Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

TỔNG LUẬN
THỜI ĐẠI ĐÔNG A
CON NGƯỜI ĐÔNG A


Thời Trần (1225 – 1400) được xem là một thời đại huy hoàng trong lịch sử dân tộc. Sử gia đời sau đánh giá: “Triều Lý nhân ái, triều Trần anh hùng”. Trong gần hai trăm năm trị vì với mười hai đời vua, triều Trần đã tạo nên những chiến công hiển hách trong kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ đất nước cũng như trong xây dựng và phát triển quốc gia phong kiến độc lập tự chủ. Lịch sử mãi mãi ghi nhận vương triều Trần như một triều đại hào hùng bậc nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Văn chương mãi mãi ngợi ca thời Trần như một thời đại mang vẻ đẹp khó gặp lại ở đời sau - thời đại “nhất khứ bất phục phản”.

Năm 938, Ngô Vương đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt thảm cảnh nghìn năm nô lệ giặc Tàu.

Các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê tuy ngắn ngủi nhưng đã đặt được những nền móng đầu tiên cho việc xây dựng nhà nước phong kiến Đại Việt độc lập so với Trung Hoa. Đặc biệt, trải qua 215 năm xây dựng và phát triển dưới triều Lý, đến triều Trần, nước Đại Việt đã trở thành một quốc gia cường thịnh. Một mặt phát huy những truyền thống vốn có từ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, mặt khác kiến tạo thêm những giá trị mới mang hơi thở thời đại, triều Trần đã đưa dân tộc bước vào giai đoạn trùng hưng với khí thế hồ hởi chưa từng có. Những tiềm năng của dân tộc được hồi sinh mạnh mẽ, nội lực dân tộc được phát huy hết chiều kích tạo nên những thành tựu nổi bật về nhiều phương diện.

Thời Trần, với sự lãnh đạo của những vị vua anh minh thần võ như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông; với tài năng của các tướng lĩnh như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật… và đặc biệt là với sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, muôn người như một hừng hực chung một hào khí Đông A, chúng ta đã tạo nên những kì tích trong công cuộc bảo vệ tổ quốc. Cả ba lần xua quân sang xâm lược, cả ba lần quân Nguyên Mông – đạo quân xâm lược khét tiếng hung hãn từng tung hoành từ Á sang Âu thời đó – phải chịu thất bại một cách nhục nhã.

Giai cấp phong kiến thời Trần là một lực lượng tiến bộ, trở thành đại biểu của nhân dân. Với chủ trương thân dân, trọng dân, nó quy tụ được sức mạnh toàn dân tộc trong kháng chiến chống ngoại xâm cũng như trong xây dựng và phát triển đất nước. Lúc này, khoảng cách giữa triều đình phong kiến và quần chúng gần gũi, hoà nhã đến mức các vua Trần đích thân xuống ruộng cày những luống cày tịch điền để khuyến khích nông nghiệp, vua quan cùng nhân dân cầm tay nhau nhảy múa trong những hội hè, đình đám cổ truyền. Chính không khí cởi mở, đầm ấm ấy đã tạo nên một đời sống thanh bình, an vui “Muôn dân ca hát vui thời thịnh trị” (Triệu tính âu ca lạc thịnh thì – Trần Nguyên Đán). Giáo sư Đặng Thai Mai nhận xét: “Từ cung điện nhà vua qua dinh thự các quan đến làng mạc người dân chưa có những đường hào ngăn cách một cách quá nghiêm khắc như sau này. Chưa có một bệ rồng xa thẳm và lộng lẫy, chưa có những thành quách cao dày, những hào luỹ sâu thẳm, chưa có những kiến trúc nguy nga, những luật lệ gang sắt… con người biết sống một đời sống tích cực, vui vẻ”. [1]

Với mặt tích cực ấy, triều Trần đã lãnh đạo đất nước phát triển một cách toàn diện về mọi mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá… đưa nước Đại Việt thời Trần trở thành một quốc gia phồn thịnh. Về quân sự, ba lần đánh tan quân Nguyên - Mông để “ non sông nghìn thuở vững âu vàng”. Về chính trị, tạo ra vị thế bình đẳng với Trung Hoa, khiến các nước lân bang phải vị nể. Về văn hoá, tạo dựng được một nền văn hoá phong phú, giàu bản sắc với một tầm vóc văn hoá khiến cả người Trung Hoa cũng phải ngợi ca. Nguyên sứ Trương Hiển Khanh một lần sang sứ Đại Việt đã phải trầm trồ thán phục:

An Nam tuy tiểu văn chương tại
Vị khả khinh đàm tỉnh đế oa

[Nước An Nam tuy nhỏ nhưng có văn chương Không thể nói một cách nông cạn họ là ếch ngồi đáy giếng].

Văn học thời Trần cũng có những bước phát triển mới so với văn học thời Lý, đưa thơ từ chỗ trừu tượng, cao siêu đến chỗ gần gũi, bình dị và giàu ý vị trữ tình.

Từ thực tế trên, có thể nói thời Trần là một thời đại anh hùng. Chỉ có thời ấy mới tạo ra được con người ấy – những con người mang trong mình vẻ đẹp nhân văn sâu sắc. Lê Quý Đôn, học giả uyên bác thế kỉ XVIII đã nhận xét về con người thời Trần trong phần Tài Phẩm, sách Kiến văn tiểu lục như sau: “Đấy là những người trong trẻo, cứng rắn, cao thượng, thanh liêm có phong độ như sĩ quân tử thời Tây Hán, thật không phải người tầm thường có thể theo kịp được. Bởi vì nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi mà không bó buộc, hoà nhã mà có lễ độ, cho nên nhân vật trong thời ấy có chí khí tự lập, hào hiệp, cao siêu, vững vàng vượt ra ngoài thói thường, làm rạng rỡ sử sách, trên không hổ với trời, dưới không thẹn với đất”.

Nhận xét trên của Lê Quý Đôn đã thâu tóm được một cách sâu sắc bản lĩnh và khí tiết của con người thời Trần. Hào khí Đông A cùng với khí thế hồ hởi của thời đại đã góp phần tạo nên hình ảnh những con người mang vẻ đẹp đặc biệt. Đó là những con người đã sống một cuộc đời oanh liệt và hoành tráng. Các bô lão muôn người như một hô vang “ quyết đánh” rung chuyển cả điện Diên Hồng. Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản vì nhỏ tuổi không được dự hội nghị tướng lĩnh ở Bình Than, phẫn uất đến mức bóp nát quả cam lúc nào không biết. Trần Bình Trọng khi rơi vào tay kẻ thù vẫn giữ tròn khí tiết của bậc làm tướng “Ta thà làm quỷ nước Nam cũng không thèm làm vương đất Bắc”. Đó còn là những con người có hành động rất lạ, chỉ xuất hiện trong thời này mà hầu như không thấy xuất hiện trong bất cứ một thời đại nào khác.

Trần Thái Tông sẵn sàng bao dung, tha tội cho Hoàng Cự Đà khi ông này ức vì không được ăn xoài mà không cứu giá, bởi lẽ vua hiểu sâu sắc tâm lý con người và biết cái lỗi trước hết là do mình. Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông dám dùng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn vào chức Quốc Công Tiết Chế thống lĩnh toàn quân đội mặc dù biết ông là con dòng trưởng và cha ông – An Sinh Vương Trần Liễu từng có hiềm khích rất lớn với Thái Tông. Trần Nhân Tông xem ngôi vua nhẹ như chẳng có, có thể lìa bỏ dễ dàng như “ trút bỏ một chiếc giày rách”. Trần Minh Tông là vua mà thức suốt đêm trường, dằn vặt, trăn trở vì một lỗi lầm mắc phải ba mươi năm về trước.

Trần Quốc Tuấn khi nắm quyền uy tột đỉnh vẫn một mực trung thành, cúc cung tận tuỵ, không vì thù riêng của gia đình mà truất phế ngôi vua theo lời trăng trối của cha. Trần Quang Khải và Trần Quốc Tuấn khi vận nước lâm nguy đã sẵn sàng gác sang một bên hiềm khích riêng để cùng lo việc nước…Và còn biết bao con người như thế nữa trong ức vạn con người thời Trần đã mạnh mẽ, tự tin góp sức mình tạo nên tinh thần thời đại. Hình ảnh những con người ấy đã in đậm dấu ấn trong văn học làm cho văn học thời Trần lấp lánh tinh thần nhân văn, độc đáo và vô cùng hấp dẫn.

Hồ Tấn Nguyên Minh
------------------------------
* Chú thích:
[1] Đặng Thai Mai (1977), “Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học”. Thơ văn Lý - Trần. 1, NXB KHXH, Hà Nội

https://1.bp.blogspot.com/-MVX8mn-jRfk/W95__ZdvkqI/AAAAAAAB-iM/UQcXr_TnQtIYn7BqKz0nCAJ-P8I5FNQNgCLcBGAs/s640/70.3.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHƯƠNG 5
NHÀ HỒ
CHỐNG MINH


Kỳ 71

NHÀ TRẦN
VÀ CUỘC CHIẾN VỚI CHẾ BỒNG NGA


Khi mà những bậc quân chủ không còn giữ đước đức chính, uy vũ cần phải có, không còn đủ năng lực để điều hành quốc gia thì sự suy vong ắt sẽ thành hình. Như triều Trần cũng gọi là một triều đại rực rỡ của dân tộc ta, nối tiếp triều Lý khai sáng văn minh Đại Việt, cố kết cộng đồng, mở mang nông nghiệp, bắc thì ba lần đại thắng giặc dữ Nguyên Mông, nam thì mở rộng bờ cõi thêm hai châu Ô Lý… Trải qua các đời vua từ Trần Thái Tông đến Trần Hiến Tông, chính sự nhìn chung là yên ổn, nhân dân được chung hưởng thái bình, thịnh trị.

Sang đến đời vua Trần Dụ Tông thì triều Trần bắt đầu có dấu hiệu sa sút.

Trần Dụ Tông buổi đầu mới lên ngôi được Thượng hoàng Trần Minh Tông dìu dắt, triều chính ổn định, đời sống nhân dân an bình. Thế nhưng lúc mọi việc suôn sẻ nhất cũng là lúc người ta dễ sinh tính tự phụ, chủ quan nhất. Năm 1357, Thượng hoàng Trần Minh Tông mất. Kể từ năm 1358 trở đi, vua Trần Dụ Tông cậy thế nước đang thịnh mà thả sức tiêu pha, hưởng lạc, triều chính gặp nhiều điều sai lầm. Việc xây dựng đền đài cung điện không chừng mực, gian thần lộng quyền làm điều sai trái. Tư nghiệp Quốc tử giám Chu Văn An dâng Thất Trảm sớ, xin chém 7 tên gian thần. Vua không nghe, Chu Văn An bèn xin trả ấn, từ quan. Thế nước ngày càng đi xuống. Giặc cướp bắt đầu nổi lên, các tầng lớp nông dân, nô tì không chịu nổi sự áp bức, cùng nhau nổi dậy chống lại triều đình. Bấy giờ Chiêm Thành không còn thuần phục Đại Việt nữa, nhiều lần cướp phá các châu phía nam, bắt cóc con trai, con gái về làm nô lệ hoặc đem bán.

Trần Dụ Tông từ nhỏ bị mắc bệnh dẫn đến vô sinh. Vua không có con nối, cuối đời lập chiếu truyền ngôi cho người con nuôi của Cung Túc vương Trần Nguyên Dục là Trần Nhật Lễ. Người này tài mọn tâm hèn, gốc gác thực sự là con của người kép hát tên Dương Khương. Vợ Dương Khương là một đào nương có nhan sắc, cùng chồng diễn vở “Tây vương mẫu hiến bàn đào”, bà diễn vai Vương Mẫu nên lấy đó làm tên. Trần Nguyên Dục trông thấy Vương Mẫu thì thích nên cướp về làm vợ mình ngay lúc bà ấy đang mang thai. Nhật Lễ ra đời, Trần Nguyên Dục nhận luôn làm con mình. Nhật Lễ do đó mà được mang họ Trần. Quyết định về người nối ngôi của Trần Dụ Tông có thể nói là vô cùng sai lầm, bởi họ Trần bấy giờ còn khá nhiều trang tài tuấn có thể nối ngôi mà lại truyền ngôi cho Trần Nhật Lễ, một người thực tế không phải con cháu nhà Trần và cũng chẳng có tài đức.

Năm 1369, vua Trần Dụ Tông mất, Hiến Từ Hoàng thái hậu (vợ vua Trần Minh Tông) theo di mệnh lập Nhật Lễ lên ngôi vua. Trần Nhật Lễ lên ngôi rồi, việc triều chính còn tệ hại hơn đời Dụ Tông. Vua thả sức ăn chơi hưởng lạc, đón cha ruột mình là Dương Khương vào cung, ý muốn cải lại họ Dương. Nhật Lễ bỏ thuốc độc giết chết Hiến Từ Hoàng thái hậu vì tỏ thái độ hối hận đã phò tá y lên ngôi. Các quý tộc họ Trần đều căm giận, cùng nhau lập mưu giết đi. Năm 1370, Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Trác cùng một số người tôn thất họ Trần đang đêm đem vũ khí vào cung để giết Nhật Lễ. Việc hành sự vụng về, Nhật Lễ trèo tường trốn được ra ngoài. Đến sáng, Nhật Lễ vào cung lệnh cho quân lính bắt hết cả đám người Trần Nguyên Trác, cả thảy 18 người dự mưu đều bị giết.

Tuy nhiên lúc này thế lực của họ Trần vẫn còn mạnh, cùng nhau liên kết lại. Cung Định vương Trần Phủ cùng các tôn thất là Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc hầu Trần Nguyên Đán, công chúa Thiên Ninh… khởi binh lật đổ Nhật Lễ. Thiếu uý Trần Ngô Lang làm nội ứng. Nhật Lễ phái bao nhiêu quân đi đánh đều trở giáo theo về phe của Trần Phủ cả. Nhật Lễ thua trận, bị giáng làm Hôn Đức công rồi bị giết. Cung Định vương Trần Phủ lên ngôi, tức vua Trần Nghệ Tông.

Nghệ Tông là người nhân hậu, hoà thuận với tôn tộc nhưng thiếu quyết đoán và năng lực kém, không cản được đà suy của nhà Trần. Dưới sự cai trị của Nghệ Tông, quân Đại Việt ngày càng tỏ ra không đủ sức chế ngự Chiêm Thành. Quân Chiêm dưới trướng vua Chế Bồng Nga nhiều lần đánh phá Đại Việt. Năm 1371, quân Chiêm Thành đánh cả vào kinh thành Thăng Long, Trần Nghệ Tông phải bỏ chạy khỏi thành.

Trần Nghệ Tông sau đó truyền ngôi lại cho em là Cung Tuyên vương Trần Kính, tức vua Trần Duệ Tông. Nghệ Tông trở thành Thái thượng hoàng. Trần Duệ Tông được đánh giá là vị vua dũng cảm, quyết đoán hơn anh mình, nhưng lại là người ngạo mạn, nông nổi. Trần Duệ Tông lên ngôi, sửa sang lại binh bị, thế quân Đại Việt lại mạnh. Duệ Tông có ý muốn đem quân báo thù Chiêm Thành. Vua Chiêm là Chế Bồng Nga đem 10 mâm vàng cống nạp cho Đại Việt để hoãn binh, phải giao qua tay Hành khiển Đỗ Tử Bình lúc này làm trấn thủ Hoá Châu. Đỗ Tử Bình lấy vàng đó giấu làm của riêng, rồi tâu lên vua là Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân sang đánh. Trần Duệ Tông chẳng xét tỏ tường, quyết định thân chinh điều động 12 vạn quân đi đánh Chiêm Thành.

Năm 1377, quân Đại Việt đánh sâu vào đất Chiêm Thành, tiến gần đến kinh đô Chà Bàn nước Chiêm. Chế Bồng Nga đặt mai phục quanh thành rồi sai người đến trá hàng, nói rằng vua Chiêm đã chạy trốn, kinh thành bỏ trống không. Vua Trần Duệ Tông trúng kế, thúc quân tiến gấp. Quân Đại Việt vào thành trúng mai phục, thua to, mười phần chết đến bảy tám. Trần Duệ Tông, đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hoà, Hành khiển Phạm Huyền Linh đều tử trận. Ngự Câu vương Trần Húc đầu hàng. Đỗ Tử Bình thống lĩnh hậu quân không đem quân đến cứu, Lê Quý Ly thống lĩnh quân tải lương, nghe tin vua tử trận bèn dẫn quân quay về. Đây là lần duy nhất một vị vua nước Đại Việt chết trận ở nước ngoài. Chẳng những mất vua, Đại Việt còn mất đi những thành phần quân tinh nhuệ bậc nhất. Sau khi Duệ Tông mất, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông lập Trần Hiện (con trưởng Trần Duệ Tông) lên ngôi, quyền binh dần rơi cả vào tay quyền thần Lê Quý Ly. Quân Chiêm Thành càng cố sức tấn công Đại Việt. Giữa hai nước chiến sự liên miên không dứt.

Năm 1378, quân Chiêm Thành đánh vào tận Thăng Long, giết người cướp của rồi rút.
Năm 1380, quân Chiêm lại đánh Đại Việt, đến Thanh Hoá thì bị Lê Quý Ly cầm thuỷ quân đánh lui.
Năm 1382, Lê Quý Ly một lần nữa cùng tướng Nguyễn Đa Phương cầm quân đánh bại quân Chiêm Thành xâm lấn tại Thanh Hoá.

Năm 1383, Lê Quý Ly đem quân tấn công Chiêm Thành, thuyền quân gặp bão tố nên phải lui. Cũng trong năm này, Chế Bồng Nga dẫn quân Chiêm Thành thình lình tấn công bất ngờ, cho tượng binh và quân lính đổ bộ đi đường núi tiến ra Quảng Oai (thuộc Ba Vì, Hà Nội ngày nay). Tướng Lê Mật Ôn đi đánh bị thua và bị bắt sống, quân Chiêm đem quân vây bức kinh thành Thăng Long. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông phải đi trốn tránh ở Đông Ngàn (Bắc Ninh). Tướng Nguyễn Đa Phương ở lại trấn giữ, quân Chiêm đánh đến đầu năm 1384 không hạ được thành, hết lương phải rút lui.

Năm 1389, Chế Bồng Nga đem thuỷ quân hùng hậu tiến đánh Đại Việt. Lê Quý Ly thống lĩnh đại quân dàn trận ở Thanh Hoá để chống giữ. Quân Đại Việt đánh trận đầu bị trúng kế giả thua của quân Chiêm, chết mất đến 70 tướng, thuỷ quân thiệt hại nặng. Lê Quý Ly bỏ quân một mình về triều xin thêm quân tiếp viện, Trần Nghệ Tông không cấp thêm quân. Quý Ly bèn nhân đó xin thôi quyền cầm quân, thực chất là đã sợ giặc. Tướng Nguyễn Đa Phương đơn độc ở lại, đem thuyền lớn giăng cờ xí phô trương thanh thế rồi ngầm sai quân dùng thuyền nhẹ rút lui bảo toàn lực lượng. Thượng hoàng sai Đô tướng Trần Khát Chân đem quân Long Tiệp đi đánh quân Chiêm. Chiến sự dằn co.

Năm 1390, vua Chiêm là Chế Bồng Nga dẫn quân tiến đến Hải Triều (ngã ba sông Luộc và sông Hồng ngày nay), Trần Khát Chân đặt phục binh, dồn hoả pháo bắn vào thuyền vua Chế Bồng Nga, giết chết được vua Chiêm. Quân Chiêm Thành do đó tan vỡ. Tin thắng trận về đến hành cung Bình Than (Nghệ Tông sợ giặc không dám ở trong kinh thành) vào lúc nửa đêm, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ban đầu còn tưởng giặc đã đánh tới nên rất hốt hoảng. Chỉ đến khi thấy được đầu Chế Bồng Nga ông mới nói với mọi người: “Ta với Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ. Thiên hạ yên rồi”

Ấy chỉ là Trần Nghệ Tông nghĩ thế, chứ thực sự thiên hạ vẫn chưa yên được. Các cuộc chiến tranh với Chiêm Thành đã bào mòn sinh lực nước Đại Việt một cách dữ dội. Cộng với việc triều chính thiếu quyết đoán, thiếu sáng suốt của Trần Nghệ Tông đã khiến triều đình Đại Việt thời bấy giờ vô cùng thối nát.

Quốc Huy

https://2.bp.blogspot.com/-llpGcmZHDFo/W-enqzhYpzI/AAAAAAAB-i0/VexjHC6ZTdQf8se7B-avXvH-gubGKiy-ACLcBGAs/s640/71-H%25E1%25BB%2592.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 72

DẸP ĐƯỢC CHẾ BỒNG NGA
NHÀ TRẦM LẠI GIAO TRỨNG CHO ÁC


Trong lúc chính sự triều Trần ngày một đi xuống, một nhân vật đặc biệt đã xuất hiện. Bấy giờ quyền thần Lê Quý Ly đã từng bước thâu tóm quyền lực vào tay mình, một tay che trời. Lê Quý Ly có tổ tiên là Hồ Hưng Dật, làm quan thái thú Diễn Châu cuối thời Bắc thuộc. Tổ bốn đời của Lê Quý Ly là Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên uý Lê Huấn xứ Thanh Hoá, từ đó đổi sang họ Lê. Quý Ly có hai người cô là vợ vua Trần Minh Tông, trong đó có một người là mẹ của cả ba vua Trần Hiến Tông, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông. Vì thế Lê Quý Ly được coi là họ hàng thân thích với hoàng tộc, rất được Nghệ Tông tin dùng, do đó mà có cơ hội tiến thân, thăng dần đến chức Thái sư, Bình chương quân quốc trọng sự (chức quan đầu triều thời Trần), kết bè kết phái lũng đoạn việc chính trị.

Từ lúc Trần Duệ Tông tử trận nơi xứ người, Nghệ Tông lập Trần Hiện lên ngôi. Thấy quyền uy của Lê Quý Ly lớn quá, vua mới lập mưu cùng Thái uý Trần Ngạc: “Thượng hoàng tin yêu ngoại thích là Quý Ly, cho hắn mặc sức làm gì thì làm. Nếu không lo trước đi thì sau sẽ rất khó chế ngự”. Có kẻ nghe việc ấy tiết lộ cho Quý Ly biết được, Quý Ly bèn ra tay trước. Nghe theo mưu kế của Phạm Cự Luận, Lê Quý Ly vào xin Thượng hoàng Trần Nghệ Tông che chở và gièm rằng: “Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để nuôi con”. Nghệ Tông nghe lời gièm pha của Lê Quý Ly mà phế bỏ vua, giáng làm Linh Đức vương rồi giết chết. Sử gọi vua Trần Hiện là Trần Phế đế. Con của Trần Nghệ Tông lên ngôi vua, tức Trần Thuận Tông. Quyền hành bấy giờ thực tế nằm cả trong tay Thượng hoàng Trần Nghệ Tông và Lê Quý Ly.

Thượng hoàng Trần Nghệ Tông không nhận rõ dã tâm của Quý Ly, hết sức che chở. Tướng Nguyễn Đa Phương Quý tộc Trần Nhật Chương lập mưu giết Quý Ly, thượng hoàng biết được bèn xử Nhật Chương tội chết vì cho rằng Nhật Chương “có lòng khác”. Trong triều có Bùi Mộng Hoa dâng thư tấu “Thần nghe trẻ con có câu hát rằng: “Thâm hiểm thay Thái sư ho Lê”. Xem thế, Quý Ly nhất định có ý dòm ngó ngôi báu”. Nghệ Tông đem cả thư ấy cho Lê Quý Ly đọc, Mộng Hoa vì thế mà phải lẩn tránh khỏi quan trường.

Đến khi Trần Nghệ Tông sắp mất, triệu Lê Quý Ly vào nói riêng: “Bình chương là họ thân thích nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho khanh cả. Nay thế nước suy yếu, trẫm thì già nua. Sau khi trẫm chết, Quan gia nếu giúp được thì giúp, nếu hèn kém ngu muội thì khanh cứ tự nhận lấy ngôi vua!”

Quý Ly đáp:“Lúc Linh Đức Vương [tức vua Trần Phế đế] làm điều thất đức, nếu không nhờ oai linh bệ hạ thì thần đã ngậm cười dưới đất rồi, còn đâu được tới ngày nay. Thần dù nát thịt tan xương cũng chưa hề báo đáp lấy một trong muôn phần ơn đức đó, dám đâu lại có lòng khác!”

Quý Ly lại thề độc trước Nghệ Tông rằng:“Nếu thần không biết dốc lòng trung, hết sức giúp Quan gia để truyền đến con cháu về sau thì trời sẽ ghét bỏ thần”

Lời của Thượng hoàng Trần Nghệ Tông và lời của Lê Quý Ly tuy nghe qua thì thật cao đẹp, khẩn thiết, nhưng xét bối cảnh và việc làm về sau thì rõ đây chỉ là những lời nói không thật lòng. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông thì muốn mượn lời để dò ý của Lê Quý Ly, Quý Ly thì dùng lời để che giấu cái dã tâm của mình.

Sau khi Nghệ Tông mất, hầu hết quyền hành vào tay Lê Quý Ly, tự xưng là Phụ Chính Cai Giáo Hoàng Đế (tức người phụ giúp và dạy bảo vua). Vua Trần Thuận Tông chỉ còn là bù nhìn. Những việc mà Lê Quý Ly làm sau khi Nghệ Tông mất hoàn toàn trái với lời thề. Các tôn thất họ Trần và quan lại chống đối lại đều bị Quý Ly giết hại.

Năm 1397, Lê Quý Ly cho xây dựng thành An Tôn (thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hoá), bắt vua Trần Thuận Tông dời đô về đó, đổi trấn Thanh Hoa thành Thanh Đô. Quý Ly lại ép Thuận Tông phải nhường ngôi cho con mới 3 tuổi là Trần An, tức Trần Thiếu đế. Thuận Tông lại bị ép đi tu rồi cuối cùng bị Lê Quý Ly sai người giết chết. Trần Thiếu đế là cháu ngoại của Lê Quý Ly. Thực chất việc nhường ngôi này chỉ là một bước đà để Quý Ly cướp ngôi vua của họ Trần.

Năm 1399, Thượng tướng Trần Khát Chân cùng các quý tộc Trần Hãng, Trần Nhật Đôn, các quan Phạm Khả Vĩnh, Hà Đức Lân, Lương Nguyên Bửu, Phạm Ông Thiện, Phạm Ngưu Tất… hiệp mưu ám sát Lê Quý Ly ở hội thề Đốn Sơn (thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hoá). Sự việc thất bại, Lê Quý Ly thoát chết. Những người dự mưu và có liên quan cả thảy 370 người bị giết, tịch thu gia sản. Những sự lùng giết, bắt bớ kéo dài mấy năm trời. Đây có thể coi là một cuộc đại thanh trừng cuối cùng của Lê Quý Ly đối với những thế lực chống đối.

Năm 1400, cuối cùng cuộc đổi ngôi cũng đã hoàn thành. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép:
“Tháng 2, ngày 28 [Âm lịch], Quý Ly bức vua nhường ngôi và buộc người tôn thất và các quan ba lần dâng biểu khuyên lên ngôi. Quý Ly giả vờ cố tình từ chối nói: “Ta sắp xuống lỗ đến nơi rồi, còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới đất nữa?”.

Rồi tự lập làm vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu, đổi thành họ Hồ”.

Từ đây sử sách gọi là Hồ Quý Ly. Nhà Hồ thay thế nhà Trần. Vua Trần Thiếu đế bị giáng thành Bảo Ninh Đại Vương, vì là cháu ngoại của Hồ Quý Ly nên tránh khỏi hoạ sát thân.
Về việc Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần, các sử sách phong kiến hầu hết đều đánh giá là không chính danh. Triều đại nhà Hồ bị gọi là “nhuận Hồ”, tức là triều phụ, không chính thức.

Sử hiện đại có các nhìn cởi mở hơn, cho rằng việc nhà Hồ thay nhà Trần là tất nhiên lịch sử khi mà các vua cuối của nhà Trần đã trở nên bất lực với vận nước. Hồ Quý Ly nắm quyền bính trong tay, thực chất cũng đã ở vào thế leo lên lưng cọp.

Nhìn chung, mâu thuẫn giai cấp, sự xáo trộn về xã hội, kinh tế cuối triều Trần tuy có tồn tại nhưng không phải là nguyên nhân chính khiến họ Trần mất ngôi. Việc đổi ngôi xét cho cùng vẫn là kết quả của sự đấu đá nội bộ trong giới cai trị đất nước. Hồ Quý Ly đã thắng trong cuộc chiến chốn triều đình, nhưng trước mắt ông là muôn vàn khó khăn đang chờ đón. Họ Trần trải mấy trăm năm, uy tín trong dân rất lớn. Nhà Hồ lên ngôi không được chính danh, nhất thời khó khăn trong việc thu phục lòng dân. Bấy giờ Đại Việt đang trên đà suy yếu, cả một bộ máy hành chính đã thối nát từ gốc đến ngọn vì quản lý nhân sự lỏng lẻo. Trong khi đó, phía nam nước Chiêm Thành chực quấy nhiễu, phía bắc thì triều Minh mới thành lập đang sung sức và có ý nhòm ngó Đại Việt. Thế mới nói, soán ngôi vua đã khó, lo sao cho giữ ngôi được lâu bền, giữ nước được yên ổn càng không phải dễ.

Quốc Huy

https://2.bp.blogspot.com/-5plRRGAJaYk/W_FCY5zaV7I/AAAAAAAB-mE/UgAVW_kLLMwDQfnxvDNcBxdJHhIwYOIMwCLcBGAs/s640/72.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 73

HỒ QUÝ LY VÀ NHỮNG CẢI CÁCH
THAM VỌNG VƯỢT THỜI ĐẠI


Năm 1400, Hồ Quý Ly soán ngôi họ Trần, lập ra triều nhà Hồ. Năm 1401, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, trở thành Thái thượng hoàng cùng vua trị nước. Nói đến những chính sách của nhà Hồ thì phải bắt đầu ngay từ lúc Hồ Quý Ly trở thành quyền thần lũng đoạn triều chính nhà Trần. Hồ Quý Ly được ghi nhận là một nhà cải cách lớn trong lịch sử Việt Nam. Dưới bàn tay của ông, Đại Việt chuyển mình mạnh mẽ từ mô hình nhà nước quý tộc sang mô hình nhà nước quan liêu, với mức độ tập trung quyền lực vào triều đình trung ương được tăng cường lên một mức độ mới. Công cuộc cải cách thời kỳ này vừa có những nét tiến bộ vừa tồn tại không ít những sai sót.

Về tuyển chọn nhân sự, Hồ Quý Ly đã mở đường cho những người có năng lực nhưng không thuộc dòng dõi quý tộc tham gia vào những việc quốc gia quan trọng. Năm 1375, Ông đã tham mưu cho vua Trần Duệ Tông xuống chiếu tuyển chọn các quan viên biết luyện tập võ nghệ, thông hiểu thao lược thì đều có thể làm tướng, không nhất thiết phải là người tôn thất. Thực ra đầu thời Trần cũng có những danh tướng xuất thân ngoài hoàng tộc mà nằm quyền cao như Lê Tần, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái…

Tuy nhiên đó là những trường hợp riêng lẻ, cá biệt chứ chưa là chính sách của triều đình. Dưới sự cầm quyền của Hồ Quý Ly, việc học hành thi cử cũng được định lại quy củ hơn, rộng đường cho những người trí thức tiến thân bằng con đường khoa cử. Phép thi cử thời Hồ được lấy làm chuẩn mực cho nước Việt xuyên suốt mấy trăm năm sau. Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Chính sách của Hồ Quý Ly quả thực đã giúp cho nguyên khí của Đại Việt được mạnh thêm. Tuy nhiên, điều đó không bù đắp nổi những nguyên khí bị mất mát trong cuộc đổi ngôi.

Tầng lớp quý tộc Trần vốn có rất nhiều người được đào tạo tốt về thuật cai trị và binh pháp đã bị giết hoặc phải ẩn dật. Kể cả những quan lại tài giỏi không thuộc hoàng tộc nhưng chống đối lại uy quyền của họ Hồ cũng không tránh khỏi hoạ. Như danh tướng Nguyễn Đa Phương là người mà chính Hồ Quý Ly tiến cử, cùng Hồ Quý Ly sát cánh chống quân Chiêm Thành nhưng rồi sau cũng vì hiềm khích mà bị Hồ Quý Ly gièm pha khiến Đa Phương bị Nghệ Tông giết.

Năm 1396, để trưng thu nguyên liệu đồng trong dân phục vụ cho việc đúc súng, Hồ Quý Ly lệnh cho dân đổi hết tiền đồng sang tiền giấy mang tên Thông Bảo Hội Sao. Những ai làm tiền giả hoặc còn chứa và sử dụng tiền đồng sẽ bị xử tội chết, tịch thu gia sản. Xét ra việc lưu hành tiền giấy vừa giúp tiết kiệm nguyên liệu, vừa có phương thức giao dịch tiến bộ. Tuy nhiên chính sách tiền giấy của Hồ Quý Ly phạm phải lỗi cơ bản là đi ngược nguyên tắc tiền tệ phải có đủ cơ sở để nhân dân tin tưởng vào giá trị giao dịch của nó. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá chưa thực sự phát triển hoàn thiện, tự thân tiền đồng được đảm bảo giá trị bằng vật liệu làm ra tiền. Khi đổi sang tiền giấy, tâm lý người dân thời kỳ này đa phần cho rằng giấy là vật liệu giá trị thấp, dẫn đến hoài nghi về tiền tệ mới. Điều đó khiến cho đời sống nhân dân bị xáo trộn rất lớn, ảnh hưởng đến uy tín của triều đình với nhân dân.

Năm 1397, Hồ Quý Ly muốn tách vua khỏi đất căn bản để dễ bề soán ngôi nên đổi trấn Thanh Hoa làm trấn Thanh Đô, cho xây dựng thành An Tôn, ép vua Trần Thuận Tông phải dời đô về đó. Kinh đô mới gọi là Tây Đô. Kinh đô cũ là Thăng Long đổi thành lộ Đông Đô. Về việc này, một số quan lại đã không đồng tình, hết sức can gián. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng biểu: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Nguỵ dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ[ chỉ Thăng Long] có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị [tức sông Hồng], núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa, các bậc đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất làm nơi sâu gốc bền rễ. Hãy nên noi theo việc trước: khi ấy quân Nguyên bị giết, giặc Chiêm phải nộp đầu... Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nước nhà. An Tôn đất đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị. Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm”. Kể cả Hành khiển Phạm Cự Luận là người tâm phúc của Quý Ly cũng khuyên không nên. Nhưng bất chấp tất cả, Hồ Quý Ly vẫn cho dời đô.

Cũng trong năm 1397, Hồ Quý Ly xuống lệnh định lại cơ chế các địa phương “Lộ trông coi phủ, phủ trông coi châu, châu trông coi huyện. Các việc hộ tịch, tiền thóc, ngục tụng đều làm chung thành sổ sách của một lộ, đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng cứ mà khảo xét”. Trách nhiệm các cấp liên đới nhau từ trên xuống dưới, việc quản lý của triều đình nhờ đó mà dễ dàng hơn. Xuyên suốt thời kỳ chuyên chính đến khi soán ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly nhiều lần thay đổi hành chính ở các địa phương, cốt là để việc cai trị của triều đình trung ương được thông suốt, hạn chế tình trạng cát cứ địa phương.

Để chia nhỏ thế lực của giới quý tộc, Hồ Quý Ly ban hành chính sách “hạn điền”: “Đại vương và trưởng công chúa thì số ruộng không hạn chế; đến thứ dân thì số ruộng là 10 mẫu. Người nào có nhiều nếu có tội, thì cho tuỳ ý được lấy ruộng để chuộc tội, bị biếm chức hay mất chức cũng được làm như vậy. Số ruộng thừa phải hiến cho nhà nước”.Hồ Quý Ly sai quan làm lại sổ ruộng đất rất kỹ. Những ruộng quá hạn làm sổ mà chưa kê khai, cắm tên chủ trên mảnh ruộng thì bị sung công. Chính sách hạn điền trên thực tế là một cuộc cải cách ruộng đất nhằm thâu tóm thêm ruộng công cho nhà nước, giảm số ruộng tư, hạn chế thế lực của các địa chủ lớn.

Một chính sách khác để kìm chế giới quý tộc cũ là chính sách “hạn nô”: “Chiếu theo phẩm cấp được có số lượng khác nhau, còn thừa phải dâng lên, mỗi tên được trả 5 quan tiền. Người nào đáng được có gia nô phải xuất trình chúc thư 3 đời. Nô người nước ngoài thì không theo lệ này”. Hạn nô hoàn toàn không phải là một chính sách để giải phóng nô lệ mà chẳng qua chỉ là một thủ đoạn chính trị của Hồ Quý Ly nhắm vào giới quý tộc cũ. Các chính sách hạn điền, hạn nô có mặt lợi là gần như ngay lập tức nó đánh quỵ nền tảng kinh tế, xã hội của những tàn dư triều đại cũ, giúp cho nhà Hồ nhanh chóng ổn định đất nước, tránh khỏi những nguy cơ nội chiến tiềm tàng. Mặt trái của nó là đã động vào những nhóm lợi ích cơ bản của xã hội Đại Việt đương thời, làm cho họ Hồ khi lên ngôi mất đi sự ủng hộ của các tầng lớp nắm giữ tài lực, cũng là tầng lớp có uy tín, có thế lực nhất trong đất nước.

Nhìn chung, có thể nói Hồ Quý Ly là một nhà cải cách táo bạo và có những tư tưởng tiến bộ so với thời đại. Tuy nhiên, vì trong tình thế chuyển giao triều đại đòi hỏi phải có những biện pháp bất thường, Hồ Quý Ly đã có nhiều bước đi nóng vội, thậm chí sai lầm. Những điều đó đã xoáy sâu khoảng cách giữa triều đình và nhân dân, tai hại nhất là nó gây nên một cuộc khủng hoảng lòng tin lớn trong xã hội. Thiếu lòng tin, sức mạnh của đất nước cũng suy giảm trước những bão táp phía trước.

Quốc Huy

https://4.bp.blogspot.com/-LD7BmYN45L8/W_ohfSV6IvI/AAAAAAAB-oI/GwQkNjEIhT4WfyWDzi-HK_kK7kAnOYVCwCLcBGAs/s640/73.PNG

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 74

HỒ QUÝ LY VÀ MỤC TIÊU
1 TRIỆU QUÂN CHỐNG PHƯƠNG BẮC


Để có quân đông, nhà Hồ lệnh cho cả nước làm sổ hộ tịch. Phàm những người từ 2 tuổi trở lên đều phải biên vào sổ. Từ khi việc làm hộ tịch đã hoàn tất, số dân đinh từ 15 đến 60 tuổi thống kê được đã tăng gấp đôi. Bấy giờ trong nước có quá đông nhà sư, nhiều người mượn tiếng tu hành mà trốn tránh việc đời. Hồ Quý Ly lệnh bắt tất cả những sư dưới 50 tuổi phải hoàn tục. Lại lệnh cho các nhà sư phải thi về kinh Phật, ai thi đạt mới được tiếp tục tu hành. Nhờ những chính sách này, quân số Đại Việt tăng vượt bậc so với các đời trước.

Tuy nhiên đó cũng chỉ là trên lý thuyết bởi điều động được quân lính là một chuyện, huấn luyện và trang bị cho quân lính lại là chuyện khác nữa. Rốt cuộc, khi tiến hành chiến tranh thì nhà Hồ vẫn không thể có được 100 vạn quân chiến đấu. Trái lại, việc phát triển quân đội theo chiều rộng mà bỏ bê chiều sâu khiến cho tinh thần chiến đấu của quân Đại Việt bấy giờ nhìn chung không cao. Các tướng nhà Hồ khi đánh Chiêm Thành phải dùng nghiêm lệnh, ai sợ hãi thì bị chém ngay, vợ con, điền sản đều bị tịch thu sung công. Bấy giờ quân lính mới chịu liều chết đánh giặc.

Về vũ khí, ngoài các loại vũ khí truyền thống thì Thần Cơ Thương Pháo của quân Đại Việt thời Hồ là một trong những loại vũ khí tối tân hàng đầu thế giới thời bấy giờ, với những sự kế thừa từ súng đại pháo cuối thời Trần và những cải tiến đáng kể của Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng, người con trai cả của Hồ Quý Ly. Để trưng thu nguyên liệu đồng trong dân phục vụ cho việc đúc súng, Hồ Quý Ly lệnh cho dân đổi hết tiền đồng sang tiền giấy mang tên Thông Bảo Hội Sao. Những ai làm tiền giả hoặc còn chứa và sử dụng tiền đồng sẽ bị xử tội chết, tịch thu gia sản. Xét ra việc lưu hành tiền giấy vừa giúp tiết kiệm nguyên liệu, vừa có phương thức giao dịch tiến bộ.

Tuy nhiên chính sách tiền giấy của Hồ Quý Ly phạm phải lỗi cơ bản là đi ngược nguyên tắc tiền tệ phải có đủ cơ sở để nhân dân tin tưởng vào giá trị giao dịch của nó. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá chưa thực sự phát triển hoàn thiện, tự thân tiền đồng được đảm bảo giá trị bằng vật liệu làm ra tiền. Khi đổi sang tiền giấy, tâm lý người dân thời kỳ này đa phần cho rằng giấy là vật liệu giá trị thấp, dẫn đến hoài nghi về tiền tệ mới. Điều đó khiến cho đời sống nhân dân bị xáo trộn rất lớn, ảnh hưởng đến uy tín của triều đình mới với nhân dân.

Thời kỳ Hồ Quý Ly chuyên chính đến xuyên suốt triều Hồ, nhiều thuyền chiến lớn nhỏ được đóng mới liên tục để bổ sung cho những mất mát trong chiến tranh và để làm đội thuyền dự bị. Dưới sự thiết kế và đốc công của Hồ Nguyên Trừng, quân Đại Việt phát triển hai loại chiến thuyền mới. Một loại là thuyền đóng đinh sắt ngoài vỏ, đặt tên là Trung Tàu Tải Lương. Một loại là thuyền chiến lớn có hai lầu, cũng đóng đinh sắt ngoài vỏ, chở được nhiều quân lính, có thể mang trọng pháo, tên gọi là Tải Lương Cổ Lâu. Sở dĩ hai loại thuyền đều gọi là thuyền “tải lương” là để tránh sự dò thám của nước Minh. Ngoài việc chỉ huy đúc súng và đóng thuyền, Hồ Nguyên Trừng còn là người chỉ huy các việc xây thành, việc đào kênh, đắp đê, vét sông phục vụ dân sinh và quân sự.

Ngoài hệ thống các ngạch quân đã có từ đời Trần, năm 1405 Hồ Hán Thương cho thành lập thêm 12 vệ quân Nam ban và Bắc ban, 18 vệ quân Điện hậu đông và tây, mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 18 người. Đại quân gồm 30 đội, trung quân gồm 20 đội, doanh gồm 15 đội, đoàn gồm 10 đội, cấm vệ đô gồm 5 đội. Đại tướng quân trông coi tất cả. Quân Long Tiệp được tăng cường thêm hai vệ Thiên Ngưu và Phủng Thần, đặt chức Thuỷ quân đô tướng và Bộ quân đô uý trông coi. Hương binh cũng được tuyển mộ thêm nhiều. Những người nghèo khổ mà khoẻ mạnh sung vào quân dũng hãn, giao cho Thiên hộ, Bách hộ cai quản.

Thời kỳ cuối nhà Trần đến nhà Hồ là thời kỳ mà Đại Việt chịu sự đe doạ lớn từ cả nước Minh phía bắc lẫn nước Chiêm Thành phía nam, lại thêm trong nước đảng cướp nổi lên rất nhiều. Có thể nói là ở trong tình thế rất khó khăn. Để chống lại những sự đe doạ đó, Hồ Quý Ly có đường lối khác nhau. Đối với nước Chiêm Thành, quân Đại Việt thẳng thừng sử dụng ưu thế về quốc lực, quy mô quân đội mà đánh phủ đầu. Đối với nước Minh, Đại Việt tỏ ra mềm mỏng, trong nước thì tăng cường xây dựng thành trì phòng thủ. Thành Đa Bang được xây dựng ở Cổ Pháp (thuộc Ba Vì, Hà Nội ngày nay) rất kiên cố, tường thành cao, hào sâu, dọc sông cắm cọc gỗ, giăng xích sắt. Xung quanh thành Đa Bang là hàng loạt các chiến luỹ, đồn quân. Ngoài thành Đa Bang, nhà Hồ còn xây dựng nhiều thành trì bằng gạch rất dày như thành Đông Đô (Hà Nội ngày nay), thành Tây Đô (An Tôn, Thanh Hoá)… Trong nước đâu đâu cũng có chiến luỹ, công sự dự phòng.

Nhìn chung, quân Đại Việt thời Hồ có thể nói là đội quân đông đảo, đã trang bị tốt, có thành trì vững chắc. Thế nhưng, đội quân này lại có những điểm yếu cốt tử. Những tướng lĩnh chỉ huy chủ chốt của quân đội nhà Hồ chỉ có năng lực trung bình hoặc yếu kém, thường hay có những quyết định sai lầm. Vì chú trọng chiều rộng nên không có đủ thời gian huấn luyện bài bản, quân đội thời này kém xa quân Đại Việt nhà Trần lúc cực thịnh về độ tinh nhuệ, tinh thần chiến đấu. Đường hướng chiến thuật thiên nhiều về phòng ngự, thủ thành vốn không phải là sở trường của một đạo quân người Việt truyền thống.

Các chiến thắng oanh liệt của Đại Việt đời trước đều dựa nhiều vào dã chiến, giao tranh ngoài thành trì, chủ động đánh và rút, cơ động nhanh bằng thuyền nhẹ. Triết lý xây dựng quân đội của Hồ Quý Ly hoàn toàn trái với lời dạy của Hưng Đạo vương xưa là “giặc cậy trường trận, ta có đoản binh”. Do nhà Hồ thành lập không được chính danh, lại thêm vội vàng tiến hành cải cách trái với ý nguyện của nhiều tầng lớp nhân dân, quân đội vì thế mà thiếu đi sự ủng hộ của dân chúng và giới tinh hoa. Đúng như Nguyễn Trãi đã nói trong Bình Ngô Đại Cáo là “chính sự phiền hà”, quân đội nhà Hồ do đó mất đi khả năng tiến hành chiến tranh nhân dân. Đó cũng là điểm yếu lớn nhất của quân đội nhà Hồ.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-Hp1omJv2hkM/XANbgowQTUI/AAAAAAAB-pk/yuVBHJylSo0PpiQHQOdaSAYd4eXJOZH7gCLcBGAs/s640/74.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 75

CHU NGUYÊN CHƯƠNG
VÀ DÃ TÂM XÂM LƯỢC ĐẠI VIỆT


Cuối thế kỷ 14, đương lúc nước Đại Việt chìm trong khủng hoảng và bước vào giai đoạn chuyển giao quyền lực thì ở phương bắc cũng diễn ra những cuộc tranh hùng khốc liệt. Đế chế Nguyên Mông bấy giờ bước vào giai đoạn suy tàn, nhân dân trong nước đồng loạt nổi dậy. Từ trong đống tro tàn của đế chế Nguyên Mông, một đế chế mới ra đời. Chu Nguyên Chương, một trong những lãnh tụ khởi nghĩa chống quân Nguyên đã đánh đuổi thế lực Nguyên Mông ra khỏi hai đồng bằng Trường Giang, Hoàng Hà. Thế lực Nguyên Mông vẫn tồn tại ở thảo nguyên phía bắc một thời gian dài, sử gọi là Bắc Nguyên. Đồng thời với việc đánh đuổi quân Nguyên, Chu Nguyên Chương còn lần lượt đánh bại các thế lực quân phiệt mang danh nghĩa chống Nguyên khác để lên ngôi hoàng đế vào năm 1368, sử gọi là Minh Thái Tổ. Kế thừa phần lớn lãnh thổ mà đế quốc Nguyên Mông đã chinh phục trong hàng trăm năm, Minh Thái Tổ đặt tên cho đất nước của mình là Đại Minh, Kim Lăng được chọn làm kinh đô, đổi tên thành Nam Kinh.

Nước Minh ngoài việc thừa kế lãnh thổ rộng lớn của đế quốc cũ, còn tiếp thu nhiều tiến bộ về kinh tế, quân sự, xã hội của thời kỳ trước. Quân Minh vừa có số đông, vừa có nhiều vũ khí tiên tiến và cơ cấu tổ chức phỏng theo quân đội Mông Cổ. Với khí thế của một đế chế mới nổi lên, Minh triều cũng có tham vọng bành trướng và đã sớm nhòm ngó đến nước ta.

Năm 1377, sau khi hay tin vua Trần Duệ Tông nước Đại Việt tử trận, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã có ý định thừa cơ hội để cất quân sang đánh. Tuy nhiên bấy giờ Minh triều mới lập, mối đe doạ từ Nguyên Mông vẫn còn lớn. Vả lại nội bộ triều Trần vẫn còn đoàn kết, quân dân vẫn đồng lòng với triều đình nên khiến nước Minh chùn tay. Biết được rằng Thượng hoàng Trần Nghệ Tông đã lập con trai thứ của Trần Duệ Tông là Trần Hiện (tức Trần Phế Đế) lên ngôi thay cho cha mình vừa tử trận, Thái sư Lý Thiện Trường của Minh triều đã can rằng: “Em chết vì nạn nước mà anh lập con của em lên. Xem việc người như vậy, thì có thể biết được mệnh trời”. Vua Minh nghe theo lời ấy, bèn tạm ngưng kế hoạch xâm lược.

Về sau, thế lực Minh triều ngày càng hùng mạnh. Năm 1381, quân Minh tấn công Vân Nam, bấy giờ đang thuộc kiểm soát của Lương vương Mông Cổ tên là Bả Táp Lạt Ngoã Nhĩ Mật (Basalawarmi), quân Minh nhanh chóng chiếm thế thượng phong. Đến năm sau, Lương vương phải tự sát vì thua trận. Minh triều chiếm được Vân Nam, tiến hành tiễu trừ tàn quân Nguyên Mông còn sót lại. Trong quá trình tấn công Vân Nam, vua Minh cho người sang Đại Việt yêu cầu cung cấp lương thực cho quân Minh. Triều đình nhà Trần lúc này bạc nhược nên đành phải nghe theo, đem lương thực đến huyện Thuỷ Vĩ cấp cho quân Minh. Vậy nhưng Minh triều vẫn chưa vừa lòng vì chúng muốn người nước ta phải đem lương thực giao tận thành Lâm An. Nhà Trần phải Triều phụng đại phu Lê Á Phu, Thiếu trung đại phu Đỗ Tử Trừng dẫn sứ đoàn sang biện giải. Trên đường đi khó nhọc, lam chướng, nhiều người trong sứ đoàn Đại Việt bị chết dọc đường. Rõ ràng khí thế ngoại giao thời Trần mạt khác hẳn với phong độ của nhà Trần lúc hưng thịnh. Thời thịnh thì dù nhún nhường vẫn có phong độ, thời mạt thì thụ động đến thê lương.

Chính vì nhận thấy sự bạc nhược của vua tôi nhà Trần, nước Minh được thể càng ngày càng lấn tới, hết đòi giúp lương, cống phẩm đến đòi cống người. Nhà Trần trước tiên phải cống những đàn ông đã bị thiến sang nước Minh làm thái giám. Về sau có thái giám người Việt tên là Nguyễn Tông Đạo được vua Minh tin dùng. Tông Đạo kề cận vua Minh tâu rằng: “Tăng nhân nước Nam biết dựng đạo tràng giỏi hơn tăng nhân phương Bắc”. Vua Minh Thái Tổ nhân đó mà sai sứ sang đòi Đại Việt phải cống nhà sư. Nhà Trần tuyển lấy 20 nhà sư đem sang Kim Lăng cống cho ngoại bang. Việc cống người xưa nay là mối nhục cho quốc gia mà các bậc minh quân nước ta luôn tìm cách tránh khỏi. Nhưng bởi vì Trần triều bấy giờ đã suy yếu, lại bị uy hiếp ở cả hai hướng bắc (nước Minh) và nam (nước Chiêm Thành) nên phải chịu nhục.

Kế đó, Tông Đạo lại tâu: “hoa quả phương Nam có nhiều thứ ngon”. Vua Minh cũng nghe lời, sai người sang nước ta đòi nộp các giống cây cau, vải, mít, nhãn… Đại Việt sai sứ đem giống sang nộp nhưng dọc đường cây giống đều chết rét. Nguyễn Tông Đạo là người nước Đại Việt nhưng khi làm quan cho Minh triều thường đem sự tình nước Đại Việt khai báo cho vua Minh biết, từ việc nội tình triều chính, nhân vật hay dở đến việc cỏ cây, sản vật… Tông Đạo là người giỏi xu nịnh, thường đem sự trù phú nước ta ra để khoe mẽ với vua tôi nước Minh, khiến cho họ nổi lòng tham, liền năm nào đòi người, đòi của. Triều đình Đại Việt sợ thế lực quân Minh đang lên nên liên tiếp chiều theo. Việc đó càng làm Tông Đạo được tin dùng. Tông Đạo nhân đó càng khua môi mưu cầu danh lợi, nuôi thêm ý chí xâm lăng của Minh triều. Đại hoạ của nước ta bắt đầu từ những kẻ xu nịnh như Nguyễn Tông Đạo.

Năm 1386, Minh triều mượn tiếng sắp đem quân đi đánh Chiêm Thành, sai Cẩm y vệ xá nhân Lý Anh sang Đại Việt đòi mượn đường, đòi Đại Việt phải đặt dịch trạm dài từ biên giới đến tận Nghệ An cho quân Minh đi qua, yêu cầu nước ta phải cung cấp lương thảo cho quân Minh và đem 50 thớt voi cống sang Vân Nam. Triều Trần phải làm dịch trạm tích trữ lương thực rồi đem sang Vân Nam. Riêng việc cống voi là việc khó nên không thể làm được. Mặc dù trên thực tế nước Minh vẫn chưa đủ tiềm lực để tiến sang nước ta trong năm này nhưng với hành động làm dịch trạm để đón giặc, vua tôi nhà Trần đã làm mất đi tính tự chủ của đất nước đối với phương bắc.

Đến năm 1388, Trần Nghệ Tông nghe lời gièm của Lê Quý Ly giết vua Trần Phế Đế, lập con mình là Trần Ngung lên ngôi, tức vua Trần Thuận Tông. Kể từ đó, cương thường của triều Trần càng loạn. Nước Minh có ý nhòm ngó Đại Việt nên thường dung túng cho bọn đầu trộm đuôi cướp đã thất thế ở nước ta mà chạy trốn sang đất Minh nương náu. Trong chiến sự Đại Việt – Chiêm Thành, những lúc Chiêm Thành thắng thế thì một số thổ hào Đại Việt ở biên giới phía nam đã theo giặc. Đến năm 1390, Đô tướng Trần Khát Chân đánh đuổi được quân Chiêm, giết chết vua kiệt hiệt của người Chiêm là Chế Bồng Nga, thế quân Đại Việt lại lên. Chiêm Thành bại trận phải rút quân, triều đình Đại Việt sau khi giành lại quyền kiểm soát các châu phía nam đã tổ chức đánh dẹp các thổ hào địa phương theo giặc. Một số thổ hào sợ hãi, sớm giải giáp đầu hàng nên được tha. Một số khác họp nhau chống lại, tuyên truyền lừa dối nhân dân và bắt phải theo chúng đánh lại triều đình. Quân nhà Trần đánh bại các kẻ cầm đầu chống đối là Nguyên Đĩnh, Nguyễn Động, Nguyễn Doãn, Hoàng Khoa, Nguyễn Khang, Trần Tông… Nguyên Đĩnh, Trần Tông phải nhảy sông tự sát. Thuộc hạ của Trần Tông là Nguyễn Khang chạy thoát được, trốn sang nước Minh, đổi họ tên thành Trần Thiêm Bình, mạo xưng là con cháu họ Trần. Thiêm Bình được Minh triều thu nhận, cùng nhữngvong bản khác làm tay sai phục vụ cho mưu đồ bành trướng về sau.

Sự ngang ngược của Minh Thái Tổ lên đến đỉnh điểm khi vào năm 1395, nhân lấy cớ đánh dẹp các tù trưởng ở phía nam nước Minh, vua Minh sai sứ là Nhâm Hanh Thái sang Đại Việt xin giúp cho 5 vạn quân, 50 thớt voi, và 50 vạn thạch lương thực dẫn đến biên giới để quân Minh dùng cho việc đánh dẹp. Thực ra đấy chỉ là kế hù doạ vua tôi nhà Trần để tiện tay bắt người ở ngoài biên mà nhà Trần không dám chống lại, rồi sau đó đưa ra những yêu sách khác nằm trong khả năng đáp ứng của Đại Việt. Nhâm Hanh Thái sang đến nước ta, mật báo với triều đình Đại Việt biết mưu. Vì vậy, vua Trần chỉ đem một ít gạo xấu đến Đồng Đăng giao nộp. Liền sau đó có sứ giả Minh triều sang đề nghị cống nhà sư, phụ nữ xoa bóp, người bị thiến, mỗi loại một ít.

Mặc dù tỏ thái độ hạch sách, thực sự trong toan tính của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương lúc bấy giờ vẫn chưa hạ quyết tâm xâm lược nước Đại Việt. Chiến tranh với Bắc Nguyên bào mòn quốc lực của nước Minh rất nhiều, đe doạ trực tiếp đến sự tồn vong của đế chế. Vua Minh cũng vướng vào cuộc đại thanh trừng nhắm vào các kiêu binh, hãn tướng của mình. Nội bộ Minh triều có quá nhiều vấn đề, không cho phép Minh Thái Tổ mạo hiểm đem quân tấn công Đại Việt. Triều đình nhà Trần chỉ thấy được sức mạnh của nước Minh mà không thấy được sự khó khăn của họ nên rất sợ hãi và thụ động, trúng vào kế của Chu Nguyên Chương, trước sau bị đe doạ mà chịu mất mát người và của, chịu chèn ép đủ điều.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-GFRzhZtmbp4/XBCHlxtjFJI/AAAAAAAB-rI/LOfW-IHnk4we3Vpwe5fOtFWvICs4irCUwCLcBGAs/s640/75.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 76

BẠO CHÚA NHÀ MINH TRÁI LỜI CHA
MUỐN XÂM LĂNG NƯỚC VIỆT


Thái độ của Minh Thái Tổ đối với Đại Việt không nhất quán, thay đổi theo hoàn cảnh. Từ lúc mới lập nên triều Minh, ông đã có ý muốn thôn tính nước ta. Tuy nhiên, vua Minh về sau nhận ra rằng nước Minh còn có nhiều vấn đề quan trọng hơn việc thôn tính Đại Việt. Nhân việc triều đình nhà Trần lúc này tỏ thái độ quá bạc nhược, thụ động, Minh Thái Tổ mới muốn dùng uy vũ hù doạ rồi qua đó hạch sách nước ta kiếm lợi, không đánh mà khiến Đại Việt phải dần trở thành nước lệ thuộc. Triều đình nhà Trần lúc này dưới sự cai trị kém cỏi của những người như Trần Nghệ Tông, Trần Phế Đế, Trần Thuận Tông đã không đủ dũng khí để bảo vệ danh dự, lợi ích, quyền tự chủ của nước Đại Việt trước nước Minh.

Năm 1398, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương chết. Trước đó, ông đã viết Hoàng Minh Tổ Huấn để răn dạy các vị vua kế nhiệm. Trong tác phẩm này, Minh Thái Tổ đã nói rõ mối nguy mà các vua đời sau cần lưu tâm, cũng như những nước không nên đánh. Mặc dù văn phong trong tác phẩm này thể hiện sự tự tôn thái quá của một vị vua Trung Hoa, nhưng nó cũng thể hiện được tầm nhìn của Chu Nguyên Chương về giá trị của hoà bình:

“… Những nước Di bốn phương đều núi ngăn biển cách, lánh tại một góc, lấy được đất họ không đủ để cung cấp, thu được dân họ không đủ để sai khiến. Nếu họ không tự biết suy xét mà đến gây nhiễu biên giới nước ta thì đấy là điều không may. Nhưng bên ấy không làm hại Trung Quốc mà ta lại dấy binh đi đánh họ thì cũng là điều không may vậy. Trẫm sợ con cháu đời sau cậy vào sự giàu mạnh mà tham chiến công một thời, vô cớ dấy binh dẫn đến tổn hại mạng người, hãy nhớ kĩ là không được làm như vậy! Nhưng người Hồ - Nhung kề biên giới phía tây bắc, liền tiếp lẫn nhau, nhiều đời tranh chiến, thì phải chọn tướng rèn binh, lúc nào cũng nên phòng giữ cẩn thận. Nay đề tên những nước Di không được đánh, xếp đặt ở sau đây:

Phía đông bắc:
- Nước Triều Tiên
Phía chính đông lệch bắc:
- Nước Nhật Bản
Phía chính nam lệch đông:
- Nước Đại Lưu Cầu [Okinawa]
- Nước Tiểu Lưu Cầu [thuộc Okinawa]

Phía tây nam:
- Nước An Nam [Đại Việt]
- Nước Chân Lạp [Khmer]
- Nước Xiêm La [Sukhotai]
- Nước Chiêm Thành
- Nước Tô Môn Đáp Lạt [Sumatra]
- Nước Tây Dương
- Nước Trảo Oa [Java]
- Nước Bồn Hanh
- Nước Bạch Hoa
- Nước Tam Phật Tề [Srivijaya]
- Nước Bột Nê [Borneo]”

Hoàng Minh Tổ Huấn là chiêm nghiệm từ suốt cả một quá trình tạo dựng nên sự nghiệp của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Chung quy lại những lời trên, vị vua khai sáng nước Minh đã chỉ ra rằng lãnh thổ của Minh triều đã rất rộng lớn và trù phú, các vua kế vị nên tập trung bảo vệ đất nước khỏi những đe doạ bên ngoài để tạo dựng một đế chế thanh bình, vững chắc. Việc xâm lược những nước không gây hại đến nước mình chỉ là việc tham công nhất thời, đem lại những lợi ích nhỏ nhoi mà không phải là việc nên làm cho lợi ích lâu dài. Điều đó rất đúng với câu nói trong sách Tư Mã Pháp của tác giả Tư Mã Nhương Thư nước Tề thời Xuân Thu: “Nước tuy lớn, hiếu chiến tất vong”.

Chúng ta cần biết rằng việc cuối đời Chu Nguyên Chương từ bỏ ý tưởng xâm lược Đại Việt chủ yếu xuất phát từ động cơ bảo vệ lợi ích của nước Minh. Bởi kể từ khi Chu Nguyên Chương đánh đuổi Nguyên Mông về bắc đến khi ông chết, mối đe doạ từ đế chế Nguyên Mông ở phía bắc mà sử sách gọi là Bắc Nguyên vẫn luôn là mối đe doạ lớn của nước Minh. Mặc dù người Mông Cổ không có được sự đoàn kết cần thiết, bù lại quân đội Bắc Nguyên có thành phần là những chiến binh thảo nguyên thiện chiến, nhiều lần khiến quân Minh chịu thương vong lớn. Việc gây chiến với các lân bang thân thiện khác sẽ khiến cho nước Minh chuốc thêm thù oán, tăng nguy cơ quân đội bị sa lầy ở nước ngoài hoặc tự đặt mình vào thế lưỡng đầu thọ địch. Người Trung Hoa vốn không thiếu những bài học đắt giá về sự hiếu chiến, kể cả lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn. Rất tiếc rằng, đời vua sau của nước Minh đã không nghe theo lời của Minh Thái Tổ. Sau khi vua khai sáng của nước Minh chết, đất nước mới này xảy ra biến động lớn rồi từ đó một bạo chúa đã lên ngôi.

Minh Thái Tổ nhường ngôi cho hoàng thái tôn Chu Doãn Văn, tức Minh Huệ Đế. Vị vua này vì muốn tập trung quyền lực vào tay triều đình trung ương đã thi hành chính sách Bãi Phiên, tức bãi bỏ chế độ phân phong cho các phiên vương. Những phiên vương vốn là con cháu hoàng tộc họ Chu, được Minh Thái Tổ phong đất đai, có quân đội riêng trong lãnh địa.

Chính sách bãi phiên khiến cho các phiên vương nổi lên chống lại triều đình. Trong số đó, Yên vương Chu Đệ, con trai thứ thư của Chu Nguyên Chương là người có quân đội mạnh và có tài lãnh đạo. Chu Đệ cuối cùng đánh bại được Minh Huệ Đế trong cuộc nội chiến, cướp được ngôi vua nước Minh. Năm 1402, Chu Đệ lên ngôi vua, tức Minh Thành Tổ (hay Minh Thái Tông) trong sử sách.

Mặc dù là một vị vua có tầm nhìn, có tài năng nhưng Minh Thành Tổ cũng nổi tiếng là một con người tàn bạo. Dưới sự cai trị của ông, một mặt nước Minh nối tiếp đà phát triển mạnh từ thời Minh Thái Tổ, mặc khác cũng là một xã hội hà khắc với đủ thứ nghiêm hình dành cho những hành vi chống đối hay bị coi là chống đối.

Lúc bấy giờ tại nước ta, nhà Hồ đã thay thế nhà Trần, đặt tên nước là Đại Ngu, vua đương nhiệm là Hồ Hán Thương, con trai thứ của Hồ Quý Ly. Thái thượng hoàng Hồ Quý Ly vẫn cùng con mình trông coi chính sự. Chiến tranh với Chiêm Thành vẫn dai dẳng, mặc dù Đại Ngu đã lấy lại được thế thượng phong. Minh Thành Tổ theo đuổi chính sách ngoại giao hiếu chiến với Đại Ngu, hoàn toàn trái ngược với lời di ngôn của Minh Thái Tổ trong Hoàng Minh Tổ Huấn.Sứ giả nước Minh liên tiếp sang Đại Ngu hạch hỏi về việc con cháu họ Trần còn hay không để uy hiếp vua nhà Hồ. Vua Hồ Hán Thương phải nói dối rằng con cháu họ Trần không còn ai, hòng được Minh triều công nhận làm An Nam Quốc Vương như một thông lệ ngoại giao.

Minh Thành Tổ không tin, lại phái Hành nhân Dương Bột sang đem thư chiêu dụ dân chúng, quan lại nước ta hỏi xem lời của Hồ Hán Thương có thật hay không. Vua Hồ phải sai sứ sang Minh nộp tờ cam đoan của phụ lão trong nước rằng vua Hồ Hán Thương nói thật. Bấy giờ Minh Thành Tổ mới phong tước cho Hồ Hán Thương làm An Nam Quốc Vương. Thực chất việc làm của Minh Thành Tổ chỉ là một bước đi hòng lung lạc tinh thần quân dân nước Đại Ngu, làm “chính danh” cho âm mưu xâm lược của mình.

Năm 1403, Đại tướng quân nước Đại Ngu là Phạm Nguyên Khôi nhận lệnh vua Hồ đem 20 vạn quân thuỷ bộ tấn công Chiêm Thành. Vua tôi nước Chiêm cho người sang cầu cứu nước Minh. Minh Thành Tổ Chu Đệ lệnh đem 9 thuyền chiến lớn sang cứu viện cho Chiêm Thành. Trong cuộc chiến này, tướng nước Đại Ngu dùng quân lệnh rất nghiêm nên quân lính liều mình chiến đấu, vây bức được kinh thành Chà Bàn. Tuy nhiên quân Đại Ngu vấp phải sự cố thủ kiên cường của quân Chiêm Thành. Thành Chà Bàn vẫn không bị hạ sau nhiều tháng. Cuối cùng, quân Đại Việt phải rút lui vì hết lương thực. Đến khi quân Đại Ngu rút về thì binh thuyền nước Minh mới đang trên đường tới Chiêm Thành.

Hai hạm đội của Đại Ngu và Đại Minh gặp nhau ngoài biển. Quân Minh ít hơn, vốn định sang phối hợp với quân Chiêm nhưng nay lại gặp quân Đại Ngu trong hoàn cảnh đơn độc. Tướng Minh mới cho người sang nói với Phạm Nguyên Khôi rằng đôi bên nên rút quân về, không nên ở lại. Thuyền của Đại Ngu đông mạnh hơn nhiều lần, nhưng tướng Phạm Nguyên Khôi không dám đánh vì sợ người Minh kiếm cớ động binh lớn. Rốt cuộc hai bên mạnh ai nấy thoái lui về nước mình. Khi Nguyên Khôi về triều báo việc gặp quân Minh ngoài biển mà không đánh, Thượng hoàng Hồ Quý Ly rất tức giận, quở trách Nguyên Khôi sao không giết chết quân Minh.

Rõ ràng nhà Hồ thực có chí tự cường, nhưng nội bộ không đồng nhất về hành động. Về phần Minh Thành Tổ Chu Đệ là một ông vua hiếu chiến hơn hẳn cha mình. Lời của Chu Nguyên Chương khuyên rằng không nên đánh nước ta, Chu Đệ đã không coi ra gì. Quãng thời gian từ năm 1403 về sau, tình hình ngày càng thêm căng thẳng. Tham vọng bành trướng của Minh Thành Tổ Chu Đệ sắp ném hai dân tộc vào một cuộc chiến tranh dai dẳng, tàn khốc. Đó là tai hoạ cho nước Đại Việt, cũng là tai hoạ cho nước Minh vậy.

Quốc Huy

https://4.bp.blogspot.com/-_Ts9E9k7Idk/XBZGp0rMalI/AAAAAAAB-sA/GfgSGJE5l6ULm_cXsaz4l_zNy4TsTGJgACLcBGAs/s640/76.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 77

HỒ QUÝ LY SAI GIÁN ĐIỆP
HẠ ĐỘC QUAN LẠI NHÀ MINH


Kể từ khi Minh Thành Tổ Chu Đệ lên ngôi, quan hệ giữa nước Đại Ngu và nước Minh càng xấu đi nghiêm trọng. Nhà Hồ tỏ ra là một triều đại sẵn sàng chiến đấu trước quân Minh. Ở phía bên kia, Chu Đệ là một vị vua hiếu chiến hơn hẳn cha mình. Chu Đệ liên tiếp sai sứ sang Đại Ngu đòi cống voi, tặng vật, cống người, hạch hỏi đủ điều để kiếm cớ động binh. Áp lực ngoại giao từ phía nước Minh tăng dần theo thời gian.

Cùng với việc sai sứ sang Đại Ngu gây sự, Minh triều còn cử người sang mua chuộc dân chúng trong nước ta làm nội ứng cho chúng. Bọn hoạn quan gốc Việt gồm Nguyễn Toán, Nguyễn Tông Đạo, Ngô Tín mượn cớ đi sứ và thăm hỏi thân thuộc, ngầm hẹn ước với người trong dòng tộc mình rằng khi nào quân Minh sang thì treo cờ vàng, viết chữ trên cờ làm ám hiệu, sẽ không bị giết hại. Triều đình nhà Hồ phát giác được việc này, thân thuộc của đám hoạn quan đều bị giết cả. Đấy là xử theo luật lệ hà khắc thời phong kiến. Một người có tội, cả họ bị vạ lây.

Đến năm 1404, Minh triều sai sứ sang nước ta đòi cặp voi một đen một trắng. Vốn trước đó nước Chiêm Thành cống cặp voi đó cho nước Đại Ngu để xin hoãn binh. Sau vì căm tức, Chiêm Thành lại sai sứ sang tâu với vua Minh rằng bị họ Hồ lấn đất, lấy mất voi mà Chiêm Thành định cống cho nước Minh. Đến khi sứ Minh sang đòi, triều đình nhà Hồ phải đem cặp voi giao cho nước Minh để yên chuyện. Nhưng chẳng được bao lâu thì nước Minh lại phái Hành nhân Lý Kỳ sang khiêu khích. Lý Kỳ sang nước ta hành sự rất ngang ngược, đánh đập người trong đoàn hộ tống hắn đến kinh đô, bắt phải đi nhanh không kể lịch trình đã định.

Lý Kỳ đến kinh đô, hạch hỏi triều đình nhà Hồ về việc cướp ngôi nhà Trần, việc đánh Chiêm Thành và việc lấn đất ngoài biên. Những việc này là do tên Trần Thiêm Bình, một phản tặc lưu vong đã khai báo với vua Minh, cộng thêm một số thông tin thêm thắt sai lệch hòng thuyết phục quân Minh sang đánh nước ta, để Thiêm Bình có thể nhân đó là lên làm vua. Nhà Hồ phải vất vả biện luận. Lý Kỳ ở công quán còn quan sát hình thế kinh đô, ý muốn do thám sự tình nước ta. Hồ Quý Ly liệu việc chậm, đến khi Lý Kỳ trên đường về mới sai quân đuổi theo giết đi để tránh tiết lộ những việc cơ mật nhưng Lý Kỳ đã về nước trước khi quân truy sát của nhà Hồ đuổi kịp.

Lý Kỳ về tâu với Chu Đệ rằng vua nhà Hồ xưng đế và làm thơ có lời xúc phạm vua Minh.Minh triều lấy đó làm cớ tuyên truyền trong nước về việc cần thiết phải tấn công Đại Ngu. Nguyên thời bấy giờ vua của các đế chế Trung Hoa vẫn tự cho rằng mình là vua duy nhất được quyền xưng đế, các vua nước khác chỉ được phép xưng vương. Tuy nhiên, các đời vua nước ta kể từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trở về sau đều xưng đế, dù rằng trên phương diện ngoại giao với láng giềng phương bắc chỉ xưng vương.

Lẽ ra đây cũng chỉ là việc thường mà các đời vua hai nước đều ngầm hiểu và phương bắc vẫn phải làm lơ. Nhưng vì đây là lúc Minh Thành Tổ Chu Đệ muốn động binh đao, nên mọi việc đều có thể quy tội cho nước ta. Xuyên suốt mấy năm liền, việc chuẩn bị thôn tính nước Đại Ngu đã được Minh triều thực hiện bài bản, từ việc kiểm binh chọn tướng đến việc cử người sang làm nội ứng phá hoại Đại Ngu từ bên trong. Trong quá trình chuẩn bị, việc ngoại giao vẫn được tiến hành nhằm gây chia rẽ nội bộ và tìm một cái cớ thật “chính danh” cho cuộc xâm lược.

Năm 1405, nhân có viên thổ quan châu Tư Minh là Hoàng Quảng Thành tâu lên rằng đất Lộc Châu (Lộc Bình, Lạng Sơn ngày nay) của nước Đại Ngu vốn là đất cũ thuộc Tư Minh, vua Minh sai sứ sang Đại Ngu đòi đất Lộc Châu. Do đời trước biên giới co duỗi tuỳ theo thời thế, khi nhà Trần thịnh, nhà Nguyên suy thì biên giới nước ta lấn sang phía bắc. Nay nhà Minh thịnh nên muốn lấn đất xuống nam, cũng là kiếm cớ gây hấn. Thượng hoàng Hồ Quý Ly sau khi cân nhắc mới sai Hành khiển Hoàng Hối Khanh làm Cát địa sứ đi lên biên giới cùng quan lại nước Minh khảo sát, trả lại một số đất đai mà đời trước nước ta đã lấn. Hoàng Hối Khanh nhận lệnh nhưng làm việc tắc trách, một lúc cắt 59 thôn trả cho nước Minh.

Khi về triều, Thượng hoàng Hồ Quý Ly biết được nổi giận lôi đình, không tiếc lời chửi bới nhục mạ Hoàng Hối Khanh. Hồ Quý Ly lại sai gián điệp người dân tộc thiểu số ở các thôn vừa cắt đánh thuộc độc giết chết hết những thổ quan mà nước Minh sắp đặt. Trên thực tế, nước Đại Ngu giữ được người của mình kiểm soát các vùng lãnh thổ mới cắt nhượng cho nước Minh.

Dù rằng nhà Hồ biết trước chiến tranh gần như không thể tránh khỏi, việc chuẩn bị chống giặc đã khẩn trương nhưng trong năm 1405, vua Hồ Hán Thương vẫn mong níu kéo chút hy vọng về hoà bình. Hình bộ lang trung Phạm Canh được vua cử làm chánh sứ, cùng Thông phán Lưu Quang Đình làm phó sứ đem tặng vật sang nước Minh làm thuyết khách, mong dập được hoạ binh đạo. Tuy nhiên, chuyến đi này đã không có tác dụng. Vua Minh vẫn muốn đánh Đại Ngu, cho giữ Phạm Canh ở lại, chỉ thả Quang Đình về nước.

Việc ngoại giao giữa nước Đại Ngu và nước Minh có thể nói là đã không thể đàm phán được kể từ sự kiện trên. Từ năm 1406, hai nước đã bắt đầu dùng gươm đao để nói chuyện. Vua Minh lên kế hoạch dùng Trần Thiêm Bình làm vua bù nhìn, cho quân hộ tống hắn về nước để thay thế vua nhà Hồ. Minh triều hy vọng rằng dưới chiêu bài khôi phục lại nhà Trần, chúng sẽ có thể dễ dàng chiêu dụ được nhân dân trong nước ta quay mũi giáo hướng về triều đình họ Hồ, qua đó mà chỉ dùng ít quân binh cũng có thể thôn tính được nước Đại Ngu. Tuy nhiên, mọi chuyện sẽ không đơn giản như toan tính của giặc.

Quốc Huy

https://4.bp.blogspot.com/-dlQ4TPsb-9E/XB8ERqGbC9I/AAAAAAAB-sY/CROt2l7tEM86Rnb75l1OwG1sStjJfxlbgCLcBGAs/s640/77.PNG

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 78

BỊ QUÂN HỒ QUÝ LY BAO VÂY
TƯỚNG MINH VIẾT THƯ XIN THA MẠNG


Dù rằng sử sách các đời có nhiều ý kiến trái chiều về nhà Hồ, trong đó không ít ý kiến chê trách, khinh miệt nhưng một lần nữa chúng ta cần phải công nhận rằng, triều nhà Hồ thực sự có quyết tâm bảo vệ đất nước trước hoạ ngoại xâm. Ý chí tự cường của Thượng hoàng Hồ Quý Ly, vua Hồ Hán Thương mạnh mẽ hơn hẳn các vua cuối của nhà Trần.

Như đã nói ở các kỳ trước, Hồ Quý Ly đã sớm có các biện pháp nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng. Ông đã cho làm lại sổ hộ tịch để tăng thêm số quân dự bị, gom đồng đúc súng thần cơ, xây dựng các thành trì kiên cố, đánh Chiêm Thành để giải toả áp lực từ phía nam… Kế đến khi nhà Hồ thành lập, triều đình mới đã cho định lại các cơ ngũ mới, quân số thường trực tăng thêm, tiếp tục xây dựng các công trình lớn phục vụ cho mục đích phòng thủ. Hồ Hán Thương cho thành lập 4 kho quân khí phục vụ cho việc sản xuất vũ khí dùng trong chiến tranh.

Đích thân vua nhà Hồ đã đi khảo sát các nơi cửa biển hiểm yếu. Lệnh cho quân dân cả nước đẽo những thân gỗ to khoẻ làm cọc chặn sông vùng Bạch Hạc (Phú Thọ) để ngăn đường tiến quân của giặc. Những nơi cửa biển xung yếu, các vị trí chiến lược trên sông Cái (sông Hồng) cũng được đóng cọc nhọn phòng giữ. Công trình tiêu biểu nhất là cụm cứ điểm thành Đa Bang (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội). Thành Đa Bang là một quân thành có mặt thành Đa Bang hướng ra sông sông Lô, sông Nhị, chắn ngang đường tiến quân dự kiến của quân Minh (từ hướng Vân Nam sang). Cùng với khu thành chính, dọc bờ sông là hàng trăm dặm chiến luỹ, cọc nhọn ngăn giặc. Cho đến năm 1406, cụm cứ điểm thành Đa Bang vẫn đang trong quá trình xây dựng.

Sở dĩ vua tôi nước Đại Ngu chú trọng phòng thủ tuyến đường từ Vân Nam tiến vào đất nước là bởi vì vào thời này, vùng Vân Nam đã đông đúc và thuận tiện về giao thông hơn hẳn các thời trước. Vân Nam đã đủ điều kiện làm bàn đạp cho giặc phương bắc tiến đánh nước ta bằng một đạo quân kỵ bộ quy mô lớn mà không cần sự hỗ trợ nhiều từ thuỷ quân. Đó là điểm bất lợi đặc trưng mà quân dân Đại Ngu thời nhà Hồ phải đối mặt so với cha ông ta các triều đại trước.

Việc xây dựng của nhà Hồ cho thấy rằng chiến lược chung nhất quán là phòng ngự. Chiến lược phòng ngự vốn không phải là một lựa chọn tồi. Tuy nhiên, việc chuẩn bị dù có quy mô rất lớn nhưng tồn tại không ít điểm yếu. Những điểm yếu đó sẽ kể sau, khi mà cuộc chiến diễn ra.

Trong lúc quân dân nước Đại Ngu tích cực chuẩn bị chống xâm lăng, thì ở Yên Kinh nước Minh, một nhân vật đã đi vào sử sách như một trong những tên Việt gian đáng nguyền rủa nhất. Trần Thiêm Bình, tên tay sai của giặc Minh nguyên có tên thật là Nguyễn Khang (có sách chép là Trần Khang) đã đề cập đến trong kỳ trước. Người này vốn là gia nô của một quý tộc tên Trần Nguyên Huy. Nguyên Huy là đồng đảng của thổ hào địa phương tên là Trần Tông. Khi Chiêm Thành thắng thế trước Đại Việt, Trần Tông ngả theo phe Chiêm Thành. Đến khi Đại Việt đánh đuổi được quân Chiêm khởi bờ cõi, bắt tội những kẻ đầu mục đã hàng giặc. Trần Tông nằm trong số đó, không còn đường nào khác bèn khởi binh chống lại triều đình. Chẳng được bao lâu, đám quân phản loạn bị đánh tan, Trần Nguyên Huy và Trần Tông đều chết. Nguyễn Khang chạy thoát được, theo đường xứ Ai Lao trốn sang nước Minh, đổi tên là Trần Thiêm Bình, mạo xưng là con của vua Trần Nghệ Tông. Thiêm Bình được vua Minh Thành Tổ Chu Đệ thu nhận, dùng làm chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ” hòng dễ dàng thôn tính nước Đại Ngu.

Trần Thiêm Bình ở cạnh Chu Đệ, thường xuyên kêu xin vua Minh xuất quân đánh Đại Ngu, để cho hắn có thể trả thù cho chủ và lên làm vua nhờ sức ngoại bang. Thiêm Bình đã nói với vua Minh: “Dòng dõi họ Trần chỉ còn một mình tôi, tôi cùng giặc nhà Hồ không đội trời chung được. Dám xin nhà vua xuất phát ngay sáu quân đánh kẻ có tội để tỏ rõ oai trời”.
Vua Minh vốn đã sẵn ý muốn xâm lăng, nhân đó phái sứ sang nước ta mượn tiếng là “điều tra” thật giả. Đó là đòn tâm lý chiến sâu hiểm, đánh thẳng vào điểm yếu chính trị của triều nhà Hồ là lên ngôi không chính danh. Sứ nước Minh phái sang ta, thực chất chỉ nhằm do thám và ly gián, việc truy xét thân phận thực sự của Trần Thiêm Bình tuyệt nhiên không động đến. Vốn đã biết rằng nước Minh muốn mượn cớ “phù Trần” để cất quân sang đánh, vua Hồ Hán Thương dùng kế đối phó. Vua nhà Hồ biện bạch rằng vì họ Trần không còn ai, nên cháu ngoại (Hồ Hán Thương là cháu ngoại vua Trần Minh Tông) phải đảm đương việc nước.

Đến khi vua Minh dùng Trần Thiêm Bình mạo xưng con cháu nhà Trần, Hồ Hán Thương sai Nguyễn Cảnh Chân soạn tờ biểu “tạ tội” đưa sang cho Chu Đệ. Trong đó xin được đoán Trần Thiêm Bình về nước làm vua. Vua Minh nhân đó cho người thư trả lời: “Nếu quả đón Thiêm Bình về tôn làm chúa, thì sẽ ban cho khanh tước thượng công và phong cho một quận lớn”. Trong việc này, mỗi bên đều có toan tính riêng. Vua Hồ Hán Thương muốn lừa người nước Minh đem Trần Thiêm Bình về nước mà giết đi, qua đó khiến lòng dân khỏi bị lung lạc. Vua Chu Đệ thì mong rằng có thể “không đánh mà thắng”, biến nước Đại Ngu thành nước lệ thuộc với vua bù nhìn do nước Minh dựng lên.

Đến mùa hạ năm 1406, Minh Thành Tổ Chu Đệ bắt đầu động binh. Tướng Hàn Quan được phong làm “Chinh Nam tướng quân Hữu quân đô đốc đồng tri”, Hoàng Trung được phong làm “Tham tướng đô đốc đồng tri”, điều động 10 vạn quân ở lộ Quảng Tây tiến sát biên giới nước Đại Ngu, dẫn theo Trần Thiêm Bình. Đại quân nước Minh dừng lại ở biên giới làm thanh thế, còn Hoàng Trung dẫn 5.000 tinh binh để hộ tống Trần Thiêm Bình về nước. Vì theo lời của Trần Thiêm Bình nói, quân Minh chỉ cần tiến sang, trăm họ sẽ hưởng ứng theo để cùng lật đổ họ Hồ. Đó là lời nói lấy được của tên phản quốc. Đến khi quân Minh tiến sang, tuyệt không thấy người dân nào hưởng ứng theo chúng. Chỉ thấy dọc đường tiến quân, nhân dân điều phá bỏ lúa gạo và di tản, làm kế “Vườn không nhà trống” theo lệnh của triều đình nhà Hồ.

Quân đội Đại Ngu đóng ở ải Chi Lăng ẩn mình tránh giặc, mở đường cho chúng tiến sâu vào nội địa. Đại quân do Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng chỉ huy dàn binh thuyền ở vùng Bắc Giang (Bắc Ninh ngày nay) đợi giặc. Quan quân nhà Hồ dự tính sẽ phải đối đầu với 10 vạn quân Minh, chủ động chọn vùng đồng bằng sông nước để giao chiến, hạn chế được thế mạnh kỵ bộ của giặc, phát huy được sức mạnh thuỷ quân. Nhưng rốt cuộc, các tướng Đại Ngu chỉ thấy quân Minh có vài ngàn quân Minh tiến đến, vì thế mà có ý khinh địch.

Kỳ thực, 5.000 quân mà Hoàng Trung dẫn theo đều là quân tinh nhuệ của nước Minh. Hoàng Trung thấy quân Đại Ngu lơ là, tung quân đánh gấp vào ải Lãng Kinh. Hồ Nguyên Trừng không sẵn sàng nên điều quân lúng túng, các tướng không hiệp đồng kịp, quân lính chết rất nhiều. Quân Minh ít nhưng có nhiều kỵ binh, đánh rất hăng hái. Quân Đại Ngu trái lại chỉ có số lượng chứ huấn luyện kém, tinh thần chiến đấu kém Nhị vệ đại tướng Phạm Nguyên Khôi, Quản lĩnh quân Chấn Cương Chu Bỉnh Trung, Quản lĩnh quân Tam Phụ Trần Huyên Huyên, Tả Thần Dực quân Trần Thái Bộc đều nối nhau thua chết ngay tại trận tiền. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng trực tiếp cầm thuỷ quân, sai quân đổ bộ lên bờ để đánh. Nhưng bấy giờ trận thế quân ta đã hỗn loạn, quân Minh thấy Hồ Nguyên Trừng thì tập trung đánh vào chỗ của ông. Hồ Nguyên Trừng suýt bị bao vây, may có thuộc hạ hộ tống được xuống thuyền thoát được.

Quản lĩnh quân Thánh Dực là Hồ Vấn đóng quân ở Vũ Cao gần đó, thấy động mới điều quân tới tiếp viện. Quân Đại Ngu chỉ tránh khỏi một trận thua điên rồ khi mà những binh sĩ thuộc quân Thánh Dực, đội cấm quân tinh nhuệ bậc nhất của triều đình kịp đến cứu. Hồ Vấn chia quân Thánh Dực đánh úp quân Minh. Gặp phải đội quân tinh nhuệ của Đại Ngu, Hoàng Trung đành chịu bại trận, thúc quân chạy thẳng về nước, quân lính bị truy kích chết rơi rớt dọc đường, nhiều tên bị bắt làm tù binh.

Hoàng Trung dẫn theo Trần Thiêm Bình cố gắng đào thoát, đến ải Chi Lăng thì gặp phải quân của hai tướng Hồ Xạ, Trần Đĩnh chặn đánh. Hoàng Trung lúc này chỉ cầu thoát thân, bèn sai người đưa thư cho Hồ Xạ: “Theo lời Thiêm Bình, hắn chính là con vua An Nam. Nếu đưa hắn về nước, thì đi đến đâu không ai là không hưởng ứng. Thế mà từ khi đưa hắn về nước đến nay, trong nước không một người nào theo cả, như thế tỏ ra là gian dối. Nay đưa Thiêm Bình trả lại, xin để cho quân lính được ra khỏi quan ải”.

Hồ Xạ nhận lời, thả bọn Hoàng Trung về nước, đem Trần Thiêm Bình về kinh dâng công lên vua Hồ Hán Thương cùng Thượng hoàng Hồ Quý Ly. Vua nhà Hồ sau khi làm lễ mừng thắng trận và tra hỏi rồi, đem Trần Thiêm Bình ra xử tội lăng trì. Tên phản quốc rước giặc về nước nay phải đền tội. Tuy nhiên, sóng gió đối với nước Đại Ngu mới chỉ là bước mở đầu. Vua Hồ Hán Thương biết rõ điều đó, từ chối tất cả các biểu mừng thắng trận của quần thần dâng lên.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-P6rExAiVqjQ/XCg3Hlyz8iI/AAAAAAAB-tE/VmO9fc8P9EE1N9ghxM5XjUHY0jh3wPzmACLcBGAs/s640/78.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 79

NHÀ MINH LỘ DÃ TÂM
KHI CHUẨN BỊ 80 VẠN QUÂN
XÂM LƯỢC NƯỚC VIỆT


Đầu năm 1406, quân tướng nhà Hồ đã lập được chiến công đầu trước quân Minh, đánh bại được 5.000 quân tinh nhuệ của giặc, chém được vua bù nhìn. Tuy nhiên, dù chiến thắng nhưng qua trận đầu đã bộc lộ rất nhiều điểm yếu của quan quân nhà Hồ. Tại trận Lãnh Kinh, quân Đại Ngu hoàn toàn áp đảo địch về quân số nhưng vẫn rơi vào thế hỗn loạn, chết liền mấy đại tướng, may nhờ có quân Thánh Dực đến tiếp viện mới đánh bại được giặc. Rõ ràng, chất lượng của quân lính Đại Ngu nhìn chung kém xa so với quân lính Minh, và các tướng lĩnh cũng có năng lực trung bình hoặc yếu kém. Điều đó do nhiều nguyên nhân. Trước tiên là do hậu quả của chính sách xây dựng quân đội của Hồ Quý Ly, chú trọng về quân số, khí giới mà không chú trọng đúng mực về thao luyện binh sĩ. Mặc khác, quân đội nước Minh là đội quân liên tiếp kinh qua những cuộc chiến tranh lớn với người Mông Cổ và nội chiến, rất thiện chiến và nhiều kinh nghiệm.

Vua Hồ Hán Thương hẳn rất hiểu tình hình binh lực của mình, nhưng vì tình thế đã quá gấp rút, nên chỉ có thể thi hành những chính sách giải quyết tình thế trước mắt. Vua đoán rằng Minh triều thua trận đầu tất sẽ dốc sức kéo sang lần nữa báo thù, bèn hạ lệnh cho các quan tuyển thêm binh lính. Trước đây, triều đình nhà Hồ đã có làm sổ hộ tịch. Nay chiếu theo sổ sách ấy, nhà Hồ tuyển lính càng gắt gao, cả những kẻ trốn tránh, phiêu lưu cũng bắt sung vào quân ngũ. Những hạn này phiên chế thành “quân dũng hãn”, giao cho các Thiên hộ, Bá hộ cai quản. Dù có tên là “dũng hãn”, thực chất đó chỉ là những quân lính ô hợp, tinh thần chiến đấu kém, khi ra trận phải dùng nghiêm lệnh để răn đe mới có động lực chiến đấu.

Quân chính quy nhà Hồ thời này có khoảng 20 vạn quân, là những binh lính ít nhiều có kỹ năng, kỷ luật. Còn lại, số quân “dũng hãn” rất đông, chưa khảo được con số cụ thể. Vì quân đội Đại Ngu dẫu đông nhưng thành phần ô hợp, không đồng nhất nên có nhận định rằng quân nhà Hồ có trăm vạn người, nhưng cũng trăm vạn lòng. Ngoài việc tuyển lính, triều đình còn lệnh cho dân chúng những vùng mà giặc có thể đi qua chọn chỗ đất hoang vu để dựng nhà cửa, tích trữ sẵn lương thực ở những nơi đó phòng khi giặc tiến sang sẽ dễ bề sơ tán. Các sông ngòi được tiếp tục việc cắm cọc ngăn sông, thành trì được gia cố thêm cho vững chắc làm chỗ dựa cho quân chiến đấu.

Chính vì nhà Hồ không được lòng nhân dân, nên việc áp dụng chiến lược chống giặc bị hạn chế. Quân không đồng lòng nên dễ đào ngũ, không thể hành quân xa thành trì để đánh những trận chiến lớn. Dân không phục nên dễ lộ các bí mật quân sự, khó vận dụng chiến thuật mai phục, ép quân, phục kích… Nhìn vào các bước đi chuẩn bị của triều đình nhà Hồ có thể thấy được dụng ý lấy lượng bù chất, lấy phòng thủ làm lợi thế trong bối cảnh quân kém tinh, dân không thực sự ủng hộ triều đình.

Lại nói tin tức tên tay sai Trần Thiêm Bình bị bắt giết về đến tai Chu Đệ, vua Minh tỏ ra rất tức giận, gấp rút sửa soạn một đạo quân lớn để sang báo thù, đồng thời thôn tính nước Đại Ngu như mong muốn bấy lâu. Vua Hồ Hán Thương phái sứ đoàn sang Minh để xin hoãn binh. Sứ bộ Đại Ngu có Trần Cung Túc làm chánh sứ, Mai Tú Phu làm phó sứ, Tưởng Tư làm làm tòng sự giữa triều đình nước Minh biện bạch việc dối trá của Trần Thiêm Bình và xin được cống nạp để được hoà bình.

Nhưng bấy giờ vua Minh đâu còn cần thiết phân xử việc Trần Thiêm Bình nữa, mà chỉ lăm lăm lấy cớ khởi binh. Chu Đệ lệnh cho Thành quốc công Chu Năng lãnh chức đại tướng, Tân Thành hầu Trương Phụ làm tả phó tướng, Tây Bình hầu Mộc Thạnh làm hữu phó tướng chỉ huy quân xâm lược. Các tướng Phong Thành hầu Lý Bân, Vân Dương bá Trần Húc làm tả hữu tham tướng. Đạo quân khổng lồ được điều động bao gồm quân nòng cốt từ Nam Kinh cùng với binh lính 8 tỉnh vùng phía nam nước Minh là Quý Châu, Triết Giang, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Vân Nam, tổng quân số hơn 20 vạn quân chiến đấu, khoảng 60 vạn dân phu.

Tất nhiên một đạo quân đông đảo như thế không thế chỉ trong thời gian ngắn mà điều động được. Việc chuẩn bị đã diễn ra từ trước khi cuộc xung đột năm 1406 từ lâu, nằm trong chuỗi kế hoạch thôn tính nước Đại Ngu của vua Minh Thành Tổ Chu Đệ. Nay các đạo binh phu của nước Minh tiến hành tập kết lại. Quân Minh xâm lược lần này bao gồm cả bộ binh, kỵ binh và thuỷ binh. Thành phần quân Minh có nhiều binh lính thiện chiến, được trang bị các loại vũ khí tối tân như nỏ lớn, nỏ liên châu, máy bắn đá tầm xa, súng đại bác… Đặc biệt, một số lính Minh được trang bị cả súng hoả mai, là loại vũ khí tối tân hàng đầu thời bây giờ. Việc sử dụng nhiều hoả khí là điểm khác biệt khiến cho quân Minh rất đáng gờm.

Cùng với việc chuẩn bị về binh lực, nước Minh còn sử dụng các cách thức mua chuộc, chia rẽ quân dân nước ta. Chúng chuẩn bị các bảng văn với lời lẽ đánh vào những tội lỗi của triều đình nhà Hồ để kích động dân chúng trở giáo theo chúng, chuẩn bị sẵn cả vàng bạc để mua chuộc những kẻ tham lam, những đầu mục nước Đại Ngu theo giặc chống lại đất nước. Ngoài ra, vua Minh sai quân mang vàng bạc vượt biển vào nam kêu gọi nước Chiêm Thành đem quân phối hợp, từ phía nam đánh lên, cắt đường rút lui của quân nhà Hồ. Nước Chiêm Thành lúc này dưới sự trị vì của vua Indravarman VI (Ba Đích Lại) nhanh chóng đồng ý phối hợp xâu xé Đại Ngu, bởi vì nước này vốn trước đã rất căm hận nước Đại Ngu, chỉ mong có dịp báo thù và lấn chiếm lại những vùng đất đai mà họ đã mất về tay nước láng giềng phía bắc. Việc nước Chiêm Thành tham chiến càng khiến cuộc chiến bảo vệ đất nước của quân dân nước Đại Ngu triều Hồ thêm phần khó khăn. Bất chấp những điều đó, nhà Hồ vẫn chuẩn bị nghênh chiến với kẻ thù.

Cuối thu năm 1406, quân Minh bắt đầu hành quân tập kết. Quân đến Long Châu thì đại tướng Chu Năng bệnh chết, phó tướng là Trương Phụ lên thay thế vị trí thống soái. Đến mùa đông, quân Minh đã tập kết xong thành hai khối. Khối quân phía đông đóng tại Quảng Tây dưới sự chỉ huy của Trương Phụ, theo đường Lạng Sơn tiến sang nước ta. Khối quân phía tây đóng tại Vân Nam, do Mộc Thạnh cầm đầu theo đường Tuyên Quang tiến đánh Đại Ngu từ phía tây bắc.Cuối năm 1406, quân Minh bắt đầu tấn công toàn tuyến. Quân đội Đại Ngu dưới sự chỉ huy của Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng sẵn sàng chiến đấu tại các hệ thống đồn luỹ. Nhân dân trên đường giặc tiến sang theo lệnh phá bỏ lúa má dọc đường, làm kế “vườn không nhà trống”. Mặc dù trong nước, mâu thuẫn xã hội đã làm khối đoàn kết nước ta suy yếu. Tuy vậy, trước sự đe doạ từ giặc ngoại xâm, đa số nhân dân vẫn tỏ thái độ sẵn sàng sống mái với quân cướp nước. Quân dân nước Đại Ngu bước vào cuộc chiến vệ quốc đầy cam go.

Quốc Huy

https://2.bp.blogspot.com/-AAvE6fyNuVM/XEP5UVncq3I/AAAAAAAB-w0/ASVTz3ohpWgP63PcWUWHrKWEhntSr8yugCLcBGAs/s640/79.PNG

15.00
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] ... ›Trang sau »Trang cuối