quyền đánh úp mặt sau thì sao? Nhận thức chính trị lão luyện của Tào Tháo vượt xa Tư Mã Ý nhiều.

Xét lợi hại về sự chia đất Kinh Châu: bên Lưu Bị phái Quan Vân Trường đóng ở Giang Lăng; đất này trước vốn thuộc quyền Chu Du cai quản, nay chính thức thuộc Lưu Bị; bên Tôn Quyền, Lỗ Túc đóng ở Lục Khẩu, vậy bên Lưu Bị lợi hơn.
Lã Mông là người thế nào?
Lã Mông thuở nhỏ cùng khổ, phải dùng đến sức lực rất nhiều để kiếm ăn, vì sức lực cường kiện nên chuyên học võ, không hề đọc sách. Có một hôm, Tôn Quyền nói với Lã Mông và Tưởng Khâm rằng: “Hai người nay đều làm chức cao trong triều, cần phải đọc sách để tăng thêm học vấn mới được”.
Lã Mông nói:
- Thưa Chúa công, hiềm vì việc quân bề bộn nên không có thì giờ đọc sách.
Tôn Quyền nói:
- Ta bảo thế không có nghĩa là đòi hỏi ngươi trở thành một người thông kim bác cổ. Ta chỉ muốn ngươi đọc sách để hiểu biết chút ít trí thức kinh lịch tiền nhân, rồi ra sẽ có lúc phải dùng đến. Đức Khổng Tử bảo: “Hì hục quên ăn quên ngủ ích gì, hãy đi tìm sách mà đọc”. Vua Hán Quang Vũ khi còn chinh chiến sách chẳng rời tay, Tào Tháo đã già mà vẫn chăm đọc sách. Sao nhà ngươi không biết cố gắng làm vậy?”.
Nghe lời Tôn Quyền, Lã Mông khổ công đọc sách thấu đáo nghĩa lý. Ngày mà Lỗ Túc đến thay chức Chu Du, Túc cùng Lã Mông thương nghị. Những hiểu biết của Lã Mông làm Túc ngạc nhiên. Túc nói với Lã Mông rằng: “Tôi vẫn nghĩ ông chỉ biết nghề võ, ai ngờ Lã Mông bây giờ không phải Lã Mông ngày trước”. Lã Mông cười đáp: “Con người hễ cứ biệt nhau, cách ba ngày sau thì lại cần phải trông hiểu nhau bằng tầm mắt khác”. Chủ trương của Lã Mông đối với vấn đề Kinh Châu giống hệt như ý Chu Du. Mông muốn đem quân Giang Đông đóng làm ba nơi để tạo thế ỷ giốc phòng thủ. Một là Giang Lăng, hai là Bạch Đế, ba là lập một đạo quân tuần phòng suốt dọc sông. Thực hiện thế phòng thủ này, tự nhiên cần phải chiếm Kinh Châu.
Trước khi đi kế nhiệm Lỗ Túc, Tôn Quyền vời Lã Mông vào thương nghị, hỏi rằng: “Lấy Kinh Châu hơn (hay?) là lấy Từ Châu hơn?” Lã Mông trả lời: “Từ Châu khó lòng đoạt cho xong vì đất này là bình nguyên, lợi cho mã đội, mà phải có tới mười vạn quân mới giữ nổi. Chẳng bằng lấy Kinh Châu, chiếm cứ cả một con sông dài, người Giang Nam lại giỏi về thuỷ chiến, rất lợi cho miền Nam”.

Tôn Quyền chịu là phải.
Đông Ngô ngày đêm nghiên cứu kế hoạch chiếm đoạt Kinh Châu. Trong khi bên Lưu Bị rất sơ hở việc phòng giữ mặt này, hầu như không lưu ý gì đến quyết định cuộc hội đàm Lã Mông - Tôn Quyền về vấn đề Kinh Châu.
Năm Kiến An thứ 23, Lưu Bị theo kế Pháp Chính tấn công Hán Trung, khiến Tào Tháo phải Tây chinh, đem quân đến Tràng An.
Năm Kiến An thứ 24, Lưu Bị chém Hạ Hầu Uyên ở núi Định Quân. Tào Tháo tiến đánh, Lưu Bị phải lui đóng chẹn các nơi hiểm yếu, nhất định không chịu giao phong với quân Nguỵ nữa. Tào Tháo không biết làm thế nào, ít lâu đành thoái binh. Chiếm được Hán Trung, Lưu Bị tỏ ra đắc ý, nhưng sự đắc ý ở đây đã tạo cho Lưu Bị một thất ý đau đớn ở bên Kinh Châu.
Chiếm xong Hán Trung, các tướng của Lưu Bị hội nhau suy tôn Huyền Đức lên ngôi Vua. Tào Tháo ở Nghiệp Quận nghe tin Lưu Bị làm lễ nhận Miện phục và Tỷ thụ tại Miên Dương, định lập tức truyền lệnh khởi hết quân trong nước sang hai Xuyên để quyết sống mái với Hán Trung Vương.
Tư Mã Ý can rằng:
- Tôn Quyền ở Giang Đông, gả em gái cho Lưu Bị, rồi lại thừa cơ bắt em về. Lưu Bị thì chiếm Kinh Châu, không trả Đông Ngô. Bởi thế hai bên vẫn thù oán nhau. Nay ta nên sai người đến dụ Tôn Quyền, sai hắn cất quân sang đánh Kinh Châu. Lưu Bị tất phải mang quân đến cứu. Bấy giờ ta sẽ dẫn quân đến lấy Hán Trung, Lưu Bị đầu đuôi không cứu được nhau tất nhiên phải nguy khốn.
Tháo sai Mãn Sủng đưa thư sang hẹn Tôn Quyền đánh Kinh Châu. Tôn Quyền nhân vừa bị Quan Vũ nhục mạ, ý muốn cất quân đánh ngay. Mưu thần Bộ Trắc nói: “Hiện nay Tào Nhân đóng ở Tương Dương, Phàn Thành không phải cách trở sông to, ngay đường bộ cũng lấy được Kinh Châu, làm sao không đánh chiếm lấy, lại phải xui Đông Ngô ta. Cứ lẽ ấy mà suy thì đủ biết bụng dạ Tào Tháo. Chúa công nên sai sứ sang Hứa Đô, xui Tào Tháo khởi binh mặt bộ trước đến lấy Kinh Châu. Vân Trường tất kéo quân ra đánh Phàn Thành. Nếu Vân Trường đi rồi, chúa công sai một tướng đến ngầm lấy Kinh Châu, như thế chỉ một trận là phá xong”.
Tôn Quyền nghe theo, sai người sang sông dâng thư nói với Tháo việc ấy. Tháo mừng rỡ, lập tức sai Mãn Sủng làm Tham mưu ra Phàn Thành giúp Tào Nhân bàn việc cất quân. Một mặt đưa hịch sang Đông Ngô, sai cất quân đi đường thuỷ tiếp ứng.
Vân Trường ở Kinh Châu phải đương đầu với hai mặt.
Người đời sau bênh vực Vân Trường đều cho rằng cả hai mặt mà Quan Vũ phải đối phó đều rất khó khăn. Thật ra, sự thất bại hoàn toàn do bởi cái tâm chất kiêu căng và kém khả năng chính trị của Vân Trường. Phê bình Vân Trường với việc Kinh Châu, một nhà học giả Trung Hoa viết tám chữ: “Dũng cảm hữu dư, Chính trị bất túc”. Chính vì thừa dũng cảm kết hợp với thiếu chính trị mà thành phiêu lưu vậy.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Tâm chất kiêu căng và kém khả năng chính trị của Vân Trường đã biểu hiện lên những sự kiện nào?
a) Cắt đoạn ngoại giao với Giang Đông.
b) Không nhận thức đúng rằng bấy giờ Tôn Quyền đáng sợ hơn Tào Tháo.
c) Không trị yên được nội bộ, bọn My Phương ở Giang Lăng và bọn Phó Sỹ Nhân ở Công An chống lại và mưu phản Vân Trường.
d) Khinh rẻ Lục Tốn.

- Coi rẻ Lục Tốn là một quan kiện quyết định Kinh Châu thất thủ. Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể như sau:
- Vân Trường hạ được thành Tương Dương, dụ yên dân chúng, khao thưởng quân sĩ.
Tuỳ quân Tư Mã là Vương Phủ vào bẩm rằng:
- Tướng quân đánh một trận hạ được Tương Dương, quân Tào tuy rằng mất vía, nhưng cứ ý tôi nghĩ thì Lã Mông bên Đông Ngô hiện đang đóng quân ở cửa Lục Khẩu, có ý muốn dòm ngó Kinh Châu của ta. Nếu hắn đem quân lén lấy Kinh Châu thì làm thế nào?
Vân Trường nói:
- Ta cũng đã nghĩ đến, ngươi nên về lo liệu việc ấy cho ta. Cứ men theo bờ sông, hoặc cách hai mươi dặm, hoặc cách ba mươi dặm, nên tìm chỗ nào có gò cao, xây mỗi chỗ một cái ụ đốt lửa; mỗi ụ dùng 50 tên lính canh giữ. Khi nào quân Ngô sang sông, đêm thì đốt lửa lên cho sáng, ngày thì đốt khói lên để làm hiệu, ta sẽ kéo quân về cứu.

Sau khi hội đàm với Tôn Quyền quyết định đánh úp Kinh Châu. Về đến Lục Khẩu, có tiền mã báo rằng:
- Dưới ven sông, cứ hai chục dặm hoặc ba chục dặm, trên các gò cao đều có ụ đốt lửa cả. Lại nghe quân mã Kinh Châu tề chỉnh lắm, chắc là có chuẩn bị rồi.
Lã Mông giật mình nói rằng:
- Nếu như thế thì khó đồ được mất rồi. Trước mặt Ngô Hầu ta trót khuyên lấy Kinh Châu, nay biết xử trí thế nào cho được?
Mông nghĩ ngợi mãi không có mẹo gì, mới cáo ốm và cho người về báo với Tôn Quyền. Quyền thấy vậy trong bụng buồn rầu lắm.
Lục Tốn thưa rằng:
- Tử Minh giả ốm đó, không phải ốm thiệt đâu.
Quyền nói:
- Bá Ngôn đã biết là giả thì thử đi xem sao.
Lục Tốn lĩnh mệnh, đến Lục Khẩu ra mắt Lã Mông; quả nhiên Mông không có gì đáng (dáng?) đau ốm cả. Tốn nói:
- Tôi phụng mệnh Ngô Hầu đến thăm quý thể ra làm sao.
Mông nói:
- Tôi hơi mệt một chút, đâu phiền đến hỏi thăm.
Tốn nói:
- Ngô Hầu mang trách nhiệm giao phó cho ông, ông không nhân lúc này mà làm phăng ngay đi, còn để bận bịu trong bụng làm gì?
Lã Mông giương mắt nhìn Lục Tốn, nín lặng hồi lâu. Tốn lại nói:
- Tôi có một phương thuốc trị được bệnh của Tướng quân, không biết ông có dùng không.
Mông mới đuổi tả hữu ra ngoài rồi hỏi rằng:
- Bá Ngôn có phương nào hay, xin dạy bảo ngay cho.
Tốn cười nói:
- Bệnh của Tử Minh chẳng qua chỉ vì quân Kinh Châu nghiêm chỉnh và ven sông lại có ụ khói lửa đó thôi. Tôi có một mẹo này khiến cho những quân giữ Kinh Châu không đốt được lửa lên, mà quân Kinh Châu phải bó tay chịu hàng thì thế nào?
Tốn nói thêm:
- Vân Trường cậy mình là Anh hùng, nhưng chỉ còn e có Tướng quân đó thôi. Giả thử Tướng quân giả ốm từ chức lui về, giao việc cho người khác để cho người ấy phỉnh phờ Quan Công, càng làm cho y kiêu ngạo nữa, y tất rút hết quân Kinh Châu kéo ra Phàn Thành. Nếu Kinh Châu không có phòng bị gì, ta chỉ dùng một đạo quân, tìm mưu lạ sang sông mà úp lấy, chắc chắn Kinh Châu ở trong tay rồi.
Lã Mông mừng rỡ nói rằng:
- Thế mới là mẹo giỏi.
Sau đó, Lã Mông giả vờ ốm nặng, dâng thư từ chức.
Lục Tốn về ra mắt Tôn Quyền, thuật lại kế ấy. Quyền cho triệu Lã Mông về Kiến Nghiệp dưỡng bệnh. Mông về đến nơi, Quyền hỏi rằng:
- Trách nhiệm ở Lục Khẩu, ngày xưa Chu Công Cẩn tiến Lỗ Túc để thay chân. Khi Lỗ Túc mất, lại tiến ngươi kế vào chức ấy. Nay ngươi cũng nên tiến một người nào có tài có tiếng để thay ngươi thì chẳng hay lắm ru.
Mông thưa:
- Nếu dùng người danh vọng thì Vân Trường tất nhiên phải đề phòng. Có Lục Tốn, ý tứ sâu xa mà chưa có danh tiếng gì, Vân Trường tất không coi vào đâu. Nếu dùng người ấy thay tôi thì việc ắt xong.
Quyền mừng lắm, ngay hôm ấy phong cho Lục Tốn làm Thiên tướng quân Hữu đô đốc thay Lã Mông coi giữ Lục Khẩu.
Tốn phụng mệnh nhận lĩnh ấn thụ, ra ngay Lục Khẩu. Bàn giao công việc trong ba quân mã thuỷ bộ đâu đấy, Tốn lập tức viết một phong thư, sai người mang ngựa quý gấm lạ, rượu ngon và đồ lễ vật khác đem đến Phàn Thành vào lễ Quan Công.
Quan Công đòi sứ giả vào bảo rằng:
- Tôn Quyền nay sao quẫn thế, sai thằng trẻ con ra làm Tướng à?
Sứ giả phục xuống đất kêu rằng:
- Lục Tướng quân tôi, có đồ lễ và thư đến đây dâng trình Quân Hầu. Một là mừng Quân Hầu, hai là cầu đôi bên được hoà hiếu với nhau, xin Quân Hầu chiếu cố đến cho.
Quan Công mở thư ra xem, thấy lời lẽ khiêm tốn lắm. Xem xong ngẩng mặt cười ầm cả lên…

Vân Trường là người thế nào?
1) Kể về phương diện tài năng: Quan Vũ là một người có bản lĩnh, nhưng chỉ bản lĩnh chinh chiến mà không có bản lĩnh chính trị.
Cứ xem như trong toàn bộ Tam Quốc Chí, mỗi lần lực lượng Lưu Bị phân binh thì bao giờ cũng chỉ có hai người lãnh đạo là Lưu Bị, và Vân Trường.
2) Người phương Bắc vốn vẫn không thiện thuỷ chiến, mà khi Vân Trường lãnh đạo Kinh Châu, thuỷ binh trong tay Vân Trường cũng không dở.
3) Kể về phương diện tâm chất, đạo đức, Vân Trường hoàn toàn là con người khí khái anh hùng đặc biệt của một võ sĩ phong kiến thời đại. Tâm chất này đã tạo thành nhiều nhược điểm của Vân Trường trên chính trị.
Thua trận Mạch Thành và cái chết của Vân Trường là một vết thương chí mạng cho lực lượng Lưu Huyền Đức. Bởi vì mất Kinh Châu thì chỉ còn có một đường phát triển vào Trung Nguyên là đường từ Ích Châu qua Hán Trung sang Quan Trung, đường này lại rất nguy hiểm, đường núi trùng điệp; còn Kinh Châu, Thục Vương có thể đánh Tào bằng lối Nam Dương, Lạc Dương. Do đó mà sau này Gia Cát Lượng mấy lần phạt Nguỵ đều thất bại.

Căn rễ của cái hoạ Kinh Châu ở đâu?
Xét kỹ ra, nếu Lưu Bị biết hợp cùng Lưu Chương đánh Trương Lỗ ngay khi lực lượng Mã Siêu-Hàn Toại đương hoành hành quấy nhiễu Tào Tháo, chắc tình thế đã đổi khác.
Lưu Bị đánh Lưu Chương giữa lúc Tào Tháo bình xong bọn Mã Siêu, Hàn Toại rồi chuyển quân công phá Hán Trung là một nước cờ rất thấp.
Đi nước cờ thấp ấy, Tào Tháo mới có cơ hội đoạt Hán Trung, liên lạc với các tướng tá vùng Lương Châu xâm phạm khuấy loạn Quan Trung khiến cho Lưu Bị buộc phải phái Quan Vũ ra đó chống giữ khiên chế thế lực Tào, thành ra Kinh Châu bị bỏ trống.
Kinh Châu mất, kéo thêm thất bại nặng nề là trận Hào Đình, thua trận này (Lưu Bị?) rút về thành Bạch Đế và chết ở đó.
Tam Quốc Chí diễn nghĩa nói việc Lưu Bị hưng binh phạt Ngô là để trả thù cho người Em kết nghĩa Vân Trường.
Chuyện ấy hoàn toàn bịa đặt, hoàn toàn tiểu thuyết hoá.
Có một chứng cớ rõ ràng là:
Lưu Bị cử binh đánh Ngô cách xa ngày Quan Vũ bị giết hơn một năm rưỡi. Với khoảng thời gian này, đối với con nhà Chính trị, đương nhiên lý trí phải thắng cảm tình.
Chẳng qua đánh Kinh Châu, Lưu Bị chỉ muốn cứu vãn nước cờ thấp mà thôi. Nguyên nhân xa xôi của nó vẫn là Chính sách cấp công cận lợi tại Ích Châu, đến nỗi không còn lực để bảo vệ Kinh Châu vậy. Thế mới biết: phân biệt được nổi cái Nhanh với cái Chậm, cái Tấn tiệp với cái Trầm tĩnh, đối với các Chính trị gia thật là điều cực khó.
Phùng Mộng Long nói rằng: “Thành sự đại giả, tranh bách niên bất tranh nhất tức, nhiên nhi nhất tức cố bách niên chi thuỷ dã” nghĩa là: Muốn thành công lớn phải biết tính việc một trăm năm, không tính việc một chốc một nhát, nhưng cái việc một trăm năm bao giờ cũng khởi thuỷ từ cái việc một chốc một nhát.

Thời thế biến không chờ ai, vậy phải hành động nhanh như gió bão, như sét đánh chẳng kịp bưng tai. Nhưng tất cả kỹ thuật để thực hiện một hành động sấm sét gió bão lại nằm ở nơi biết thung dung nhận rõ thời thế, nhận đúng cơ duyên.
Quan Vân Trường Quan Vân Trường là một nhân vật trọng yếu đời Tam quốc. Trọng yếu vì những võ công oanh liệt và cũng trọng yếu vì thất bại trên chính trị của ông đã làm đảo lộn cục diện.
Quan Vân Trường lại càng trọng yếu hơn do ảnh hưởng của ông đối với hậu thế. Người đời sau ngưỡng mộ tấm lòng trung kiên của ông mà lập miếu thờ khắp nơi.
Sử gia Trần Thọ phê bình Vân Trường rằng : “Sứng vạn thế chi địch, vi thế hổ thần, nhiên Vũ cương nhi tự căng, Phi bạo nhi vô ân”. (Sức muôn người khôn địch, nhưng Quan Vũ quá cứng lại kiêu, còn Trương Phi hung bạo mà vô ân).
Tại sao một con người như thế mà được toàn dân sủng ái?

Có hai nguyên nhân:
1) Dân chúng chịu ảnh hưởng ngòi bút tài ba của nhà văn La Quán Trung đã khéo tô vẽ Vân Trường thành một tiêu chuẩn nhân cách siêu việt.
2) Nhu cầu chính trị.

Trước hết ta phải hiểu tính tôn kính đức hạnh trong quan niệm chính trị của con người Trung Quốc. Đối với một nhà chính trị, người Trung Quốc thường đặt câu hỏi: Người ấy đức hạnh ra sao trước hết? Những thắc mắc về lý luận tư tưởng đều chỉ là phụ.
ĐỨC là gì. Các cổ thư giảng rằng: Đức, đắc dã (Đức là cái điều mình được) nhưng được cái gì? Chu Mục đời Hậu Hán cắt nghĩa: Đắc kỳ thiên tính vị chi Đức (được thiên tính gọi là Đức). Cái nghĩa "được" trong chữ Đức của người Đông Phương hiểu với một tính cách tuyệt đối lý tưởng hoá. Đời sống chẳng có cái gì gọi là “Được” cả bởi vì rồi cũng dẫn đến cái chết. Tiền tài hay hết thảy mọi thứ làm thoả mãn cho dục vọng của ngũ quan, khi đã tới gần sự chết thì cũng chỉ là không.

Vậy thì ở đời thế nào gọi là mình đã được? Hãy nghe Mạnh Tử nói: “Con người đến với thế giới, mở mắt ra nhìn năm màu bảy sắc, mê loạn nên trước cần phải biết ta sẽ được cái gì mà không được cái gì? Nhiều kẻ cứ lầm tưởng rằng phải lấy ở bên ngoài mới gọi là được, và vì thế kẻ ấy sinh ra không chịu cho bao giờ. Thiên hướng về dục vọng ngũ quan nên ham lấy, càng ham lấy thì càng làm hẹp cái vòng sống của mình để rồi tiêu tan vào sự chết. Chỉ có những người biết “cho” nhiều, mở rộng cái vòng sống của mình ra vô tận thì mới mong bất diệt được”.
Quan niệm ấy đi vào chính trị, người Trung Quốc liền phân ra hai loại chính trị tiểu nhân và đại nhân. Chính trị của đại nhân là đem thân mình ra cung hiến cho xã hội. Phát huy cái chính trị của đại nhân lên cao hơn gọi là Thánh nhân. Như vậy mới thật là Đức.
Mạnh Tử đem ra ba người để chứng minh Thánh đức như các ông:
- Y Doãn chứng minh trách nhiệm của bậc thánh.
- Bá Di chứng minh đức thanh sạch của bậc thánh.
- Liễu Hạ Huệ chứng minh đức hoà của bậc thánh.
Theo ông thì Thánh là kết quả của công phu lập đức hay kiến lập một tiêu chuẩn nhân cách cá nhân. Nếu chúng ta sống vào lúc đen tối, hỗn loạn, ô trọc, tất nhiên chúng ta mong mỏi có một người nào đứng lên đảm nhận trách nhiệm tích cực vì chúng ta mà phấn đấu, vì đời mà dựng nghiệp. Thế cũng chẳng khác chi đời xưa hy vọng vào Ông Y Doãn vậy.

Nếu chúng ta sống vào lúc cuộc đời quá vẩn đục, chúng ta sẽ thèm khát một con người thanh cao liêm khiết, quang minh chính đại như đời xưa đã nhìn nhận Ông Bá Di.
Nếu chúng ta sống vào cuộc đời quá đua tranh chém giết, chúng ta sẽ hoài vọng một người như Liễu Hạ Huệ, biết ứng phó sự vật biến cố một cách hoà bình, không tranh cạnh, không hận thù.
Nói tóm lại chữ Đức là mức đòi hỏi tối cao, cao đến độ sự đòi hỏi ấy không bao giờ có thể thực hiện nổi trong chính trị.
Tại sao?
Chỉ vì nó là một tín ngưỡng hoàn toàn ảo tưởng, nó mang khả năng thoả mãn một cá nhân cô lập và không quan hệ lắm đến phong trào chính trị lớn lao nghiêm trọng, vì nó thường tách rời thực tiễn chính trị.
Ở nhân vật Quan Vân Trường đã biểu hiện rất rõ rệt sự thất bại của thứ tín ngưỡng ảo tưởng đó trên chính trị. Cái Đức khi đã trở thành một thái độ câu nệ thì chẳng những nó không mở rộng vòng sống như cổ nhân nghĩ, mà trái lại nó còn thắt vòng sống lại hẹp hơn. Và dĩ nhiên nó hoàn toàn vô ích cho chính trị.
Sau này triết gia Chu Tử thấy rõ mối nguy cơ của chữ Đức lệch lạc đến nỗi biến ra bệnh rởm, nên ông bèn xướng lên thuyết cùng lý, chủ trương biến lương tâm thành lương tri, sử dụng lương tri mà dẫn đường cho đức hạnh. Lương tri đòi hỏi con người có tầm nhận thức rộng lớn hơn, vượt ra ngoài vòng thiện ác để tìm đến lãnh vực đúng và sai. Chu Tử chứng thực rằng: Đức câu nệ đã làm hại chính trị và văn học từ trước tới giờ nhiều lắm rồi.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Để phát huy tiêu chuẩn nhân cách Quan Vân Trường, nhà văn La Quán Trung mở đầu bằng cách tiểu thuyết hoá cuộc gặp gỡ của bộ ba Lưu, Quan, Trương kết nghĩa vườn đào. Sau rồi đến cái chết của Lưu Bị ở Bạch đế Thành cho đúng với lời thề. Lấy con mắt chính trị mà xét thì những chuyện đó chẳng khác gì chuyện hai dũng sĩ ngồi quán rượu bàn luận Quốc sự, rồi vì muốn tạ lòng tri kỷ nên mỗi người tự lấy dao xẻo thịt minh, người nọ trao cho người kia làm đồ nhắm, cuối cùng cả hai cùng lăn ra chết. Mặc dầu bị Tam Quốc Chí ảnh hưởng rất mạnh, nhưng quảng đại quần chúng Trung Quốc vẫn có những nhận định tinh tế và dí dỏm, cho nên vào cuối đời Tống, trong dân gian mới được lưu truyền câu chuyện hài hước về kết nghĩa Lưu Quan Trương như sau:
Trương Phi nhà giàu, trước cửa nhà có con sư tử đá, nếu ai lay chuyển nổi con sư tử, Trương Phi gả em gái cho. Bố Quan Công rất nghèo, trồng đậu, làm đậu hũ kiếm ăn. Nhà ông ta ở cùng dãy phố với Trương Phi. Phi thường đến mua đậu hũ chịu. Lâu ngày tiền chịu tích luỹ khá nhiều. Bố Quan Công đến đòi, chẳng những không lấy được tiền, còn bị Trương Phi nện cho một trận nhừ tử. Lúc ấy Quan Công 18 tuổi, thấy Trương Phi đánh bố mình, nổi giận chạy phăng đến nhà Phi, nhìn quanh không thấy côn bổng gì cả, bèn nhấc bổng con sư tử đá dùng làm vũ khí đuổi đánh Phi. Phi vừa hãi vừa kinh ngạc vội núp vào góc tường nói: “Mày hãy bỏ sư tử đá xuống rồi tao gả em gái cho.” Quan Công nghe vậy, mặt ửng đỏ như gấc chín, quát: “Tao là Quan Vũ đây, lấy em gái mày làm gì, tao đến đòi tiền đậu hũ.” Trương Phi thấy Quan Công buông lời ngạo mạn cũng nổi nóng xông vào giằng con sư tử đá. Cuộc tranh hùng đang gay go thì hốt nhiên có một người cao lớn từ đâu đi tới, vai mang một bị đầy dép cỏ. Người đó giơ tay gạt Quan Trương ra hai bên. Quan Trương lấy làm lạ hỏi: “Mày là thằng nào vậy?” Người mang bị dép nói: “Tao là Lưu Bị cháu hai mươi đời Lưu Bang đây.” Quan Trương nghe thấy nói dòng dõi Hán Vương vội vàng quy phục ngay. Chiều hôm ấy, cả ba làm tiệc tế trời đất cùng nhau thề thốt kết nghĩa. Câu chuyện trên đây tuy cũng là câu chuyện bịa đặt, nhưng nó chất chứa một sự thật là chế giễu việc kết nghĩa quá ư tiểu thuyết của Tam Quốc Chí diễn nghĩa. Mặt khác nó cũng nói lên tâm trạng sính “chính thống” đương thời.
Tục thờ Vân Trường khởi từ thời Thanh, xướng lên bởi các tay giang hồ mãi võ Cách mạng phản Thanh phục Minh. Miếu thờ Quan Vũ chính là một hình thức hội kín nhưng mang bộ mặt hợp pháp. Nhưng kế hoạch này bị Thanh triều phá vỡ. Vua Thuận Trị nhà Thanh thấy tình hình nếu cứ để hội kín nấp dưới bóng Vân Trường thì rất nguy hiểm, mà đàn áp chắc không xong rồi, nên mới giáng chỉ cho toàn quốc lập miếu thờ, giáng chỉ này cũng áp dụng luôn cả với dân tộc Mãn Thanh nữa. Mục đích là làm chết không khí hội kín bên trong miếu thờ Vân Trường. Vua Càn Long giáng chỉ phong Quan Vũ làm Trung Nghĩa Vũ Thần Đại Đế. Quả nhiên hội Vân Trường mất hẳn hiệu lực, từ cách mạng chuyển ra mê tín cầu phúc giải tội, dần dần các miếu lọt vào tay bọn buôn Thần bán Thánh. Âm mưu phục Minh cũng tan rã.
Đó là tất cả nguyên nhân tại sao Vân Trường lại được sùng bái, phổ biến rộng lớn vậy. Nếu không có cuộc Cách Mạng phản Thanh, thì chắc việc hiển thánh của Quan Vân Trường trong Tam quốc chí diễn nghĩa đã bị bỏ quên rồi.

Bàn hẳn vào cái Đức của Quan Vân Trường Cổ nhân nhận rằng Đức có tám thể:
1) Nhân.
2) Nghĩa.
3) Lễ.
4) Tín.
5) Thứ.
6) Nhẫn.
7) Trung.
8) Dũng.

- Về chữ “Nhân” sách Luận ngữ viết: Nhân là yêu người (nhân giả ái nhân) cho nên người có lòng nhân thì thiên hạ không ai địch nổi. (Nhân nhân vô địch ư thiên hạ). Vân Trường có thể gọi là người Nhân theo đúng nghĩa Luận ngữ chăng. Toàn bộ Tam quốc chí người đọc thường thấy Vân Trường quát mắng: “Dòng hổ mà lại lấy dòng chó à?” Lúc Khổng Minh về với Lưu Bị, hễ mỗi lần có việc sai phái đến Vân Trường thì đều bị Quan Trương hậm hực phản đối. Thế thì Vân Trường bất nhân sao? Đương nhiên không thể dùng danh từ bất nhân mà gán cho Vân Trường được, nhưng cái đức nhân của Vân Trường, nếu xét nó dưới nhãn quan chính trị, thì ta không thể nào ca tụng được.

- Về chữ “Nghĩa”, Mạnh Tử nói: Nghĩa là điều nên làm. Theo Mạnh Tử “Nghĩa” là phép ứng phó với sự vật. Hoài Nam Tử nói: Nghĩa giả tụ nhân, tụ nhân, cố bất nhẫn loạn. (Có nghĩa tất quy tụ được người, người quy tụ thì không loạn). Quan Vân Trường tuy là người nghĩa khí, nhưng cái nghĩa của Vân Trường ở mức độ thấp ứng phó giữa cá nhân với cá nhân, với sự vật trước mắt, chữ Nghĩa của Vân Trường không vươn được tới lãnh vực chính trị. Do đó Vân Trường mới bị bọn Phó Sĩ Nhân, Mi Phương làm phản ở Kinh Châu.

- Về chữ “Lễ”, cổ nhân giảng chữ lễ là thứ tự đơn giản. Cái Lễ của Vân Trường thì lại quá hoả và phức tạp. Cho nên cứ mỗi lần vấp phải việc gì xúc phạm đến tính cách phức tạp ấy là Quan Vũ nổi giận. Nếu nói rằng: “Lễ” là vào chỗ nào nên tìm biết điều cấm kỵ, vào nước nào nên hỏi phong tục, vào nhà nào nên tránh những huý kỵ thì Vân Trường không hợp được với chữ Lễ theo nghĩa đó.

- Về chữ “Tín”, Vân Trường thật là con người trung tín, nhưng trung tín của Vân Trường cũng chỉ hẹp hòi thu vào quan hệ giữa cá nhân. Tỉ dụ như việc bỏ Tào trở về với Lưu Bị, tha Hoàng Trung để trả nợ kẻ không nỡ bắn mình, thái độ đối với Tào Tháo ở Hoa Dung tiểu lộ. Đến vụ Kinh châu thì chữ Tín kia mất hẳn. Khổng Minh mặc dầu vì nhu yếu chính trị nên trên sự thật không trả Kinh Châu, nhưng trên danh nghĩa bao giờ Khổng Minh vẫn dùng chữ mượn vì sẽ trả. Trái lại Vân Trường hành động ngược hẳn với đường lối của Khổng Minh.

- Về chữ “Nhẫn”, Vân Trường hoàn toàn thua sút. Suốt đời Vân Trường, vui hay giận đều vút cao lên quá mức. Sách Luận ngữ dạy: Tiểu bất nhẫn tất loạn đại mưu (không nhẫn nổi sự việc nhỏ tất hại cho kế lớn). Thất bại Kinh Châu làm sụp đổ toàn sự nghiệp gây dựng bao năm trời của Lưu Bị do bởi tính thiếu đức nhẫn của Vân Trường mà nên. Người xưa chủ trương “Mười năm đèn sách, mười năm nuôi khí chất”. Mười năm đèn sách đem lại Trí, mười năm nuôi khí chất tạo thành đức nhẫn. Đức nhẫn quan hệ vô cùng đối với chính trị. Vân Trường gan dạ nhưng thiếu kiên nhẫn.

- Đến các chữ Trung, Thứ, Dũng, đọc Tam quốc chí diễn nghĩa ta thường thấy hiện lên nhân vật Quan Vân Trường đủ cả, có điều đáng tiếc là phần lớn chúng đều bị Vân Trường sử dụng sai chỗ.

Đọc Tam quốc chí diễn nghĩa, đến đoạn Hoa Dung tiểu lộ. Quân Tào Tháo người ngựa sau khi thất trận Xích Bích chạy đã mệt nhoài, hốt nhiên tới Hoa Dung gặp quân mai phục của Vân Trường. Quân Tào Tháo nhìn thấy ba hồn bảy vía lên mây ngơ ngác nhìn nhau. Tháo muốn liều chết đánh nhưng Trình Dục tiến lên can rằng:
- Tôi vẫn biết Vân Trường vốn kiêu ngạo với người trên, nhưng không chấp kẻ dưới, coi thường người khoẻ nhưng không nỡ hiếp kẻ yếu, ân oán phân minh, tín nghĩa rõ ràng. Thừa tướng khi xưa có ân tình với ông ấy, nay nên thân ra cầu hoà mới thoát được nạn này.
Lời Trình Dục với việc Quan Vũ tha Tào đã nói lên rõ ràng cái nghĩa khí sắp đặt sai chỗ của Quan Vân Trường vậy.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

10
Vũ Tài Lục
Nói Chuyện Tam Quốc
- 9 -
LUẬN VỀ TÀO THÁO




Car la force est juste quand elle est nécessaire
Machiavel
Dĩ dật đạo sử dân, tuy lao bất oán
Dĩ sinh đạo sát dân, tuy tử bất oán sát giả
Mạnh Tử

Qua sách sử Trung Hoa, đời Bắc Tống đã có người ghi lại một đoạn bút ký nói rằng: “Những trẻ em trong xóm ngõ, thường xúm lại nghe kể truyện Tam Quốc, thấy nói đến Lưu Bị thua thì cau mày không vui, có em khóc. Thấy kể Tào Tháo bại thì khoái chí reo mừng”.

Đoạn bút ký ấy cũng cho ta biết ngay cả trước khi tập Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung ra đời, dân chúng đã có một nhận xét riêng của họ: Yêu mến Lưu Bị và ghét sợ Tào Tháo.

Tâm lý yêu mến Lưu Bị và ghét sợ Tào Tháo gây ra bởi hai nguyên nhân:
Quan niệm chính trị của người Đông Phương căn bản là sùng bái nhân nghĩa đạo đức, triệt để bài bác quyền thuật cơ mưu.

Chịu ảnh hưởng của bọn học phiệt có tư tưởng chính thống và đạo thống.
Như vậy thì bộ Tam quốc chí diễn nghĩa tuy phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, nhưng sự thực bộ tiểu thuyết này đã có một quá trình sáng tác của nhiều người. Ở Tam quốc chí diễn nghĩa ta còn thấy nhà văn La Quán Trung sử dụng đến mức tuyệt diệu nghệ thuật văn học để làm nổi bật hai bộ mặt thiện, ác tương phản của Tào và Lưu, cùng khơi sâu tâm lý yêu Bị ghét Tháo vẫn sẵn có từ trước.
Điểm này La Quán Trung có đáng trách hay không? Trả lời, bộ biên tập của nhà xuất bản Trung Quốc viết:

“Tam quốc chí diễn nghĩa, khác hẳn với những sách viết về khoa học xã hội. Nhiệm vụ của nó không phải là trình bày bình luận hoặc phân tích một cách khách quan trên một số vấn đề lý trí, mà là dùng nghệ thuật sáng tạo để làm cảm động người đọc, trực tiếp đánh vào tình cảm người đọc”.

Đối với La Quán Trung thì tiểu thuyết viết Tào Tháo không phải là tạo ra nhân vật lịch sử Tào Tháo nguyên hình như cũ, mà là mượn nhân vật lịch sử để sáng tạo ra hình tượng nhân vật và tính cách điển hình rất phong phú phức tạp. Nói một cách khác, trong truyện viết Tào Tháo không phải chỉ là viết Tào Tháo thực trong lịch sử mà là viết ra rất nhiều Tào Tháo trong lịch sử. Chủ yếu của tiểu thuyết là sáng tạo ra một nhân vật điển hình để vạch rõ thói hung tàn nham hiểm của bọn thống trị phong kiến, để cho nhân dân quần chúng nhận thức được một cách cụ thể. Tức là đem tất cả những hình tượng tàn ác, bản chất xấu xa bỉ ổi của thống trị phong kiến tập trung lại, khái quát lên, sáng tạo ra cái nhân vật phản diện Tào Tháo. Phản ảnh như vậy so với cách trực tiếp bộc lộ càng sâu sắc hơn, so sánh với trực tiếp tố cáo, tư tưởng tính càng mạnh mẽ hơn, đó là một sự thống nhất hoàn chỉnh giữa tư tưởng và nghệ thuật tính rất cao vậy.
Về phần chúng ta bình luận về Tào Tháo, thì chúng ta bàn luận trên cơ sở nào?
Chúng ta sẽ trình bày, phân tích Tào Tháo trên một số vấn đề lý trí.

Do đó, việc cần thiết hàng đầu là một thái độ tuyệt đối khách quan, nghĩa là hãy tước bỏ đúng mức tâm lý yêu ghét bị tuyên nhiễm bởi Tam quốc chí diễn nghĩa.
Chính thống và đạo thống Chính thống và đạo thống là bản chất chính trị và tư tưởng học thuật đạo đức của thời đại phong kiến.

Chính thống là uy quyền do một tập đoàn chính trị muốn kéo thành xâu, thành chuỗi quyền thống trị của mình tạo ra. Quyền ấy kế tiếp theo nguyên tắc cha truyền con nối.
Đạo thống là một thứ tư tưởng độc tôn, học thuật độc tôn. Khi một hệ thống tư tưởng nào đã bám được thế lực chính trị, nắm quyền thống trị, hoặc từ hệ thống tư tưởng thông qua đấu tranh mà nắm được chính quyền thì tư tưởng độc tôn, học thuật độc tôn sẽ chỉ chuyên dạy, chuyên khuyến dụ mọi người ủng hộ chính quyền chính thống.

Thời đại phong kiến, kẻ thống trị muốn củng cố địa vị của mình, chủ yếu thường dùng đến chính sách ngu dân vô cùng thâm độc. Chính sách ngu dân tuy biểu hiện ra bằng nhiều phương thức khác nhau, nhưng tóm lại chỉ là sự sử dụng, khai thác triệt để khả năng của đạo thống, khiến cho quần chúng rộng lớn không có dịp tiếp thu bất cứ một hiểu biết nào khác ngoài những điều mà bọn thống trị cho phép.

Tâm lý sùng thượng đạo đức, bài bác quyền thuật cơ mưu trong chính trị là tốt, vì nó mang tính chất tươi đẹp của tinh thần nhân văn. Nhưng nếu tinh thần nhân văn ấy bị lý luận đạo thống lợi dụng thì hoá dở.
Cho nên, muốn tước bỏ được mức tâm lý yêu ghét Lưu Tào, chúng ta không thể không chống cái nền móng của tâm lý ấy là những tư tưởng chính thống, đạo thống của bọn học phiệt tay sai chính quyền phong kiến.

Tào Tháo là con người thế nào?
Các nhà văn học Trung Quốc thường phân tích về thân phận Tôn Quyền là con nhà quý tộc, Lưu Bị là người kẻ chợ và Tào Tháo là dòng dõi môn phiệt. Sở dĩ Tào Tháo ở trong hàng ngũ môn phiệt bởi vì cha Tào Tháo là Tào Tung làm quan đến chức Thái Uý và Tháo nhờ thế lực của cha nên hai mươi tuổi đã được cử làm Hiếu Liêm.

Hiếu Liêm là một chức quan nắm quyền cai trị ở cấp bực trung bình của chính quyền địa phương. Chức Hiếu Liêm là sản phẩm của nền hành chính Hán Triều. Đời Hán Vũ Đế đặt ra lệ bắt các trưởng quan địa phương mỗi năm phải chọn và đề cử một người thanh liêm, hay một người con hiếu ra chấp chính.

Đặt ra chức này, Hán Vũ Đế muốn lấy Đức Hạnh dùng làm nền tảng cai trị. Ban đầu do sự thi hành đúng nên Hiếu Liêm cũng gây thành phong khí tốt, dư luận hay. Nhưng lần lần, Hiếu Liêm trở thành một thứ hàng độc quyền của các đại gia, mặt khác nó làm cản bước tiến của trí thức, trở thành đầu mối của tranh chấp Bình dân và Môn phiệt. Hiếu Liêm đã biến chất không còn như ý nguyện của Hán Vũ Đế muốn dùng nó làm chiếc cầu cảm thông giữa quần chúng với chính quyền nữa.

Tào Tháo nhận chức Hiếu Liêm, tất nhiên cũng sẽ bị trí thức bình dân và quần chúng nhìn bằng con mắt hằn học và cũng bị liệt vào hàng phe phái Môn phiệt.
Biết vậy, nên lúc tại chức Tào Tháo đã ra sức chống lại bọn cường hào, đả kích chính sách hoạn quan. Do đó lúc sang nhận chức ở Tế Nam, bị bọn cường hào cùng bè lũ tay sai hoạn quan oán hận, Tháo sợ gây nên tai hoạ lớn, bèn từ chức.

Lúc từ chức, Tào Tháo 30 tuổi, ông nói:
“Cùng chức Hiếu Liêm với tôi có người 50 tuổi mà trông vẫn còn trẻ măng, tôi còn những 20 năm nữa mới bằng họ, vậy tội gì mà không tìm cách ẩn cư đợi thời”.
Tào Tháo lui về quê hương là Tiêu huyện, dựng một căn nhà thoáng đãng để đọc sách, giồng hoa, săn bắn. Thời gian này Tào Tháo đem hết tâm trí vào việc rèn luyện khả năng chính trị, quân sự.

Xem thế đủ biết, tuy xuất thân môn phiệt nhưng nhờ nhãn tuyến chính trị sắc bén, Tháo đã gột bỏ tâm chất môn phiệt để nhất định đứng vào hàng ngũ trí thức và quần chúng tiến bộ.

Về quan hệ Nam Nữ, Tam quốc chí diễn nghĩa cho rằng Tháo là một người dâm dục, bậy loạn bất cố đạo nghĩa. Tính chất đó được chứng minh bằng sự kiện Tháo ngủ với người thím Trương Tú khiến Tú nổi giận làm phản, nhờ Điển Vi hy sinh cứu Tháo và chết thay cho Tháo. Chuyện này chỉ là một câu chuyện gán ghép gượng gạo không lấy chi làm thật nhằm mục đích làm tăng giá trị điển hình cho một nhân vật tàn ác, gian hùng mà thôi.

Trong dân gian thì lưu truyền một sự tích tình ái của Tào Tháo trái hẳn với việc Trương Tú. Đó là chuyện nàng Lai Oanh Nhi. Đầu đuôi như sau:
“Đời Hậu Hán, những ca sĩ đất Lạc Dương nổi tiếng là đẹp là hay. Trong số ấy, có nàng Lai Oanh Nhi vượt hẳn lên cả về tài lẫn sắc.
Tài sắc đã trội hơn người, tính nết nàng còn đặc biệt hơn nữa. Oanh Nhi rất kiêu ngạo. Biết bao Vương Tôn Công Tử hoài công theo đuổi mà Lai Oanh Nhi chưa từng để mắt đến người nào.

Tào Tháo rất tinh thông âm luật, lại là một nhà thơ tài tình, gặp giọng hát cùng nhan sắc Oanh Nhi rất lấy làm xứng ý. Bấy giờ Lạc Dương đại loạn nên Lai Oanh Nhi chịu nương nhờ bàn tay che chở của Tào Tháo, theo Tháo đi đánh Đông dẹp Bắc độ nhật nơi doanh trại. Oanh Nhi thường ca hát những bài thi, bài từ của Tào Tháo và các danh sĩ để Tào Tháo uống rượu hân thưởng. Đối với sinh hoạt lưu động, nàng vốn không ưa nên Oanh Nhi lúc nào cũng buồn. Tháo tuy chịu tài năng ưa nhan sắc nàng nhưng phần vì việc quân cơ bận bịu, phần vì quý sự nghiệp chính trị hơn nên Tháo ít khi gần gũi. Lai Oanh Nhi lại càng cảm thấy cô quạnh. Chẳng bao lâu, Oanh Nhi đem lòng yêu một chàng thị vệ, đêm đêm vẫn cùng nhau hò hẹn. Quan niệm tình ái của Tào Tháo rất rộng rãi, vả lại ca kỹ trong doanh trại nhiều nên mối tình giữa Lai Oanh Nhi với chàng thị vệ kia cũng gặp rất ít trở ngại. Nhưng một chuyện bất ngờ xảy đến, chàng thị vệ được lệnh sai đi thám thính đồn lương bên địch, chàng liền đến báo cho người yêu biết. Oanh Nhi thấy sứ mệnh có vẻ nguy hiểm nên nhất định không chịu rời tay.

Tào Tháo trị quân rất nghiêm, dĩ nhiên theo quân pháp thì bỏ trốn nhiệm vụ trong lúc tình thế nghiêm trọng, chàng thị vệ si tình bị phán quyết tử hình. Lai Oanh Nhi hay tin gào khóc và bất chấp cả mọi nguy hiểm chạy đến bên Tháo xin tha tội cho người yêu. Gặp Tào Tháo nàng cứ thực sự tâu bày mọi chuyện, khiến cho Tào Tháo hết sức ngạc nhiên. Trầm ngâm hồi lâu, Tháo nghĩ ra một biện pháp, đề nghị tha tội cho chàng thị vệ với điều kiện là Oanh Nhi phải chịu chết thay.

Không chút do dự, Oanh Nhi xin chịu, nàng còn yêu cầu một điều là hoãn ngày chết cho nàng hai tháng để nàng có đủ thì giờ huấn luyện các ca kỹ khác tất cả tài nghệ của mình để trả ơn Tháo.

Lời thỉnh cầu của Oanh Nhi cũng được chấp thuận. Nàng liền chọn bốn người xuất sắc nhất, ngày đêm tập dượt và sau cùng trong số bốn người, Oanh Nhi đã tạo hẳn ra một người khả dĩ thay thế cho mình hầu hạ Tào Tháo.
Làm xong nhiệm vụ, Oanh Nhi thản nhiên đến thụ tội.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Tào Tháo cảm thấy bâng khuâng vì không ngờ việc tình ái lại thâm sâu đến thế. Tháo bèn cho gọi chàng thị vệ, nói lại mối tình nồng nhiệt của Oanh Nhi đối với y. Tháo càng ngạc nhiên, khi thấy chính miệng tên thị vệ nói ra là y coi mối tình ấy chẳng khác nào chuyện qua đường. Nghe xong, Tào Tháo căm giận muốn chém phăng tên thị vệ cho rồi, nhưng nghĩ lại lời đã trót hứa với Oanh Nhi nên thôi. Đồng thời Tào Tháo cùng tỏ ý không muốn bắt Oanh Nhi phải chết thay nữa. Sợ Oanh Nhi biết mình bị xử tệ bạc còn đau khổ gấp bội, Tháo bèn sai đuổi tên thị vệ về quê quán. Oanh Nhi biết, nàng quyết sống thác với tình, khẩn khoản xin Tháo cho đi theo tình nhân. Cực chẳng đã Tháo đành phải chịu. Lúc tiễn đưa Oanh Nhi, Tào Tháo sụt sùi khóc.

Ít ngày sau, Tháo nhận được tin Lai Oanh Nhi tự thắt cổ chết. Sự tích Lai Oanh Nhi trong cuộc đời Tào Tháo cho chúng ta biết:
a) Mặt sinh lý Tào Tháo rất tuỳ tiện và đã sửa soạn chu đáo để không đến nỗi phải bậy bạ với người đàn bà nạ dòng trong họ nhà Trương Tú.
b) Mặt tình ái, tình cảm của Tào Tháo đòi hỏi đến một mức phong nhã khá cao.
Vậy mụ gái xề nhà Trương Tú không thể nào quyến rũ nổi Tháo phải hy sinh uy tín của Tháo đã tạo ra bằng bao nhiêu công phu, như thế đắt quá.

Gian thần thoán đoạt?
Hậu thế gán cho Tào Tháo hai chữ “gian tặc”. Lý do là Tào Tháo đã thoán đoạt ngôi nhà Hán. Dùng danh từ gian tặc để chỉ Tào Tháo hoàn toàn là lý luận của bọn chính thống đương thời và đời sau. Chống lại sự vu oan đó, chúng ta chưa cần viện dẫn nhiều mặt khác mà có thể đứng ngay trên lập trường chính thống cũng đủ biện bạch cho Tào Tháo.
Trước hết, suốt đời Tào Tháo nắm quyền thao túng quốc sự không hề có chuyện phế lập. Thế lực họ Tào không ai chối cãi là đã lấn át cả vua nhưng không phải là thoán đoạt, bởi vì:

Sau Hán Vũ Đế, Hoắc Quang làm đại thần phụ chính thì nội bộ chính quyền nhà Hán đã phân hoá giữa chính phủ và Hoàng thất, đưa dẫn tới xung đột rồi.
Đời Tháo thì Hoàng thất nhà Hán đã mất khả năng và uy tín thống trị. Đương nhiên, Tháo phải tận lực xử dụng quyền lực để ổn định quốc gia.
Với Tào Tháo, vấn đề thoán đoạt vô nghĩa và ông không coi việc ấy là tham vọng hay mục đích của đời ông.

Dẹp xong ba mươi vạn quân Khăn vàng, đánh tan Viên Thiệu, bình Viên Thuật, đả bại Lưu Biểu, Tháo nói:
“Giả thử quốc gia mà không có tôi, thì còn biết bao kẻ xưng vương xưng đế.”

Suy ngẫm về lực lượng của mình, Tháo thường nói:
“Mọi người thấy binh lực tôi mạnh, lại cho rằng tôi là người không tin thiên mệnh nên ngờ tôi có ý lật nhà Hán. Nhưng tôi nghĩ trái hẳn, tôi há không biết rằng Tấn văn Công xưa mạnh nhường ấy mà vẫn một lòng một dạ với nhà Chu, Chu Vương chiếm hai phần ba thiên hạ mà vẫn phụng sự nhà Ân hay sao?”

Sách sử ghi chép rằng:
Bình nhật, Tào Tháo thường hay kể chuyện tình cố quốc của Nhạc Nghị với nước Yên, với vẻ mặt hết sức cung kính say sưa.
Tam quốc chí dựa vào quan điểm chính thống, diễn tả hành động thoán đoạt của Tào Tháo trên mấy sự việc quan trọng như:
Vụ săn bắn ở Hứa Điền.
Ngôn ngữ trong bài hịch kể tội của Trần Lâm.
Vụ bức tử Đổng Phi.

Dưới đây chúng ta hãy bàn cãi từng sự việc một.
Như chúng ta đã được biết, kể từ sau đời Hán Vũ Đế, chính quyền đã có sự phân tách giữa chính phủ và hoàng thất nhà Hán đã kém vế rồi, triều thần thuộc tập đoàn thống trị phe chính phủ vẫn thường lấn áp quyền Hoàng đế, ngược lại Hoàng thất luôn luôn tìm cách khôi phục quyền mình. Thậm chí để gây cánh, tin dùng cả bọn hoạn quan để mong tạo thế lực. Đến loạn kiêu binh Lý Thôi Quách Dĩ, mới đầu hoàng thất bị xâm phạm, sau cả chính phủ cũng bị khinh miệt. Do đó, đứng trước tai ách chung, triều thần và hoàng thất tạm gác bỏ xung đột, liên kết với nhau, vì sức không đủ nên phải cầu viện bên ngoài. Triều thần và vua chúa thoả thuận mời Tháo. Tháo được Triều thần chọn bởi hai lẽ:
Lực lượng Tào gần Kinh đô nhất.

Tào Tháo cũng dòng dõi môn phiệt, chung quyền lợi với bách quan trong triều. Cả hoàng thất lẫn triều thần mơ hồ tưởng rằng lực lượng của Tháo là một lực lượng của chức viên thuộc hạ. Họ lầm vô cùng, lầm vì trí lực của họ không đạt tới mức Tháo. Tháo mạnh là vì ông biết gắn liền với lực lượng chính trị đang lên, chứ Tháo đâu có mạnh là vì dòng dõi môn phiệt, cho nên, việc về dẹp giặc của Tào Tháo đối tượng không chỉ riêng kiêu binh Lý Thôi Quách Dĩ; đối tượng còn khả năng đứng mũi chịu sào trong cơn đại biến động nữa. Lúc Lý Thôi Quách Dĩ thua chạy rồi triều thần mới ngã ngửa ra. Các quan muốn bảo vệ quyền lợi của mình liền thổi phồng quyền thiêng liêng của hoàng đế, để làm lập trường đấu tranh với Tào Tháo. Thổi phồng quyền thiêng liêng của hoàng đế rồi, triều thần liền phát động tâm lý căm phẫn, thương xót vua bị Tào Tháo ức chế như Tháo đã cả gan tế ngựa ra đứng trước mặt vua để nhận lời chúc mừng của Bách quan, khiến Quan Vân Trường giận, mày tầm dựng ngược mắt phượng giương to, cầm đao thúc ngựa định ra chém Tào Tháo.

Cuộc xung đột giữa triều thần với tập đoàn Tào Tháo lan rộng từ trung ương ra các địa phương. Trịnh Thượng Thư gửi thư cho Viên Thiệu khuyên Thiệu cất quân đánh Tào. Thiệu nghe và sai Trần Lâm thảo hịch đánh Tào. Lời hịch mang những lời chủ yếu như sau:
Thường nghe rằng Minh chúa nhân nguy để chế biến, Trung thần lo nạn để lập công.
Trước kia nhà Tần vua yếu, Triệu Cao lộng quyền hống hách trong triều, một tay tác oai, tác phúc.
Tháo, nòi giống sót của Hoạn quan, gian xảo độc ác, thích gây ra sự biến loạn, vui mừng thấy sự tai vạ.

Tháo vốn thân dê mà đội lốt hổ, nhưng lại thừa cơ mà bạo ác càn rỡ, tàn dân hại người lương thiện. Vì thế quan thái thú Cửu Giang là Biên Nhượng tài cán giỏi giang, thiên hạ biết tiếng, nói thẳng lòng ngay, không a xiểm ai, cũng bị nó hãm hại, đầu phải bêu, vợ con phải tàn sát. Từ đó sĩ phu ai cũng tức tối.

Tháo dám rông rỡ làm càn, hiếp vua thiên đô, khinh nhờn nhà vua, nát phép loạn kỷ, ngồi giữ cả việc ba đài, chuyên chế triều chính, muốn thưởng ai thì thưởng, muốn giết ai thì giết, yêu ai thì người ấy sung sướng đến cả năm ngành, ghét ai thì người ấy phải chết cả ba họ. Ai bàn tán phải trái thì trị tội công khai, ai thầm vụng chê bai thì bị giết ngấm ngầm. vì thế trăm quan buộc miệng, đường xá đưa mắt nhìn nhau.

Cho nên quan thái uý là Dương Bưu, từng giữ hai chức là Tư Không và Tư Đồ, nhất phẩm trong nước, Tháo nhân thế mang lòng ghen ghét vu cho tội trạng, đánh đập tàn nhẫn.

Quan Nghi Lang là Triệu Ngạn, lời ngay nói thẳng có thể nghe theo, vì thế Vua nghe nói động lòng, thay đổi nét mặt, tỏ ý khen thưởng. Tháo nhân thế mang lòng ghen ghét, vu cho tội trạng, đánh đập tàn nhẫn lấp đường nói năng của mọi người, tự tiện bắt Triệu Ngạn giết đi, mà không nói cho Vua biết.

Rõ ràng tinh thần bài hịch hoàn toàn đại biểu cho quyền lợi nhóm triều thần, còn quyền lợi vua, quyền lợi dân thì chỉ là phụ, phần trang trí cho bản hiệu triệu thêm chính nghĩa thôi.

Bên ngoài Viên Thiệu hiệu triệu đánh Tào, bên trong các triều thần tụ họp âm mưu lật Tào Tháo. Vì tổ chức Tháo chặt chẽ quá, nên hoạt động của đám triều thần chỉ thu hẹp vào việc giết Tháo. Sứ mệnh giết Tháo được giao phó cho danh y Cát Bình giả đến chữa bệnh, rồi tìm cách đầu độc, chuyện tính không xong, Cát Bình bị giết, bọn Vương tử Phục bị bắt cùng với cả nhà Đổng Thừa. Tháo sai đem ra chợ chém tất.

Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi đem gươm vào cung để giết Đổng quý Phi. Quý Phi là em gái của Đổng Thừa đã có mang 5 tháng. Hiến Đế xin cho Đổng Phi, nói: Đổng Phi đã có mang 5 tháng xin thừa tướng thương cho. Tháo không nghe. Đổng Phi khóc nói: Xin cho toàn vẹn thân thể mà chết, đừng để bộc lộ. Tháo sai đem tấm lụa trắng đến trước mặt Đổng Phi. Đổng Phi cứ van khóc mãi, Tháo liền quát võ sĩ lôi Đổng Phi ra thắt cổ ở cửa Cung.

Tam Quốc chí diễn nghĩa viết:
Đời sau có thơ than Đổng Phi rằng:
Ân ái đền xuân cũng uổng thôi
Trứng rồng tan vỡ đáng thương ôi
Đường đường Đế chủ sao không cứu
Tầm tã nhìn suông nước mắt trôi
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Bọn chính thống dùng mọi cách bi thiết hoá để gợi tình cảm chống Tào trên vụ án chính trị Đổng Phi. Thảm cảnh nguỵ tạo ấy chỉ tốt cho văn nghệ chứ không thể dùng làm căn cứ để phán xét công việc của một người có trách nhiệm với lịch sử. Bọn chính thống vì tôn phụng quyền lợi một tộc họ nên lấy cá nhân mà đại biểu cho đại cục. Đổng Phi dù có bị giết tàn nhẫn hơn thế nữa, lịch sử cũng không vì vậy mà bớt những vụ tương tự.
Chính trị không phải là một công việc êm ái, nhẹ nhàng như ta nhàn nhã hái bông hoa, vì chính trị vốn là mối mâu thuẫn xung đột ác liệt của xã hội. Làm chính trị là đối phó với những gì cường bạo, tham lam xảo quyệt. Nhà chính trị cỡ lớn phải biết ràng buộc vào sự an, nguy của thời thế, của đại cục. Giết Đổng Phi, Tào Tháo nói: “Nếu ta thất bại thì Quốc gia sẽ bước vào cục diện cực nguy hiểm”.

Một nhà chính trị nếu có đủ thế lực, đủ uy tín để nói câu đó mà không thấy tự ngượng, mà không bị người khác chối bỏ thì thiết tưởng thân phận cá nhân kiểu Đổng Phi chẳng là nghĩa lý gì hết. Không bắt giết bọn Vương tử Phục, Đổng Thừa và Đổng Phi để bọn này liên lạc được với Viên Thiệu làm loạn thì xã hội sẽ ra sao? Bản thân Tháo sẽ ra sao?
Khi người ta, chẳng hiểu may hay là không may, phải sống vào lúc nhiễu nhương, xã hội hỗn loạn mà trách nhiệm xây dựng, bình định lại rơi vào chính tay mình thì đương nhiên không thể tránh khỏi tình trạng hành động tự do của kẻ này sẽ đe doạ đời sống của kẻ khác và tàn bạo phải nẩy sinh ra.

Thời đại và xã hội mà Tào Tháo sinh trưởng
Trải qua một thời gian khá dài, toàn bộ văn hoá Trung Quốc lấy dân tộc làm trung tâm, dựa thế lực của kinh tế và quân sự, đã phá tan những chướng ngại phong kiến, để đi sang thời đại thống nhất Trung Quốc. Ban đầu là nhà Tần, sau đến Lưu Bang giữ vai chính trên vũ đài hoà theo với các cuộc vận động của phần tử trí thức.

Thời kỳ trước Tam quốc và chính Tam quốc, công cuộc thống nhất chưa hoàn thành cho nên nhiệm vụ thống nhất càng nặng thì toàn bộ xã hội Trung Quốc đã rơi vào tình trạng cực rối loạn. Tuy nhiên, bánh xe lịch sử cũng không vì thế mà ngừng hướng về thống nhất. Chỉ có khác một điểm là: Lẽ ra chính quyền Trung ương lãnh đạo công cuộc thống nhất, nhưng vì Trung ương quá yếu nên việc thống nhất chuyển sang tay các thế lực lớn ở địa phương thôn tính những thế lực nhỏ để thống nhất từng mảnh trước, chờ đợi cuộc tranh chấp cuối cùng tiến tới thống nhất toàn bộ.

Xã hội rối loạn của Tam Quốc có thể khái quát bằng mấy điểm sau đây:
Thối nát, băng hoại đến nỗi mất hết khả năng giải quyết mọi vấn đề khẩn cấp của Quốc gia và bảo đảm những điều kiện sinh hoạt thường nhật của dân chúng.
Tâm lý oán ghét chế độ mỗi ngày mỗi tăng cao, quần chúng rộng lớn hầu như tuyệt vọng, họ sẵn sàng hy sinh để thay đổi số phận.
Mâu thuẫn, xung đột kịch liệt ngay trong nội bộ hàng ngũ thống trị, phe thống trị mất tin tưởng cả chính mình.

Xã hội khao khát một thế lực mới để dẹp loạn.
Tào Tháo sinh ra, lớn lên trong thời đại và xã hội kể trên. Tháo lại gánh trách nhiệm Quốc gia, để làm tròn trách nhiệm, tất nhiên Tào Tháo phải là hiện thân của một chính trị gia đại tài.

Từ ngàn xưa, nhân danh tư tưởng nhân văn, nhân danh văn minh loài người, nhân danh hạnh phúc hết thẩy đều đòi hỏi chính trị tuyệt đối phải là một hành động đạo đức. Danh từ đạo đức ở đây khuyên tròn trong hàm nghĩa tuyệt đối, không bạo động, không giết người, không đổ máu, không tù đày, không tranh chấp, không đàn áp. Thường thường nó biến ra tín điều mà những kể thống trị muốn nó tồn tại mãi có lợi cho họ. Đôi lúc, nó là cơ sở cho một lý thuyết không tưởng. Nhưng cũng không ai chối cãi được rằng: “Ở toàn bộ lịch sử, tranh chấp chính trị bao giờ cũng chỉ là những cuộc chiến tranh”.
Phương pháp làm cho chính trị thành công với phương pháp dẫn chiến tranh đến thắng thắng lợi không khác gì nhau cả, nghĩa là phải có thế lực, có bản lĩnh để vận dụng vũ lực tiêu diệt kẻ thù, kẻ chống lại mình. Máu đổ nhiều hay ít, thanh toán nhau, tiêu diệt nhau tàn khốc hay không tàn khốc còn tuỳ ở những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử. Miễn là máu đổ người chết để thực hiện một con đường sống cho đa số, cho dân tộc, cho tiến bộ, cho thái bình. Đạo đức biến đổi theo sự đòi hỏi của chính trị. Tại sao nói thế? Trả lời, chúng ta hãy đặt thêm một câu hỏi nữa. Đạo đức là gì? Người đời xưa giảng rằng: “Đạo đức thị ứng thời chi vật dã” (Đạo đức là một vật để ứng phó với thời thế), ví như mùa nóng mặc áo vải, mùa rét mặc áo lông cừu. Nếu nóng bức mà mặc áo lông cừu, rét mướt mà mặc áo vải là trái ngược với thời. Đạo đức là nguồn gốc nguyên tắc của hành động vậy.

Đời loạn có đạo đức của đời loạn, nghĩa là nhất nhất mọi hành động phải có nguyên tắc mang hiệu lực ứng phó với tình thế loạn. Cho nên Đạo đức của con người chính trị không là gì khác ngoài những hành động chính xác.

Biết vận dụng nhân nghĩa để kiến tạo lực lượng.
Thâu thập được quyền uy rộng lớn để huy động quần chúng, tiêu diệt những ác thế lực.
Đủ mưu thuật để lãnh đạo đấu tranh đến thắng lợi.
Tóm lại Đạo đức tức là phẩm chất chính trị vậy.
Sự nghiệp Tào Tháo là sự nghiệp chính trị, vậy khi phê phán Tháo chúng ta không thể không đứng ra khỏi con người chính trị được.

Trước hết Tào Tháo có nhân nghĩa để vận dụng không?
Tào Tháo hàng ngàn năm nay vẫn bị hình dung như một kẻ bất nhân bất nghĩa. Lý do của nó chúng ta đã nói ở trên, thiết tưởng chẳng cần nhắc lại dài dòng.
Lưu Bị thường nói: “Nay khác ta như nước với lửa là Tào Tháo. Tháo cấp ta khoan, Tháo bạo ta nhân, Tháo dối ta thật”. Như vậy để nêu rõ tính cách hung dữ, tàn nhẫn trá nguỵ của Tào Tháo. Ở Tam Quốc chí diễn nghĩa dưới ngòi bút của nhà văn La Quán Trung, nghệ thuật vẽ nên con người tàn ác còn được biểu hiện huy hoàng hơn. Trong tiểu thuyết dù là việc lớn, hoặc những chi tiết nhỏ, chỗ nào Tào Tháo cũng tỏ cái tính cách “Thà ta phụ người chớ để người phụ ta”. Lưu Bị thì chỗ nào cũng tỏ cái tác phong “Thà chết không làm điều phụ nghĩa”, tạo thành sự đối chiếu thật rõ rệt mạnh mẽ, đến nỗi cái tên Tào Tháo được dùng để xưng danh những kẻ gian hùng xấu xa. Tình cảnh Tào Tháo giống in tình cảnh Machiavel, nhà văn chính trị Ý đại Lợi của thế kỉ thứ 16, bị người đương thời phỉ báng là: “tục tĩu khốn nạn”. Tên Machiavel biến thành hình dung từ Machiavelique để chỉ những gì hung ác, tồi tệ, giảo quyệt.

Ta đừng lẫn tiểu thuyết với lịch sử, ta cũng không nên lẫn lịch sử gian tạo với lịch sử chân thực. Đó là điều căn bản trước khi bắt tay vào việc đi tìm tòi cái nhân nghĩa của Tào Tháo. Mạnh Tử nói: “Nghĩa là làm việc đúng mực” (nghĩa giả sự chi nghị dã).
Vậy muốn tìm hiểu việc nào có nghĩa hay không, đương nhiên phải xét việc ấy cho thật thấu đáo đã. Không thể phê phán với thái độ tự cho đã nhìn thấy sự vật trước khi có ánh sáng.

Xét cho thấu đáo ta sẽ thấy rằng: Ở địa vị và hoàn cảnh Tào Tháo, nhân nghĩa không thể là đem gạo phát chẩn như kiểu mấy đại gia quy Phật, không thể như Sái Ung quỳ khóc thây Đổng Trác, không thể như Nễ Hành đánh trống chửi bậy, không thể như bọn người bất tài ôm Hiến Đế mà than thở v.v…

Phạm vi và cơ sở nhân nghĩa của Tào Tháo rộng lớn hơn rất nhiều. Đó là sinh mệnh của hàng trăm vạn người, sự an ninh cho quốc gia, sự yên bình cho Xã hội sau bao tai biến tầy trời: Hoàng Cân, Đổng Trác, Lã Bố, Quách Dĩ, Lý Thôi. Đời sau vì bọn chính thống làm lạc hướng, đã quên mất cái nhân nghĩa to tát kia mà chỉ nghĩ đến mấy cá nhân tầm thường: Triệu Ngạn, Dương Bưu, Đổng Thừa, Đổng Phi, Hiến Đế, dùng làm căn cứ kết tội Tào Tháo bất nhân, bất nghĩa.

Nhưng đáng kể nhất vẫn là con người chính trị của Tào Tháo
Jean Jacques Rousseau viết:
Chớ lầm tưởng rằng những nhà hiền triết đã biết rõ con người, trái lại họ còn rất mù mờ là khác, vì họ thường xét đoán con người qua những thành kiến của họ, nguy hơn nữa là không có một hạng người nào lại lắm thành kiến bằng những nhà hiền triết.
Vào thực tiễn, các hiền triết bao giờ cũng thất bại bởi vì thế giới của họ thuần những tư tưởng trừu tượng, những nguyên tắc thuần lý, những chân thiện mỹ tuyệt đối. Còn thế giới loài người, sinh hoạt xã hội thì khác hẳn.

Nước Cộng Hoà lý tưởng của Platon, Thành phố Thiên đường của Saint-Augustin và thiên quốc của Thomas Campenella đều chỉ là những giấc mộng, tương tự giấc mộng của vị lương y muốn tương lai y khoa sẽ vượt ngưỡng cửa Tử thần đến cõi bất diệt.

Thực tiễn là bản chất của chính trị.
Thực tiễn là kim chỉ nam của tất cả mọi hoạt động chính trị.
Ở chính trị chỉ có vấn đề lợi hại, thành công, thất bại, tồn tại và tiêu diệt. Muốn thành công, muốn tồn tại cần phải thủ đoạn mưu lược, biết tiến, biết thoái, phải có sức làm việc cần khổ, một nghị lực dồi dào.
Con người chính trị ví như vị kỹ sư sử dụng hết thẩy những gì cần thiết hữu ích để đạt tới kết quả.

Thời đại Tam Quốc, một mình Tào Tháo là xứng đáng đủ điều kiện cần thiết của một con người chính trị. Bên cạnh Tào Thào là Gia Cát Lượng. Nhưng ở Khổng Minh người ta vẫn thấy vơi vơi, phảng phất tựa hồ mộng tưởng thống nhất cho nước Ý của Dante mà chưa có lý luận của Machiavel bổ túc, chủ nghĩa Xã hội không tưởng của Saint-Simon, Kropotkine mà chưa có tư tưởng khoa học và tư tưởng thực tế đấu tranh. Tóm lại con người chính trị của Khổng Minh phải đứng bên cạnh con người chính trị Tào Tháo thì tính chất của chính trị thời đại Tam Quốc mới hiển hiện, mới thấy rõ chỗ kỳ diệu mà Thánh Thán đã phê phán.

Xem Tam Quốc chí diễn nghĩa, nghiên cứu Tam Quốc dù tuỳ theo tâm chất ta yêu hay ghét Tào Tháo, nhưng sâu kín trong lòng, chúng ta ai ai cũng thán phục Tào Tháo và công nhận Tào Tháo đã dạy được chúng ta nhiều điều hơn tất cả những nhân vật khác thuộc thời đại đó.

Tâm lý chính trị của Tào Tháo: hành động trước hết Tam Quốc chí diễn nghĩa kể:
Chiều hôm ấy Doãn mở tiệc ở hậu đường. Các quan đến cả. Khi uống rượu được vài tuần, Doãn tự nhiên che mặt khóc hu hu.
Các quan giật mình hỏi rằng:
Nay là ngày sinh nhật của quan Tư Đồ, sao Ngài lại khóc như vậy?
Doãn thưa rằng:
Nay có phải là ngày sinh nhật của tôi đâu. Vì có một việc muốn nói với các vị nhưng sợ Đổng Trác sinh nghi, cho nên mượn cớ thác ra thế. Thằng Trác dối vua lộng quyền, xã tắc nay mai đổ mất. Đức Cao Hoàng ngày xưa đánh Tần diệt Sở, bao nhiêu công phu mới nên cơ đồ này, ngờ đâu nay mất vào tay thằng Đổng Trác. Tôi khóc là vì thế.
Các quan nghe nói cũng đều khóc cả.
Trong đám ngồi có một người, vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng:
Các quan thử khóc từ tối đến sáng, lại khóc từ sáng đến tối, có khóc chết được thằng Đổng Trác không?
Doãn ngoảnh lại xem ai, người ấy là Kiêu Kỵ Hiệu Uý Tào Tháo. Doãn giận nói rằng:
Tổ tôn nhà ngươi cũng ăn lộc nhà Hán, nay người không biết nghĩ báo quốc lại nhăn răng ra mà cười à?
Tháo nói:
Tôi cười, có phải cười gì đâu? Cười là cười các Quan, không biết nghĩ kế gì mà trừ thằng Đổng Trác. Tháo này tuy không có tài cán gì, nhưng xin lập tức chặt đầu thằng Trác, treo ở cửa chợ để tạ thiên hạ.
Doãn liền đứng dậy hỏi rằng:
Mạnh Đức có kế gì tài thế?
Tháo nói:
Tôi lâu nay sở dĩ khuất thân nhờ Đổng Trác cũng là vì muốn thừa cơ giết nó. Nay nó đã hơi tin tôi, tôi được gần nó luôn. Nghe quan Tư Đồ có con dao Thất bảo, xin cho tôi mượn. Tôi nguyện phen này vào tận tướng phủ đâm chết thằng giặc Đổng Trác, dẫu chết cũng không oán hận gì.

Ở thời loạn, mọi người không thể cứ ngồi “ca cẩm” mà mong thay đổi tình thế. Toàn bộ trí thức Kinh Đô họp ở nhà Vương Doãn với thái độ than vãn nhù nhờ đã làm nổi bật ngôi sao chính trị Tào Tháo ngay từ lúc bấy giờ, lúc Tháo chưa có một tư bản chính trị nào.

Tào Tháo cười bọn đó, cũng như nhà văn Gorki cười bọn trí thức: “Bọn họ, số đông đều biết, đều giỏi mơ tưởng một đời sống hạnh phúc cho nhân loại thiên vạn năm, nhưng lại không người nào tự hỏi mình có dám đứng lên xây dựng nó?”
Tào Tháo là người cơ trí, lại dám hành động, đương nhiên quyền lãnh đạo sau này phải lọt về tay Tháo. Mặc dầu những bước đầu thất bại. Giết không nổi Trác, Tháo phải bỏ trốn, rồi đi theo liên quân miền Đông lại gặp sự rụt rè của Viên Thiệu, Tháo dám một mình đuổi đánh quân Đổng Trác. Tuy thất bại, nhưng Tháo cũng mở mắt cho mọi người thấy rằng:
Muốn cứu vãn một tình trạng thì không thể chỉ ngồi nhìn nhau bàn tán, than khóc, thề bồi, mà phải hành động rỏ máu và mồ hôi. Nói suông để tự an ủi, tự làm với nỗi bực bội sẽ làm cho người ta cứ nói suông mãi mãi. Cái cười của Tào Tháo muốn bảo cho bọn Vương Doãn, hãy quay lại tự vấn, tự xét cái thái độ ăn nhiều, uống nhiều và nói nhiều.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [85] [86] [87] [88] [89] [90] [91] ... ›Trang sau »Trang cuối