Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [47] [48] [49] [50] [51] [52] [53] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

Vua TỰ ĐỨC


 Hoàng đế Tự Đức (嗣德) (1829-1883), huý Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (阮福洪任), còn có tên Nguyễn Phúc Thì (阮福蒔) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883. Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn.

Là ông vua hay chữ nhất triều Nguyễn nên ông rất đề cao Nho học. Ông chăm lo việc khoa bảng, sửa sang việc thi cử và đặt ra Nhã Sĩ Khoa và Cát Sĩ Khoa để chọn lấy người có tài văn học ra làm quan.

Ông là người ham học, hiểu biết nhiều và đặc biệt yêu thích thơ văn. Ông làm nhiều thơ bằng chữ Hán, trong đó có bộ Ngự chế Việt sử tổng vịnh, vịnh hàng trăm nhân vật trong lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, ông còn làm cả sách bằng chữ Nôm để dạy cho dân dễ hiểu, điển hình như Luận ngữ diễn ca, Thập điều, Tự học diễn ca, ...

 Có rất nhiều giai thoại văn chương về Tự Đức, nhất là những chuyện vua giao thiệp với các đình thần, các văn nhân đương thời.
1/
Thơ nói lái

Chuyện kể rằng, sau một buổi chầu, Tự Đức họp các quan để bàn luận chuyện cổ kim cùng ngâm vịnh thơ phú cho vui. Hôm ấy có một viên quan ở Hàn lâm viện, chức khá cao, đứng lên xin kể chuyện đức Thánh Trèm. Theo truyền thuyết, đức Thánh Trèm tên thật là Lý Ông Trọng, quê ở làng Trèm (nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội), có thân hình cao hơn hai trượng, có sức khoẻ phi thường, thi đỗ võ quan với nhà Tần (Trung quốc), có công đánh đuổi quân Hung Nô. Sau khi Ông Trọng trở về nước nam, vua Tần sai đúc tượng Ông Trọng đặt ở cửa Kim Mã, kinh đô Hàm Dương để quân Hung Nô khiếp oai không dám xâm phạm bờ cõi nước Tần nữa… Khi kể chuyện, viên quan muốn tỏ ra mình uyên bác, đã nói rằng sử sách Trung quốc và Đại Nam đều chép sai, phải gọi là Lý Trọng Ông mới đúng. Nhiều người có ý kiến bảo chính ông ta nói sai, nhưng ông ta không chịu cứ gân cổ cố cãi bừa, rằng từ nay phải gọi là Lý Trọng Ông.

Tự Đức nghe hai bên tranh cãi ầm ĩ, thấy cũng tức cười, bèn ứng khẩu đọc ngay một bài thơ rằng:

Ông Trọng như hà hoán Trọng Ông,
Chỉ nhân học vấn thiểu phu công.
Tư nhân an đắc cư lâm hãn,
Nghi truất Nội Hà tác phán thông.

Có người dịch ra thơ nôm như sau:
Ông Trọng làm sao gọi Trọng Ông
Chỉ vì học vấn kém phu công
Người này không ở Lâm Hàn được
Đuổi quách ra Hà giữ phán thông.

Ý chế giễu của bài thơ là ở chỗ câu nào cũng dùng những chữ nói lái như: Ông Trọng thành Trọng Ông, công phu thành phu công,  hàn lâm thành lâm hàn, Hà Nội thành Nội Hà, thông phán thành phán thông.

Các triều thần nghe những câu thơ nói lái hài hước của vua Tự Đức, ai nấy đều phì cười, còn viên quan Hàn lâm nọ thì thẹn quá, chỉ biết cúi đầu đỏ mặt mà thôi.
2/
Thơ vịnh muỗi

Tự Đức là ông vua hay làm thơ, đồng thời cũng là ông vua thích dùng thơ để vui đùa với các đình thần. Tương truyền một hôm, Tự Đức nổi hứng đọc cho các viên quan ở Hàn lâm viện chép một bài thơ như sau:

Tiêu hà tá hán khởi ư phong
Sấn nhập trùng vi nhiễu trướng trung
Bất luận huân tiêu phàn khoái lực
Hốt văn hàn tín tự tiêu không.

Đây là bài thơ “Vịnh muỗi”. Nhưng Tự Đức cố tình không đọc đầu đề, lại cố ý dùng toàn những chữ đồng âm với những chữ chỉ tên người, tên đất trong sử sách Trung quốc như: Tiêu Hà (thừa tướng nhà Hán), Hán (nhà Hán), Phong (đất Phong Bái nơi Hán Cao Tổ dấy binh), Phàn Khoái (tướng giỏi của Bái Công), Hàn Tín (đại nguyên soái của Bái Công). Mấy ông Hàn lâm vốn là “những con mọt sách”, làu thông sử sách, nên khi nghe vua đọc đến những tên lịch sử ấy thì đều cho ngay đó là bài thơ vịnh sử, rồi cứ cắm đầu cắm cổ mà viết chẳng cần suy nghĩ gì cả.

Họ có ngờ đâu đã bị nhà vua cho một vố chơi khăm. Mãi đến khi Tự Đức xem bài của họ, vừa cười thích thú vừa chữa những chữ viết lầm của họ, thì họ mới biết đó chỉ là bài thơ “Vịnh muỗi”.

Hoá ra chữ tiêu 蕉 là tàu lá chuối, chữ hà 荷 là lá sen; hai chữ này viết khác hẳn hai chữ Tiêu Hà là tên người. Chữ hán chỉ là chữ hãn là cái cánh, đọc chệch âm, viết cũng khác chữ Hán là nhà Hán. Chữ phong là gió, viết khác hẳn chữ Phong là tên đất. Còn hai chữ phàn khoái là hun đốt đều có bộ hoả ở bên, mà viết cũng khác hai chữ Phàn Khoái là tên người. Hai chữ hàn tín là tin lạnh, chỉ trời trở rét; chữ hàn là lạnh rét viết khác hẳn chữ Hàn là họ Hàn, (chỉ có chữ tín là trùng với chữ Tín trong tên Hàn Tín). Như vậy, cả bài thơ theo đúng nghĩa phải dịch Nôm là:

Bẹ chuối đài sen cất cánh bay
Xông vào màn trướng quấy vo rầy
Chẳng cần hun đốt ra công sức
Tin lạnh đưa về tẩu tán ngay.

Qua nội dung bài thơ “Vịnh muỗi”, các vị hàn lâm viện cuối cùng cũng hiểu ra là nhà vua có ý chỉ trích họ chỉ là “những con mọt sách” mà thiếu hiểu biết đời sống thực tế của nhân dân. Không ngờ là các quan hàn lâm lại viết sai mấy chữ Hán thông thường, mọi người đều cảm thấy vừa thẹn vừa tức cười cho bản thân mình. Bấy giờ không chỉ có vua Tự Đức cười mà tất cả đều cười vang.
3/
Bài vè của vua

Tương truyền rằng:
Năm 1873, vua Tự Đức ngự thuyền ra cửa Thuận An. Vua đang ngắm cảnh biển. Bỗng có hai chiếc tàu ô của bọn cướp biển xông đến. Các thuyền hộ giá nhà vua sẵn sàng khí giới, súng ống đầy đủ, được vua ra lệnh cho bắn phá bọn tàu ô. Nhưng kết quả thuyền của triều đình thua to, bị chúng bắn lại nhiều người trọng thương. Chúng còn cướp được hai chiếc tải thuyền đem đi mất tích.

Vua ngao ngán trở về. Ông chứng kiến rõ ràng tình trạng quan quân bạc nhược. Người ta chờ đợi một sự trừng phạt các quan lại. Nhưng nhà vua vẫn im lặng.

Vài hôm sau bọn cung nhân, thị nữ và nội giám đều hát vang lên một bài vè tả cuộc thất bại ở Thuận An rất đầy đủ, cuối bài là những lời chỉ trích nặng nề các quan. Bài vè như sau:

Rằng năm Quí Dậu tháng tư
Ngửa vâng Hoàng thượng thánh từ sắc ban
Mười hai giá ngự Thuận An
Triều đình văn võ quân quan hộ tòng
Tưng bừng cờ phất trống rung
Chèo ba mái nhẹ thuyền rồng như bay
Càng nhìn càng đẹp càng say
Dẫu mà trăm cảnh không tày Thuận An
Ai ngờ một phút tự nhiên
Bỗng đâu chín chiếc tải thuyền chạy ra
Ngọn buồm trông thấy xa xa
Gần vời nghe tiếng súng ra đùng đùng
Tàu ô hai chiếc buồm giong
Đều buông tiếng súng gẫm cùng to gan
Trương buồm chạy dọc chạy ngang
Căm hờn mấy lũ mấy đoàn tàu ô
Tung hoành bố mạy, xí lô
Đứa đâm, đứa chém, đứa xô xuống tàu
Các quan khi ấy gửi tâu
“Ngửa trông Hoàng thượng lên lầu ngự ra”
Lệnh truyền: “Hộ vệ thần cơ
Ai mà bắn đặng tàu ô nó rày
Quyền ban lộc thưởng cao dày! "
Sắc vừa ban xuống nạp ngay súng liền
Bắn thời phát thẳng phát xiên
Bắn ra chẳng trúng vào thuyền tàu ô
Hở ra thì nó chạy vô
Bắt đi hai chiếc ai mô chẳng tường
Thấy thôi nửa giận nửa thương
Giận thay chúng nó, thương đường quân ta
Đứa thì bị thuốc cháy da
Đứa thời bị đạn máu ra đầm mình
Làm cho chúng nó dể khinh
Nghĩ lại phận mình chẳng biết cứu nhau
Phải chi diệu vợi nơi đâu
Đã toan lập lưỡng chước mầu tâu vô
Chẳng qua sự đã sờ sờ
Ai ai cũng lặng như tờ nín hơi
Nghĩ đời mà chán cho đời
Làm tôi ăn uống lộc trời lắm ru
Nghênh ngang võng võng dù dù
Bài vàng thêm mão xuân thu tháp đầu
Gẫm không tài cán chi đâu
Tham sanh uý tử một bè như nhau
Ăn thời giành trước giành sau
Đến khi có giặc rút đầu rút đuôi
Cũng xưng là đấng làm tôi
Cớ sao chẳng biết hổ ngươi trong mình!

 Các quan triều nghe hát đều sửng sốt, bàn tán. Song họ cũng mau chóng biết được đó là bài vè ngự chế (vua làm) mà nhà vua đã giấu tên theo kiểu dân gian. Ai cũng bảo nhà vua thâm thuý; cho dù có phạt tội các quan theo luật hình cũng không thấm thía bằng những lời phê phán sắc bén ở đoạn cuối bài vè. Do vậy các quan đều cảm thấy tủi hổ vô cùng.

Rồi chẳng mấy lâu sau, bài vè cũng có cánh bay ra ngoài dân chúng. Mọi người đều cho là chuyện hi hữu xưa nay: vua mà cũng làm vè. Thế nhưng dân chúng cũng rất thú vị về cách trị tội các quan có một không hai này.
4/
Thơ phong hoa tuyết nguyệt

Tương truyền, có lần vua Tự Đức ra đầu đề cho các quan làm thơ. Nhà vua nêu quy tắc rất nghiệt ngã. Đầu đề muốn chọn thế nào cũng được, nhưng bài thơ phải có đủ tám câu. Tám chữ đầu của tám câu ấy bắt buộc phải là tám chữ: phong, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kỳ, thi, hoạ, đồng thời theo thứ tự từ câu đầu đến câu cuối, phải có tám chữ số là : nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát.   

Đa số các quan, các văn nhân đều gác bút, hoặc chỉ viết được những bài có “phong, hoa, tuyết, nguyệt,…” mà lại thiếu “nhất, nhị, tam, tứ, …” hoặc ngược lại. Nhưng Hồng Bảo, anh ruột của Tự Đức lại làm thành một bài thơ vừa hay vừa đủ các điều kiện của đầu đề. Nội dung bài thơ như sau:

Vân đạm, phong khinh, nhất diệp châu
Hoa cù ẩn ước nhị tầng lâu
Tuyết ngưng địa thượng tam đông lãnh
Nguyệt đáo thiên trung tứ bích sầu
Cầm vận ngũ huyền ca nhã hứng
Kỳ vi lục cuộc thúc doanh thâu
Thi thành thất bộ chung hoài cổ
Hoạ nhập Tiêu Tương bát cảnh đồ.

Nguyễn Đôn Như dịch thơ như sau:
Gió nhẹ mây êm một lá thuyền
Lầu hai lấp ló khóm hoa hiên
Ba đông tuyết phủ dồn hơi lạnh
Bốn vách trăng soi gởi nỗi phiền
Đàn gảy năm dây hoà giọng hát
Cờ vây sáu cuộc đổi thay phiên
Thơ xong bảy bước xui hoài cổ
Bút hoạ Tiêu Tương tám cảnh tiên!

Thơ làm được như vậy là cực nhanh và giỏi. Tự Đức phải phục tài.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Nhưng có người đã mách riêng với nhà vua rằng câu thơ thứ tư có dụng ý mỉa mai. Nói rằng “trăng lên giữa trời, gieo thảm sầu cho thiên hạ” là có ý ám chỉ Tự Đức không xứng đáng lên ngôi vua. Có lẽ Tự Đức cũng ngầm công nhận ý kiến ấy nên đã rất đề phòng ông anh mình. Người ta nói, sau này, Hồng Bảo làm đảo chính bị thất bại, phải tự tử, một phần là vì đã để lộ hình tích trong bài thơ nói trên.


5/
Nguyễn Đăng Hành và vua Tự Đức

 Nguyễn Đăng Hành (con Nguyễn Đăng Giai) làm quan đời Tự Đức, là người rất hay chữ.

  Nhân việc dẹp được âm mưu lật đổ của Hồng Bảo , vua Tự Đức mở tiệc ăn mừng . Trong khi đang đãi yến các quan , nhà vua ăn uống thế nào lại để răng cắn phải lưỡi. Vua bèn lấy sự việc đó làm đầu đề bảo các quan làm thơ để mua vui. Các quan đều làm thơ dâng lên vua, nhưng chỉ có bài của Nguyễn Đăng Hành là hay hơn cả. Bài thơ như sau:

Ngã sinh chi sơ, nhữ vị sinh,
Nhữ sinh vị hậu, ngã vi huynh.
Kim triêu hạnh hưởng cao lương vị,
Hà nhẫn độc thương cốt nhục tình.

Có người dịch thơ như sau:
Tớ sinh, ngươi chửa ra đời,
Ngươi sinh sau tớ, tớ thời làm anh.
Hôm nay ăn uống ngon lành,
Mối tình cốt nhục, sao đành hại nhau?

Rõ ràng đây là bài thơ nói về việc răng cắn phải lưỡi. Lưỡi có trước khi mọc răng, vậy thì lưỡi là anh và răng là em. Thế mà khi được miếng ăn ngon, đáng lẽ  cùng nhau hưởng thụ, răng lại nỡ lòng cắn lưỡi để tranh ăn lấy một mình.    

Nhưng bài thơ lại ngụ ý chê trách nhà vua nỡ giết anh là Hồng Bảo để độc hưởng phú quý.

 Tự Đức xem xong, biết là Hành ám chỉ việc riêng của mình , tức giận lắm, nhưng cũng phải phục là tài. Rồi để thoả nỗi tức giận của mình, nhà vua sai đem tác giả ra cửa Ngọ Môn nọc đánh ba chục roi  về tội châm biếm  phạm thượng. Nhưng sau đó, để tỏ ra rằng mình cũng biết quí trọng văn tài, nhà vua lại thưởng tiền lụa cho tác giả.
6/
Lê Ngô Cát và vua Tự Đức

 Lê Ngô Cát, người huyện Chương Đức tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), đỗ cử nhân năm 1848 (niên hiệu Tự Đức thứ nhất), là một nhà nho giỏi thơ nôm ở thời đó.

 Tương truyền hồi Lê Ngô Cát đang làm bố chánh Cao Bằng thì được vua Tự Đức triệu về kinh để sửa lại bộ Quốc sử diễn ca. Trong bộ sử, ông có viết mấy câu về bà Triệu như sau:

Vú dài ba thước vắt lưng,
Cưỡi voi gióng trống bên rừng trẩy ra.
Cũng toan gánh vác sơn hà,
Cho Ngô biết mặt đàn bà nước Nam.

 Khi dâng sách lên, vua Tự Đức đọc đến đoạn đó thích lắm, chữa hai chữ “Cũng toan” thành “Ghé vai” và nói đùa rằng: “Thế đàn ông nước Nam đâu cả”

 Rồi vua ban thưởng cho Cát một tấm lụa với hai đồng tiền vàng.

 Nghe tin, các thân hữu đến mừng, đòi Lê Ngô Cát phải có rượu khao. Khi rượu đã ngà ngà say, các bạn hứng chí đòi chủ nhân phải có thơ tức sự việc được vua ban vàng lụa. Lê Ngô Cát bèn ngất ngưỡng đọc hai câu lục bát như sau:

Vua khen thằng Cát có tài,
Ban cho cái khố với hai đồng tiền.

 Ít lâu sau bỗng Lê Ngô Cát nhận được lệnh lại phải đi bố chánh Cao Bằng, ông rất sửng sốt và lo ngại. Mãi về sau mới vỡ lẽ, thì ra hai câu thơ của ông đã đến tai Tự Đức, nhà vua cho ông có ý xỏ vua keo kiệt (cho một tấm lụa chỉ đủ làm cái khố) vì thế lại đày ông lên “nước non Cao Bằng” cho bõ ghét.
7/
Cao Bá Quát và vua Tự Đức   

 Khi Tự Đức lên ngôi (1848) thì Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát đang giữ chức quan nhỏ (hành tẩu) ở bộ. Cả Siêu và Quát đều tài hoa mẫn tiệp, xuất khẩu thành chương, áp đảo được mọi người nên đời bấy giờ vẫn truyền tụng là Thần Siêu, thánh Quát. Người đời cũng khen ngợi hai ông bằng hai câu:

Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán
Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường.
Nghĩa:
Văn như ông Siêu, ông Quát thì nhà Tiền Hán không đáng kể nữa
Thơ đến Tùng Thiện vương, Tuy Lý vương thì đời Thịnh Đường còn kém.

 Giữa ông vua hay chữ và thánh Quát, đã có nhiều lần “đụng độ” về thơ văn.

- Bịa thơ tài hơn vua :

Tự Đức vốn là ông vua sính thơ và hay khoe thơ mình. Nghĩ được câu thơ, bài thơ nào thường vẫn đem đọc cho quần thần nghe và lấy làm tự đắc lắm. Một hôm sau buổi chầu, Tự Đức nói với các quan:
- Đêm qua trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các khanh nghe !
Rồi đọc luôn:

Viên trung oanh chuyển “khề khà” ngữ,
Dã ngoại đào hoa “lấm tấm” khai.

 Các quan nghe xong đều lấy làm lạ vì chưa hề được nghe lối thơ vừa chữ vừa nôm ấy bao giờ, nhất là những chữ “khề khà”, “lấm tấm” nghe thật thú vị. Còn Cao Bá Quát lúc bấy giờ cũng có mặt ở đấy, thì vẫn thản nhiên mà tâu rằng:

- Tâu bệ hạ, tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã được nghe rồi ạ! Thần được nghe cả bài tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin đọc lại tất cả.

Tự Đức đang hí hửng về mấy câu thơ dở chữ dở nôm rất độc đáo của mình, không dè lại bị Quát giội cho một gáo nước lạnh thì tức lắm, vì rõ ràng hai câu thơ đó chính ông ta nghĩ ra. Tuy nhiên, ông ta vẫn cố trấn tĩnh bảo Quát đọc cho nghe cả bài thơ, với thâm ý nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân cho hả giận.

Còn đình thần cũng bực tức là Quát dám cả gan xúc phạm đến vua, và họ đang chờ một trận lôi đình; ông nọ lấm lét nhìn ông kia, không khí triều đình trở nên căng thẳng, nặng nề khác thường.

Quát bình thản suy nghĩ một lát như để nhớ lại một bài thơ lâu ngày không nhìn đến, rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:

Bảo mã tây phương “huếch hoác” lai,
“Huênh hoang” nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển “khề khà” ngữ,
Dã ngoại đào hoa “lấm tấm” khai.
Xuân nhật bất văn sương “lộp bộp”,
Thu thiên chỉ kiến vũ “bài nhài”.
“Khù khờ” thi cú đa nhân thức,
“Khệnh khạng” tương lai vấn tú tài.

Nghĩa là:
Ngựa báu từ phương tây huếch hoác lại
Người huênh hoang nhờ cậy dìu về
Trong vườn oanh hót giọng khề khà
Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm
Ngày xuân chẳng nghe tiếng sương rơi lộp bộp
Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài
Tứ thơ khù khờ đã nhiều người biết
Lại còn khệnh khạng mang đến hỏi bậc tú tài!

Bài thơ vừa đọc dứt, cả đình thần hoang mang nhìn nhau, còn Tự Đức thì biết đích là Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhất là 2 câu cuối, nhưng cũng rất sửng sốt và hết sức thán phục. Vua sai lấy chè và quế ban cho Quát và bắt Quát phải thú thật là đã bịa thêm sáu câu.

- Tự tiện chữa văn của vua :

Vua Tự Đức có làm hai câu đối để ở điện Cần Chánh như sau:

子能承父業
臣可報君恩
Tử năng thừa phụ nghiệp
Thần khả báo quân ân
Nghĩa là:
Con nối được nghiệp bố,
Tôi đền được ơn vua.

Các đình thần từ lâu vẫn phục hai câu này là hay, cho rằng nói lên được hai giường mối lớn trong đạo tam cương ...

Một hôm, Cao Bá Quát có dịp vào điện Cần Chánh, thấy đôi câu đối như vậy thì bỗng nảy ra một ý tinh nghịch, lấy bút ngoáy ngay vào bên cạnh mấy chữ rằng: “Hảo hề! Hảo hề! Phụ tử, quân thần điên đảo” (Hay chưa! hay chưa! cha con, vua tôi đảo lộn).
Việc đó được tâu lên vua. Tự Đức giận lắm,cho đòi Quát đến để hỏi tội. Quát thản nhiên đáp lại:

- Tâu bệ hạ, thần thường nghe nói đạo vua tôi phải ở trên đạo cha con; vả từ ngàn xưa bao giờ cũng vẫn vua trước mà tôi sau, cha trước mà con sau. Nay bệ hạ để như vậy chẳng phải là đã làm đảo lộn hết cả rồi sao?

Tự Đức nghe biện bạch cũng thấy xuôi tai, bèn bảo Quát thử chữa lại xem thế nào. Bấy giờ Quát mới chữa ngoặc lại như sau:
君恩臣可報
父業子能承
Quân ân, thần khả báo
Phụ nghiệp, tử năng thừa.
 Nghĩa là:
Ơn vua, tôi phải báo,
Nghiệp bố, con phải theo.

Tự Đức và các quan lúc ấy đều phải chịu là câu của Quát quả sắc sảo và chắc tay hơn; không ai còn có thể bắt bẻ vào đâu được nữa!
 Nhưng rồi cũng từ đó, Tự Đức càng tỏ ra ghét Quát hơn; vì dù sao thì Quát cũng đã làm một việc tối ư vô lễ là dám tự tiện chữa văn của nhà vua.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

LÊ VĂN HƯU


Lê Văn Hưu người làng Phủ-lý, huyện Đông-Sơn, lộ Thanh-hoa, đỗ bảng nhãn năm Đinh mùi (1247), niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình dưới triều Trần Thái Tông. Lúc đó ông mới 18 tuổi. Sau làm đến chức Hàn lâm học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu. Tương truyền, khi còn là học trò, một hôm đi ngang qua lò rèn, thấy người ta đang làm những cái dùi sắt, Lê Văn Hưu muốn xin một cái để làm dùi đóng sách. Bác thợ rèn thấy chú bé mới tí tuổi đầu đã chăm lo việc học hành, bèn ra một vế đối để thử tài:

vế ra:
Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi sắt

Bễ lò rèn là hai ống trụ tròn, rỗng ruột làm bằng gỗ (sau này bằng nhôm hoặc thép), đường kính chừng 15 - 20 phân, cao khoảng 70 phân. Bên trong đặt 2 thanh gổ, quân vải. Cấu trúc như cếc bơm tay xe đạp. Cần gío thỗi cho lửa cháy to, người thợ 2 tay 2 thanh gổ rút lên, hạ xuống… tạo ra luồng gió thổi vào lò nung. Khi có gió thổi, phát ra tiếng phì phò - như người bị hen thở, tất nhiên to hơn nhiều.

Lê Văn Hưu đối:
Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên

Câu đối này có thuyết nói của Đoàn Hy. Đoàn Hy vừa làm thợ rèn, vừa chăm chỉ học, đổ thủ khoa thi Hương trường Nam Định. Tuy nhiên có 1 số chữ nghĩa hơi khác cho nên đưa cả câu để phân biệt cho rõ. Quan chủ khảo biết nghề nghiệp vị tân khoa, ra câu đối:
Than bỏ vào lò, sắt bỏ vào lò, bể thổi phì phò, đúc ra miếng bạc
Đoàn Hy đối lại:
Mực nằm trong túi, bút nằm trong túi, người viết lúi húi, tên chiếm bảng vàng

Lê Văn Hưu người làng Phủ-lý, huyện Đông-Sơn, lộ Thanh-hoa, đỗ bảng nhãn năm Đinh mùi (1247), niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình dưới triều Trần Thái Tông. Lúc đó ông mới 18 tuổi. Sau làm đến chức Hàn lâm học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu. Tương truyền, khi còn là học trò, một hôm đi ngang qua lò rèn, thấy người ta đang làm những cái dùi sắt, Lê Văn Hưu muốn xin một cái để làm dùi đóng sách. Bác thợ rèn thấy chú bé mới tí tuổi đầu đã chăm lo việc học hành, bèn ra một vế đối để thử tài:

vế ra:
Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi sắt

Bễ lò rèn là hai ống trụ tròn, rỗng ruột làm bằng gỗ (sau này bằng nhôm hoặc thép), đường kính chừng 15 - 20 phân, cao khoảng 70 phân. Bên trong đặt 2 thanh gổ, quân vải. Cấu trúc như cếc bơm tay xe đạp. Cần gío thỗi cho lửa cháy to, người thợ 2 tay 2 thanh gổ rút lên, hạ xuống… tạo ra luồng gió thổi vào lò nung. Khi có gió thổi, phát ra tiếng phì phò - như người bị hen thở, tất nhiên to hơn nhiều.

Lê Văn Hưu đối:
Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên

Câu đối này có thuyết nói của Đoàn Hy. Đoàn Hy vừa làm thợ rèn, vừa chăm chỉ học, đổ thủ khoa thi Hương trường Nam Định. Tuy nhiên có 1 số chữ nghĩa hơi khác cho nên đưa cả câu để phân biệt cho rõ. Quan chủ khảo biết nghề nghiệp vị tân khoa, ra câu đối:
Than bỏ vào lò, sắt bỏ vào lò, bể thổi phì phò, đúc ra miếng bạc
Đoàn Hy đối lại:
Mực nằm trong túi, bút nằm trong túi, người viết lúi húi, tên chiếm bảng vàng
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHUYỆN HÀI HƯỚC CỦA NHỮNG NGƯỜI
CÓ TÊN ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ Ở VN


Được kỳ vọng nhiều điều khi đặt tên con dài tới 7 - 8 chữ, tuy nhiên những người có tên dài thường gây chú ý cho nhiều người và còn không ít chuyện khác "cười ra nước mắt" cũng từ những cái "có một không hai" này.

Mới đây, 3 chị em Lê Hoàng Hiếu Nghĩa Đệ Nhất Thương Tâm Nhân, Lê Hiếu Nghĩa Đệ Nhất Thương Tâm Nhàn và Lê Hiếu Nghĩa Đệ Nhất Thương Linh Phượng đều có 8 chữ trở lên được biết đến là những người có tên dài và "độc nhất vô nhị" gây sự chú ý của nhiều người.

Trước đó, cái tên dài nhất xuất hiện trên mạng thuộc về cô gái ở tỉnh Thái Nguyên với 7 chữ: Đào Thị Long Lanh Kim Ánh Dương.

Không mặc cảm vì tên xấu, cũng không khổ vì tên bị viết sai chính tả, chị Đào Thị Long Lanh Kim Ánh Dương, người có tên dài nhất tỉnh Thái Nguyên, lại gặp rắc rối vì kỳ vọng của cha mẹ vào cái tên của mình.

Theo lời ông Đào Sinh Hoạt (xóm 6, Tân Linh, huyện Đại Từ, Thái Nguyên), ông đặt tên con dài là “mong muốn con có một tương lai sán lạn, khi đi học nhất định sẽ được thầy cô giáo chú ý, vì thế nó sẽ học tốt hơn.”

Quả đúng vậy, cô con gái có cái tên Đào Thị Long Lanh Kim Ánh Dương thực sự là tâm điểm chú ý mỗi khi cô xuất hiện.

Tuy vậy, cô gái có cái tên độc đáo này cũng gặp phải không ít phiền toái vì chính cái tên của mình. Tất cả các bằng cấp, giấy tờ liên quan của Dương cho đến nay chỉ duy nhất có Chứng chỉ tin học là ghi đầy đủ tất cả các chữ trong tên của cô. Còn lại, trong sổ hộ khẩu, giấy tờ hộ tịch, sổ điểm khi đi học, sổ học bạ, giấy khen..., tên cô đều phải viết tắt một số ký tự để gọn hơn.

Vì tên dài nên mỗi khi gọi tên cô mọi người cũng không gọi hết cả tên. Khi thì “Dương ơi”, lúc lại "Long Lanh ơi”, hay lúc khác lại “Ánh Dương ơi”, có bạn còn gọi: “Tên dài ơi”...

Có duy nhất kỷ niệm vui gắn với cái tên dài là khi cô đi làm, mấy anh trong công ty “nghe đồn” về cái tên lạ nên đã đến để xem mặt người rồi một anh đã rước luôn cô gái có cái tên dài về làm vợ.

Một cô gái có tên là Hoàng Thị Ngọc Bích Kim Cương tâm sự: Với mong muốn “cục Kim Cương” của gia đình sau này sẽ có cuộc sống an nhàn, sung sướng nên bố cô đã chọn cho cô một cái tên dài ngoằng. Nhưng chẳng thấy chị sướng, giầu có gì mà toàn thấy rắc rối. Hồi đi thi Đại học Thương Mại, cả phòng thi và giám thị cười ồ lên khi đọc tên chị vào phòng thi.

Một người có tên 7 chữ: Ngô Thị Hải Thụ Thái Quỳnh Phương cũng khốn khổ khi đi nước ngoài không đủ chỗ để kê khai tên khi làm thủ tục.

Một người khác lại có anh họ tên là Nguyễn Trần Lê Đại Đăng Khoa Tân Tú. “Sướng đâu chả thấy, chỉ thấy mỗi khi làm giấy tờ thì anh đến khổ vì cái tên của mình”.

Ấy vậy mà một “chính chủ” có cái tên dài lại cho biết: “Tên tôi là Nguyễn Thế Trân Châu Bảo Ngọc Huyện Hoàng nhưng tôi rất tự hào với cái tên lê thê cha mẹ đặt cho này. Đôi lúc cũng có sự cố nhưng cũng dễ giải quyết thôi”.

Ở Huế, con gái dòng hoàng tộc mang họ Công Tằng Tôn Nữ. Chỉ nguyên việc mang họ hoàng tộc này thì cái tên của của một cô gái đã tên tới 5, 6 từ. Nhạc sỹ Bảo Phúc có hai người con gái tên là Công Tằng Tôn Nữ Phương Trang và Công Tằng Tôn Nữ Phương Linh. Cô giáo và bạn bè thường chỉ gọi Phương Trang, Phương Linh cho tiện.

Cũng mang họ hoàng tộc, nhưng cô gái có cái tên Công Tằng Tôn Nữ Long Lanh Như Hạt Sương Sa khiến cho bạn thi cùng phòng một phen bối rối.

Anh bạn tôi kể: “Ngày đi xem phòng thi đại học, nhìn vào tên người theo thứ tự kế tiếp sau mình, tôi luận mãi không ra.

Thoạt đầu, tưởng đó là ba người khác nhau, vì trên danh sách ghi thành ba hàng: Công Tằng Tôn Nữ - Long Lanh Như- Hạt Sương Sa.

Nhưng xem kỹ thì chỉ có dòng cuối ghi ngày sinh, quê quán, số báo danh. Như vậy đây chỉ là một người. Vào thi, có đến hai trong ba môn tôi ngồi cạnh cô gái Huế này, riêng chuyện nghĩ đến cái tên người ngồi cạnh cũng đã lấy mất một ít thời gian làm bài của tôi”.

L.Hiền (tổng hợp)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CON KIẾN, CON MUỖI VÀ… THƠ


Có bốn câu ca dao từ xa xưa, hẳn ai cũng nhớ cũng thuộc: “Con kiến mà leo cành đa/ Leo phải cành cụt leo ra leo vào/ Con kiến mà leo cành đào/ Leo phải cành cụt leo vào leo ra...”. Bài ca dao nối vần, có thể đọc đi đọc lại vần điệu vẫn chưa dứt. Hẳn tác giả khuyết danh kia muốn nói tới sự quẩn quanh, quanh quẩn không chỉ ở con kiến mà còn ở trong tạo vật cuộc đời. Con kiến gặp cành đa cụt, cành đào cụt, nó leo ra leo vào, leo hết ngày này sang ngày kia, có khi như cái đường đi luẩn quẩn đã định trước của con kiến.

Trong bài “Trời mưa ở Huế”, Nguyễn Bính có những đoạn tả chân mà lồng được tâm trạng riêng. Giữa khung cảnh ngày mưa, ông nhìn thấy mây mờ ở trên trời, nhìn thấy cả đàn kiến trên thềm cũ:

...Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói
Trời mờ ngao ngán một loài mây
Tràng Tiền vắng ngắt người qua lại
Đập đá mênh mang bến nước đầy...

Bốn câu trên, đọc kỹ, càng thấy khung cảnh buồn bã trong ngày mưa hiện ra, thấm sâu vào tâm hồn. Tác giả sử dụng những cặp từ đối nhau, đồng điệu về cảnh trí, lòng người. Những cặp từ: “Thềm cũ nôn nao”; “Trời mờ ngao ngán”; “Đàn kiến đói”; “Một loài mây” vừa đối lập nhau, vừa điêu luyện về bút pháp, vừa truyền tải được tâm trạng. Bài “Trời mưa ở Huế”, Nguyễn Bính viết năm 1941, viết trong những ngày mưa mà ông là khách trọ giang hồ. Bài “Chiều thu”, Nguyễn Bính viết năm 1959 thiên về tả cảnh, tinh tế trong cảm xúc, quan sát:

Lá thấp, cành cao gió đuổi nhau
Cuối vườn rụng vội chiếc mo cau
Trái na mở mắt nhìn ngơ ngác
Đàn kiến trường chinh tự thủa nào.

Đoạn thơ có gió đuổi nhau nơi cành thấp cành cao, có chiếc mo cau rụng vội, có trái na mở mắt, có đàn kiến trường chinh. Một bức tranh, với những nét vẽ cụ thể đến từng chi tiết nhỏ bỗng hiện ra trước mắt người đọc.

Tôi lại nhớ bài thơ “Em đi về phía biển của Phạm Tiến Duật. Bài thơ nhắc đến nỗi cô đơn của một người đàn ông phải ở nhà một mình. Cô đơn, vẩn vơ buồn, tác giả thốt lên: “Anh ở nhà với tường và với kiến/ Em đi xa hun hút biển như xanh.../ Người cũ kỹ bỗng nhiên anh cảm thấy/ Con kiến trên tường cũng cũ kỹ như anh”. Nếu bận rộn về công việc, nếu không buồn không nhớ, mấy ai chú ý tới con kiến trên tường? Phạm Tiến Duật dùng con kiến mà chuyển tải được tâm tình tạo nên cái hay, cái độc đáo của bài thơ.

Con kiến trong ca dao Việt Nam, con kiến trong thơ của Nguyễn Bính, Phạm Tiến Duật… Còn rất nhiều những câu thơ có hình bóng con kiến mà tôi không thể dẫn chứng hết.

Tôi có một anh bạn là nhà thơ. Trong một lần ngồi đàm đạo về thơ, anh có nói với tôi rằng anh đã và đang viết một trường ca: “Kiến”. Quả thật đó là ý nghĩ độc đáo, anh đọc thử cho tôi nghe một đoạn dài, tôi thấy hay. Anh cứ viết, viết cho hết mình, rồi sửa chữa và viết tiếp, trường ca mà viết dầm dề thì khó tạo được cảm xúc liền mạch lắm. Mong sao dòng chữ của anh đừng như đàn kiến bị chết trong bản nháp mà chúng nối nhau hàng nọ hàng kia đi vào trí nhớ người đọc.

Đã nói về con kiến, lại xin được phép nhàn đàm về con muỗi ở trong thơ. Trong bài thơ “Đêm ở Đồng Tháp Mười”, tôi nói về cảnh các chiến sĩ ngủ trên mảng lục bình kết lại thay giường. Giấc ngủ giữa một vùng thiên nhiên sông nước, trải ra mơ mộng, có hương sen, có trăng vàng, có tiếng cá quẫy, tôm búng càng và có cả tiếng muỗi:

Giữa đồng lầy không cây mắc võng
Lục bình lót dày tự tạo chiếc giường con
Tiếng muỗi kéo đêm ra từng sợi mỏng
Gió quyện sương, giọt hương rơi tròn

Bài thơ “Đêm ở Đồng Tháp Mười”, tôi viết năm 1974, câu thơ: “Tiếng muỗi kéo đêm ra từng sợi mỏng” chỉ dừng ở mức quan sát tinh tế, chẳng có gì đáng bàn về nghệ thuật. Bài thơ “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” của Phạm Tiến Duật, có đoạn thơ nói về tình cảm của anh lái xe với cô thanh niên xung phong:

Trường Sơn Tây anh đi, thương em
Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Rau hết rồi, em có lấy măng không?

Ở đoạn thơ trên cái câu khó diễn đạt nhất lại là câu hay nhất: “Muỗi bay rừng già cho dài tay áo”. Phạm Tiến Duật vốn là nhà thơ thông minh, giỏi đưa chi tiết vốn sống vào thơ. Người lái xe muốn được chia sẻ với người con gái thanh niên xung phong phải vất vả gánh gạo giữa mùa mưa trong rừng. Đã mưa nhiều thì muỗi lắm, cho nên người con gái phải thả dài tay áo để muỗi khỏi đốt. Cái ý ấy thật thô mộc, có gì là thơ đâu, ngay đến đưa vào văn xuôi cũng khó, cũng rất dễ sa vào lủng củng huống hồ là thơ. Vâng, chỉ một câu thơ thôi, Phạm Tiến Duật đã gói gọn được ý mình muốn diễn đạt: “Muỗi bay rừng già cho dài tay áo”. Câu thơ ngổn ngang chất liệu đời sống mà hay, giản dị mà thật khó viết.

Cũng xin nói thêm, sau này, Phạm Tiến Duật còn có hẳn một bài thơ: “Quảng cáo cho máy đuổi muỗi nhãn hiệu Jumbo”. Bài thơ có cái tên rất hiện đại, thơ cũng viết về đề tài hiện đại:

Cứ cắm điện vào muỗi sẽ bay đi hết
Cái máy kỳ diệu này của hãng Jumbo
Xua đuổi muỗi phải đốt lá xoan tươi và giẻ rách
Nay thế kỷ văn minh kỹ nghệ dư thừa
...
Không chỉ đuổi muỗi đâu khi cần Jumbo đuổi hết
Những kẻ vãng lai lảng vảng ở quanh nhà
Những kẻ ăn xin, những thằng kẻ trộm
Những tên vô công rỗi nghề tán tỉnh quanh ta.

Đề tài trên thật khó viết, tác giả lại tự nhận mình là người quảng cáo cho máy đuổi muỗi Jumbo nữa. Tôi đọc bài thơ nhiều lần, thấy lạ, thấy thông minh nhưng chưa thấy rung động. Có lẽ bài thơ này Phạm Tiến Duật nghĩ quá, lý trí quá chăng?

Có một bài thơ liên ngâm của Nguyễn Bính và Vũ Hoàng Chương viết năm 1941 khi cùng nhà văn Tô Hoài đi thăm nhà thơ Bàng Bá Lân ở ga Phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang. Thơ liên ngâm, Nguyễn Bính đọc trước, Vũ Hoàng Chương nối vần theo, được viết theo thể thất ngôn bát cú, vần điệu, nhịp bằng trắc chỉn chu, chặt chẽ. Tôi nhớ nhất câu thơ Vũ Hoàng Chương nói về cảnh mấy văn nghệ sĩ nằm thức đêm, đợi sáng:

Nằm muỗi qua đêm chờ sáng vậy
Còi xe phóng hoả xé màn sương.

Chữ “Nằm muỗi qua đêm” hay, hàm súc. Nếu như người làm thơ bậc trung thì chỉ biết diễn tả: nằm qua đêm chịu muỗi đốt chờ đến sáng. Câu chữ được dồn nén, hiệu quả truyền đạt, sự phát sáng của thơ càng cao. Dẫu là thơ liên ngâm, người đọc thơ nhận ngay ra sự gạn lọc của tác giả trong cách sử dụng ngôn từ.

Nhà thơ, nhà văn Thanh Tịnh là một trong những thành viên đầu tiên của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Thời trai trẻ, ông rời quê ra Bắc đi theo kháng chiến rồi về sống, làm việc ở ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội đến cuối đời. Ngoài tập truyện ngắn “Quê mẹ” và một số bài thơ trữ tình khác, Thanh Tịnh còn có tài làm ca dao, diễn xuất độc tấu với những tiết mục tự biên độc đáo. Thanh Tịnh viết về con muỗi bằng thể loại lục bát, pha chút hóm hỉnh, hài hước:

Vì mày, tao phải đánh tao
Vì tao, tao phải đánh tao đánh mày.

Câu thơ nôm na, gần với quần chúng, đọc rồi nhớ ngay. Ngoài cái ý “diệt muỗi” ra, hẳn Thanh Tịnh còn muốn nhắn nhủ điều gì với bạn đọc?

Nhân đây cũng xin nhắc tới một kỷ niệm nhỏ. Hồi sang Mỹ, tôi có đọc bài thơ “Nhật ký trong cơn sốt”cho các nhà thơ cựu chiến binh Mỹ nghe. Bài thơ đã được nhà thơ Kenvin Bowen và nhà thơ Nguyễn Bá Chung người Mỹ gốc Việt dịch sẵn sang tiếng Anh. Trong đoạn thơ nói về sốt rét, tôi có viết:

Tuổi trẻ anh qua vùng rừng nước độc
Con suối Trường Sơn lá mục rơi đầy
Căn hầm võng nước mưa, đêm khuya ngồi đập muỗi
Chân không giày, gỡ vắt đỏ bàn tay
Tưởng tất cả tan thành cơn sốt
Tất cả hằn trên da mặt anh đây
Môi anh sạm vầng trăng đêm nguyệt thực
Mắt anh nhoà đi sông núi cũng hao gầy...

Khi đọc xong phần thơ của mình, một nhà thơ Mỹ hỏi tôi: “Hồi chiến tranh, ông có bị sốt rét không?”. Tôi trả lời: “Đã vào chiến trường, ai cũng bị sốt rét”. Nhà thơ Mỹ kể rằng, hồi ở Việt Nam, ông là lính bộ binh, đóng quân chủ yếu ở rừng. Rừng nhiệt đới Việt Nam thật khủng khiếp ghê rợn, may mà ông còn sống sót. Ông có viết thơ, viết theo dạng nhật ký chiến tranh.

Trong số những bài thơ ông làm, ông nhớ nhất là bài thơ “Con muỗi”. Bài thơ không dài, có thể tóm tắt nội dung như sau: Cuộc chiến tranh Mỹ xâm lược Việt Nam là phi lý. Ông ví Tổng thống Mỹ giống như con muỗi độc chuyên hút máu người. Con muỗi hút máu những người lính Mỹ và cả những người lính Việt cộng. Bài thơ “Con muỗi” của nhà thơ Mỹ tôi không thuộc câu nhưng nhớ ý, tứ thơ độc đáo và cách nói thật táo bạo, trực diện.

Thực ra, mọi đề tài chất liệu cuộc sống, thơ đều dung nạp được cả. Nói như nhà thơ Uýt Man: “Thơ có mặt ở mọi nơi, trừ ở những bài thơ tồi…”. Con kiến, con muỗi - những sinh linh vô cùng bé nhỏ đã đi vào thơ ca một cách tự nhiên. Nhà thơ có thể viết về con voi, con kiến, con muỗi nhưng không có nghĩa viết về con voi thì ý tưởng lớn, viết về con kiến, con muỗi thì ý tưởng nhỏ. Nếu là thơ hay, con kiến con muỗi ngôn từ kia sẽ sống động, lung linh trong trí nhớ mỗi người.

NGUYỄN ĐỨC MẬU
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Bà CAO THỊ NGỌC ANH


Bà Cao Thị Ngọc Anh sinh năm 1877 người làng Thịnh Mỹ phủ Diễn Châu tỉnh Nghệ An, ái nữ của Đông các đại học sĩ Cao Xuân Dục. Bà lấy chồng năm 19 tuổi, chồng là cử nhân Nguyễn Duy Nhiếp, người tỉnh Hà Đông, con Cần chánh Nguyễn Trọng Hiệp, sau làm quan đến chức Án sát.

 Hai họ Cao, Nguyễn đều là lệnh tộc nức tiếng về văn học và phầm cách. Bà được thân phụ rèn cặp bút nghiên từ tấm bé, lại sẵn có tài ngâm vịnh nên sớm nổi danh trong làng văn tự.

Chồng mất sớm, lúc bà mới 26 tuổi, có ba con còn rất nhỏ, bà không tái giá mà ở vậy nuôi con, đem tâm sự gửi vào văn thơ.

  Nữ sĩ không những giỏi thơ nôm mà còn cả về thơ chữ Hán. Có người đã khen bài “Đào hoa khẩu chiếm” của bà không kém bài “Đề đô thành nam trang” của Thôi Hộ đời Đường.

Một lần, nhân giở lại tập thơ của chồng, bà cảm tác bài thơ sau:

Vong phu thi thảo

U uất thu tâm khổ bất miên,
Phần hương ngũ dạ độc di biên.
Thi từ vô hạn lăng vân tứ,
Bút thái do lưu hãn mặc duyên.
Nguyệt lãnh ngâm lâu không tịch mịch,
Đăng thuỳ lạp lệ cộng lưu liên.
Nghị hồn hà xứ như tương thức,
Ưng bổ hoa thi “Biệt hận thiên”.

Bà tự dịch ra quốc âm:
Ấm ức lòng thu ngủ chẳng yên,
Đốt lò hương dậy đọc di biên.
Bao nhiêu lời hẹn tuôn mây gió,
Để chút duyên thừa dấu bút nghiên!
Trăng dọi lầu ngâm thêm lặng lẽ,
Đèn chong lệ sáp nhỏ liên miên.
Hồn thiêng đâu đó như cùng biết,
Thêm mấy vần thơ “Biệt hận thiên!”

Bà goá chồng trong cảnh nửa chừng xuân, tài sắc vẹn toàn, nên nhiều nhà thơ trong giới quan trường không khỏi có ý lân la, thường dùng văn thơ buông lời trêu cợt. Bà tuyệt nhiên không trả lời ai cả.

Một hôm, nhân nhà có giỗ, bà cho mời tất cả các vị ấy đến uống rượu. Sau đó bà mời lên cầu Hàm Rồng ngắm cảnh.

Đến nơi, bà nói:
- Đứng trước danh sơn thắng cảnh này, dám xin các vị thi nhân mỗi vị cho một bài làm kỷ niệm.
Một ông đáp:
- Xin vâng, chúng tôi đâu dám chối từ, vậy xin bà cho bài xướng trước, chúng tôi mỗi người sẽ  hoạ lại sau.

Bà đọc rằng:

Hàm Rồng nô nức tiếng đồn om,
Rải rác nhà tranh ở mấy chòm.
Hỏi đá chờ ai ngồi nhấp nhổm,
Thương cầu vì nước đứng lom khom.
Sóng như chào khách chờn vờn nhảy,
Nguyệt cũng yêu ta lấp ló dòm.
Cửa động rêu phong mờ nét chữ,
Ai người mến cảnh chút trông nom.

 Ý tứ bài thơ rất tế nhị. Câu “Hỏi đá chờ ai ngồi nhấp nhổm” và “Sóng như chào khách chờn vờn nhảy” có ý trỏ vào các vị  thường gửi thơ văn đến trêu ghẹo bà. Câu “Thương cầu vì nước đứng lom khom” và “Cửa động rêu phong mờ nét chữ”, bảy tỏ tâm sự mình, cảm thương số phận và quyết giữ tấm lòng thờ chồng.

Nhất là cái vần “om” lắc léo, thật khó tìm ra câu, chữ thích hợp.

Các vị thi bá tần ngần nghĩ không ra vần để hoạ lại, và cũng không dám trêu ghẹo trước thái độ đoan trang ấy, nên đứng chơi một lúc rồi xin lỗi chủ nhân, lẻ tẻ kéo nhau về. Từ đó không ai dám múa bút trêu bà nữa.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

“NGOÀI TRỜI CÒN CÓ TRỜI”


Triệu Khuông Dẫn diệt nhà Hậu Chu lập ra triều Bắc Tống năm 960, phải mất gần 20 năm mới ngồi yên ngôi bá chủ Trung Quốc. Triệu Quang Nghĩa kế nghiệp anh, đang mưu tính mở rộng bờ cõi về phương Nam, nghe tin Lê Hoàn xưng Hoàng đế. Mười đạo quân của Lê Hoàn, các binh sĩ đều xăm trên trán ba chữ “Thiên tử quân”. Quang Nghĩa đùng đùng nổi giận xuống chiếu phát 30 vạn binh mã (quân số hư trương) chia ba đường đánh lấy Đại Việt, trừng phạt tội dám xưng “đế”, lại tự tôn là “thiên tử” ngang hàng vua Tống.

Đây là dịp tốt để sáp nhập đát đai Nam Việt vào Trung Quốc. Năm 981, quân Tống bị nghiền nát ngay tại cửa Hàm Quỷ, ải Chi Lăng. Thuỷ binh Tống, đạo quân Lưu Trừng tiến vào sông Bạch Đằng, trong khi cánh quân Trần Khâm Tộ đã đến giang phận Tây Kết. Nghe tin đại tướng Hầu Nhân Bảo đã bị chém rơi đầu, chúng đều rụng rời tay chân, quay thuyền tháo chạy. Lê Hoàn sai Giang thuyền tướng quân Trần Ứng Long chỉ huy thuỷ binh truy kích địch.

Thuỷ quân Trung Quốc rất mạnh. Từ đời Tần Thuỷ Hoàng (250TCN) đã chế tạo được loại thuyền biển lớn, sai người đi về phía đông tìm thuốc trường sinh ở các hải đảo. Nhiều đoàn người không trở về, nghe nói vì họ chán ghét chế độ tàn bạo nhà Tần, thà ở lại nơi hoang đảo.

Cuộc xâm lược Việt Nam năm 981, thuỷ binh Tống đều dùng thuyền gỗ lớn, đè sóng lướt gió băng băng. Trần Ứng Long đem binh thuyền đón đánh địch ngay từ cửa Nam Triệu, nhưng thuyền nhỏ, lực lượng mỏng không địch nổi thuỷ quân Tống, đành phải rút lui. Lưu Trừng sai tiền quân nhổ hết những hàng cọc sót lại từ thời Ngô Quyền đánh giặc Nam Hán, để đại binh tiến thẳng vào sông Bạch Đằng.

Trần Ứng Long vốn quê vùng đồng chiêm trũng Ninh Bình. Nhà ông mấy đời làm nghề đan thuyền thúng dùng gặt hái, bắc ốc trên đồng chiêm. Mỗi người một thuyền vừa chèo bơi, vừa lao động, rất tiện lợi. Ứng Long cải tiến thuyền thúng bơi tay thành loại thuyền nan chống sào và có mái chèo. Chỉ trong vòng nửa tháng, người dân quê ông đã đan xong mấy trăm chiếc, xảm kỹ bằng vỏ cây sắn, nước không thể vào. Mỗi thuyền chở vài ba quân, khi di chuyển, một người vác chạy băng băng. Lúc cần thiết lại có thể dùng thuyền làm chiếc mộc lớn chống lại tên bắn, giáo đâm rất hiệu quả.
Hai bên bờ sông Bạch Đằng mọc nhiều lau lách, cỏ rậm, thuyền nan nấp sẵn trong bụi chờ quân Tống đến lao vụt ra, bất ngờ xông vào giữa đoàn thuyền địch. Thuyền nam khá nhẹ, len lỏi, né tránh nhanh như sóc. Thuyền gỗ to nặng, tiến, lui, quay, trở khó, thành chậm chạp. Những chiếc thuyền nan bị thủng lại hoá thành chỗ ẩn nấp để thuỷ quân ta tiếp tục chiến đấu. Trong đánh giáp lá cà, những sào chống, bai chèo đều là vũ khí lợi hại.(1) Lưu Trừng bối rối, tiến thoái lưỡng nan, đành cho thuyền co cụm lại, tạm đóng trên khúc sông Phả Lễ gần thượng lưu Bạch Đằng.

Trong khi đó đoàn thuyền Trần Khâm Tộ theo cửa sông Cái vào đến Tây Kết (Khoái Châu) thì dừng lại chờ tin Lưu Trừng để cùng phối hợp chiến đấu. Tin tức Hầu Nhân Bảo bị đánh  tan cả đoàn quân cả mấy chục vạn không còn mảnh giáp, Lưu Trừng, Trần Khâm Tộ đều quay đầu chạy trước. Lê Hoàn sai dùng thuyền nhẹ truy kích địch đến tận cửa biển, bắt sống hai tướng giặc Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân. Về cuộc chiến đánh bại quân Tống xâm lược năm 981, đại sử gia Lê Văn Hưu viết: “Lê Đại hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc, bắt Quân Biện, Phụng Huân, dễ như lừa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà cõi bờ yên tĩnh, cái công đánh lấy tuy nhà Hán nhà Đường (hai đời cường thịnh nhất thời phong kiến Trung Quốc) cũng không hơn được.”

Triệu Quang Nghĩa (Tống Thái tông) bị đau hơn hoạn, sai giết hết bọn tướng bại trận chạy trốn về nước ! Nhưng không dám đánh báo thù Đại Việt, vì triều Tống biết rõ, đánh nữa càng thua đau hơn ! Lê Hoàn tuy không sợ quân Tống, nhưng ông cũng như các vị quân sư Khuông Việt, Đỗ Thuận đều không muốn chiến tranh, chỉ mong hai nước Trung Hoa-Đại Việt đời đời hoà hảo.

Năm 987, nhà Tống lại sai Lý Giác làm sứ giả sang Đại Việt. Lý Giác hay chữ nổi tiếng, là Quốc tử giám bác sĩ, vua Tống biết Lê Hoàn có tài ăn nói, mà triều đình cũng lắm người giỏi văn chương nên không thể sai những sứ giả không xứng đáng. Lê Hoàn bảo nhà sư Đỗ Thuận làm lái đò đi đón sử giả. Lý Giác tính hay nói văn thơ, nhân thấy một đôi ngỗng trời đang bơi trên sông, chợt nhớ bài thơ nổi tiếng đời Đường của Lạc Tân Vương, cao hứng, hắng giọng ngâm:

Nga ! Nga ! lưỡng nga nga !
Ngưỡng diện hướng thiên nha
(Ngỗng ! Ngỗng ! Ngỗng một đôi
Ngẩng mặt ngóng chân trời)

Lý Giác mới ngâm được hai câu, chưa biết nên chăng thế nào, dừng lại ngắm đôi ngỗng. Đỗ Thuận cầm mái chèo khua mạnh một cái rồi ngâm tiếp:

Bạch mao phô lục thuỷ
Hồng trạo bãi thanh ba
(Nước biếc phô lông trắng
Chèo hồng sóng xanh bơi)

Lý Giác giật mình kinh sợ, không ngờ một người lái đò nước Nam cũng thông thạo văn thơ đến thế.

Bài thơ “Vịnh Ngỗng” của Lạc Tân Vương nguyên tác 4 câu:

Nga! Nga! Nga!
Khúc hạng hướng thiên ca
Bạch mao phù thuỷ lục
Hồng chưởng bãi thanh ba.
(Ngỗng ! Ngỗng ! Ngỗng!
Cong cổ ngóng trời kêu
Lông trắng nổi trên mặt nước
Bàn chân hồng khua sóng xanh.)

Bởi trước mắt Lý Giác chỉ có hai con ngỗng, và hai con ngỗng ấy ngóng trông về phía chân trời xa chứ không ngẩng lên trời kêu, ông thêm và chữa mấy chữ để hợp  cảnh hợp tình, là chuyện thường thấy ở người xưa yêu thích thơ văn của nhà thơ nổi danh như Lạc Tân Vương. Ông chưa biết nên sửa tiếp như thế nào, Đỗ Thuận đã đỡ lời ông, thay bằng mấy chữ rất tài tình. Bài thơ“Vịnh Ngỗng” Lạc Tân Vương làm năm mới 10 tuổi, thực ra chưa phải đã thật toàn bích. Đỗ Thuận thay chữ “phù” là nổi bằng chữ “phô” là khoe, thay chữ “hồng chưởng” là bàn chân hồng bằng chữ “hồng trạo” là mái chèo hồng làm cho câu thơ trở nên tuyệt cú ! Ở đây không hề có chuyện Lý Giác và Đỗ Thuận “đạo” thơ Lạc Tân Vương, mà chỉ là câu chuyện vui về thơ, vì bài“Vịnh Ngỗng” của Lạc Tân Vương đã quá nổi tiếng, mấy ai không biết.

Lý Giác dù sau đó biết Đỗ Thuận chỉ đóng vai ông lái đò, vẫn rất khâm phục nhà sư. Lý Giác về đến sứ quán, gửi cho Đỗ Thuận một bài thơ:

Hạnh ngộ minh thì tán thịnh du,
Nhất thân nhị độ sứ Giao Châu.
Đông đô lưỡng biệt tâm vưu luyến
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch
Xa tri thanh chướng phiếm trường lưu
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.

(May gặp thời bình được giúp mưu
Một lần hai lượt sứ Giao Châu
Đông đô mấy độ còn lưu luyến
Nam Việt nghìn trùng vẫn ước cầu
Ngựa vượt khói mây xuyên đá chởm
Xe qua rừng biếc vượt dòng sâu
Ngoài trời lại có trời soi nữa
Sóng lặng khe đầm, bóng nguyệt thâu.
Bản dịch Đại Việt sử ký toàn thư)

Đỗ Thuận đem bài thơ Lý Giác dâng vua Lê Hoàn. Vua cho gọi Đại sư Khuông Việt xem. Sư Khuông Việt nói: “Thơ này có ý tôn trọng bệ hạ không khác gì vua Tống”. Lê Hoàn khen ý thơ, đặc biệt câu: “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu” nghĩa là: Ngoài trời lại có trời nên soi sáng xa...tặng cho các thứ rất hậu. Khi Lý Giác từ biệt ra về, vua sai Khuông Việt làm bài hát để tiễn chân. Lý Giác lậy tạ trở về Trung Quốc.

Theo sách “Thơ văn Lý Trần tập I” (NXB Khoa học xã hội-Hà Nội 1977) của Viện văn học: “Theo ý kiến giáo sư Đặng Thai Mai thì hai câu cuối cùng, ngoài nghĩa xưa nay vẫn hiểu là có ý thừa nhận vị trí độc lập của nước Đại Việt và ngôi thiên tử của vua Lê Đại hành (Lê Hoàn) ra còn có thể mang một nghĩa bóng không đẹp đẽ. Và đó chính là thâm ý của viên sứ giả phương Bắc.”

Tôi, người viết bài này thiển nghĩ: Giáo sư Đặng Thai Mai, nhà nghiên cứu cổ văn uy tín, nhà Hán học uyên bác, ông rất “thâm nho” nên không lạ gì cái “thâm nho” của nhà nho Trung Quốc và người Trung Quốc nói chung. Chúng ta cần cảnh giác khi tiếp cận loại văn bản của họ, nhất là thơ văn thường “ý tại ngôn ngoại”. Tuy nhiên, với bài thơ Lý Giác tôi thấy viên Quốc tử giám bác sĩ họ Lý đã bày tỏ tấm lòng thành thực, hoàn toàn không có dụng ý xấu, xỏ xiên, bóng gió:

Đông đô lưỡng biệt tâm vưu luyến,
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.
(Hai lần từ biệt Đông đô, lòng càng lưu luyến. Đất Nam Việt xa xôi nghìn trùng [tôi] vẫn ngóng trông hoài)

Thiên triều Trung Quốc dù bị đánh cho vỡ mật bay hồn, vẫn cậy nước lớn, mỗi lần sai sứ mang chế sách sang phong, trong đó nội dung hết sức ngang ngược, Lê Hoàn đều nhận chiếu rất cung kính nhưng không bao giờ lậy (vọng bái thiên tử), có ý không công nhận vai trò Thiên triều, quyền uy thiên tử. Những sứ giả trí thức Trung Quốc như Lý Nhược Chuyết, Lý Giác, Tống Cảo, Vương Thế Tắc,...đều lấy “lễ” làm đầu, không dám xấc láo, nhũng nhiễu hay hạch sách việc nhận chiếu không đúng quy định thiên triều.(2)

Bài thơ Lý Giác, đặc biệt nhất câu kết:

Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu

Thì 4 chữ “Thiên ngoại hữu thiên” vốn là câu thành ngữ rất phổ biến của nhân dân Trung Quốc, tương tự câu thành ngữ Việt Nam: Ngoài núi này cao còn núi khác cao hơn(3). Hoàn toàn không có ý Đại Việt là bầu trời nhỏ trong bầu trời lớn Trung Quốc. Sứ giả Trung Quốc cũng như nhà Tống (và Nguyên, Minh, Thanh sau này) đều biết khá rõ Lê Hoàn chẳng những xưng “Đế” mà còn dám ngang nhiên tuyên bố mình là “Thiên tử” chẳng kém gì Thiên tử nhà Tống. Việc vua Lê nhận chiếu nhưng không lậy là một sách lược ngoại giao khôn khéo để tránh gây căng thẳng quan hệ hai nước tới mức đối đầu. Với câu thơ “Thiên ngoại hữu thiên” (Ngoài trời này còn có trời khác) Lý Giác đã dám nói lên một sự thật hiển hiên như quy luật của thiên địa, nhân sinh mà thôi.
                                                                HTP-30/6/2014
HUỲNH TUẤN PHỒ
---------------------------
Chú giải:
(1)- Đây chính là nghệ thuật chiến tranh “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”, sự dũng cảm mưu trí của dân tộc Việt Nam trong suốt mấy ngàn năm lịch sử giữ nước.
(2)-Sở dĩ trí thức “Thiên triều” thể hiện sự tôn trọng này là xuất phát từ thực lực sức mạnh của Đại Việt dưới tài chỉ huy của Lê Hoàn khiến quân Tống bao phen phải kinh hồn bạt vía.

(3)-Trung Quốc còn có các dị bản như: 人外有人 (Nhân ngoại hữu nhân-Ngoài người này còn có người khác,) 山外有山 (Sơn ngoại hữu sơn-Ngoài núi này còn có núi khác)峰外有峰 (Phong ngoại hữu phong-Ngoài đỉnh núi này còn có đỉnh núi khác)...được dùng với ý: Không  có cái nào là nhất (tận thiện, tận mỹ). Cái này đã tốt, còn có cái khác tốt hơn; người này đã giỏi còn có người khác giỏi hơn. Đó là nhận thức về thế giới vô cùng vô tận.(Chú giải của Hoàng Tuấn Công)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

HỒ TÔNG THỐC


Hồ Tông Thốc người làng Thổ Thành phủ Diễn Châu, (nay thuộc huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An), không rõ năm sinh năm mất, sống thời vua Trần Nghệ tông. Thưở nhỏ đã thơ hay, nhưng chưa được nổi tiếng lắm, gặp tết Nguyên tiêu, có đạo nhân là Lê Pháp Quan treo đèn đặt tiệc, mời khách văn chương đến dự làm vui. Thốc nhận thiếp xin đề thơ, làm xong trăm bài thơ ngay trên bữa tiệc. Mọi người xúm lại xem, rất thán phục. Từ đấy tiếng dậy kinh sư, vì giỏi văn học nên được người đương thời kính trọng, mà thơ rượu thì không ngày nào không có.

Ông đậu Trạng nguyên năm 1372 (đời Trần Nghệ tông), giữ chức Hàn lâm viện học sĩ. Ông có soạn tập thơ Thảo nhàn hiệu tần thi tập và đã có lần đi sứ Trung quốc. Có mấy giai thoại liên quan đến lần đi sứ đó.
1/
Đọc thơ chê Hạng Võ:

Tương truyền, một hôm thuyền của sứ bộ nước ta đi trên sông Ô giang, đến chỗ có miếu thờ Hạng Võ dựng ở trên bờ; người ta đồn miếu đó rất thiêng, hễ thuyền bè qua lại trên sông mà không ghé vào lễ bái thì sẽ bị đắm.

Tuy có biết chuyện đó, nhưng khi qua miếu, Hồ Tông Thốc vẫn không cho thuyền ghé vào để đốt vàng. Quả nhiên, ngay lúc đó sóng gió bỗng nổi lên ầm ầm, chiếc thuyền tròng trành chỉ chực đắm. Hố Tông Thốc chẳng hề nao núng, ung dung ra đầu thuyền ngâm một bài thơ:

Quân bất quân hề, thần bất thần,
Như hà miếu mạo tại giang tân?
Giang Đông tích nhật do hiềm tiểu,
Hà tích thiên tiền bách vạn cân.
Dịch:
Vua chẳng vua, mà tôi chẳng tôi,
Bên sông miếu mạo để thờ ai?
Giang Đông ngày trước còn chê nhỏ,
Tiền giấy nay sao lại vật nài?

Hồ Tông Thốc đọc xong, tự nhiên gió lặng sóng im, và người ta nói miếu từ đó mất thiêng, thuyền bè qua lại không phải đốt vàng thắp hương nữa.
(Có thuyết nói thoại nầy của Mạc Đĩnh Chi)
2/
Chữa thơ Vương Bột :

Vương Bột (650-675) là một nhà thơ nổi tiếng thời Sơ Đường. Năm ngoài 20 tuổi, nhân dịp dự tiệc mừng tết Trùng dương (mùng chín tháng chín) ở Đằng vương các, ông có làm bài thơ và lời tựa về Đằng vương các rất nổi tiếng. Sau đó trên đường sang Giao Chỉ thăm thân phụ, ông bị đắm thuyền và chết đuối trên sông Chương giang.

 Tục truyền, vì Vương Bột chết trẻ nên rất thiêng, từ đó ở khúc sông này, cứ vào khoảng đêm khuya canh vắng, người ta thường nghe văng vẳng tiếng ngâm hai câu thơ tả cảnh đặc sắc trong bài “Đằng vương các tự”:

Lạc hà dữ cô lộ tề phi,
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.
Nghĩa là:
Ráng chiều với con cò lẻ loi cùng bay,
Nước thu cùng trời xanh một màu.

 Hồ Tông Thốc trong dịp đi sứ Trung quốc, một buổi chiều tà, nhân chèo thuyền dạo chơi trên khúc sông Chương giang nơi Vương Bột chết đuối, được nhân dân địa phương kể cho nghe câu chuyện nói trên, Hồ Tông Thốc nghe xong, bèn ra đứng ở mũi thuyền nói to lên rằng:

Hà tất dữ, cộng nhị tự?
Nghĩa là:
Cần gì phải dùng hai chữ dữ, cộng (với, cùng)?

Mọi người hỏi tại sao ông lại bảo như vậy thì Hồ Tông Thốc giải thích rằng:
- Hai câu tuy hay, song thừa hai chữ dữ và cộng, vì đã nói “tề phi”
(cùng bay) thì mặc nhiên là có ý dữ (với) trong đó rồi; đã nói “nhất sắc” (một màu) thì mặc nhiên là có ý cộng trong đó rồi!
 Sau đó ông sửa lại hai câu như sau:

Lạc hà cô lộ tề phi,
Thu thuỷ trường thiên nhất sắc.

 Mọi người nghe nói, đều phục ông bắt bẻ có lý, và hai câu của ông tuy về âm hưởng không bằng hai câu của Vương Bột, nhưng về mặt văn tự thì quả có gọn và hàm súc hơn.

Rôi từ đó, trên khúc sông ấy, người ta không còn nghe tiếng ngâm thơ của oan hồn thi nhân họ Vương nữa.

(Cũng có thuyết nói thoại này của Mạc Đĩnh Chi)
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

LÊ QUÝ ĐÔN


Lê Quý Đôn (1726 – 1784) tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, người xã Duyên Hà, huyện Duyên Hà, tỉnh Hưng Yên, nay thuộc tỉnh Thái Bình. Con Trung hiếu công Lê Phú Thứ, thượng thư bộ Hình đời Lê Dụ Tông.

Từ thuở nhỏ, đã nổi tiếng thông minh lanh lợi, nổi tiếng thần đồng. Mới 14 tuổi đã đọc hết tứ thư, ngũ kinh, sử, truyện, và đọc đến cả bách gia, chư tử ; một ngày có thể làm xong mười bài phú.

Năm 13 tuổi theo cha lên học ở kinh đô. Mười tám tuổi, thi hương đỗ giải nguyên ; năm 26 tuổi (1752, Cảnh Hưng 13), thi hội đậu đầu, vào thi đình cũng đậu đầu, trúng bảng nhãn. Nước ta, đỗ tam nguyên bảng nhãn duy có ông về đời Lê, và sau này, triều Nguyễn, có Vũ Phạm Hàm.

Đầu tiên bổ Hàn Lâm Viện thị thư (Cảnh Hưng 14 – 1753). Đi sứ Tàu năm Cảnh Hưng 21 (1760). Cảnh Hưng 30 và 31 (1769 – 1770); dự việc đánh đồ đảng Lê Duy Mật ở Thanh Nghệ. Cảnh Hưng 36 (1775), làm Tổng tài Quốc Sử Quán coi việc tục biên quốc sử cùng Nguyễn Hoàn. Tiếp đó, vào Thuận Hoá, giữ chức Tham thị, cùng Bùi Thế Đạt, chống Tây Sơn. Sau, làm đến Công Bộ thượng thư.

Năm Giáp Thìn (1784) tạ thế, thọ 59 tuổi.

Lê Quý Đôn là một học giả xem nhiều, biết rộng, để lại những công trình rất uẩn súc:
1/ Quốc âm: bài kinh nghĩa “Về nhà chồng phải răn, chớ trái lời chồng”, bài văn sách “Lấy chồng cho đáng tấm chồng”, …

2/ Hán văn: Đại Việt thông sử, Vân đài loại ngữ (chia loại các lời nói), Toàn Việt thi lục (sưu tập các thi gia từ đời Lý đến Hậu Lê), Hoàng Việt văn hải (sưu tập văn hay), Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục.

Lê Quý Đôn thông minh tột đỉnh mà cũng rất kiêu ngạo. Có mấy giai thoại văn chương liên quan đến hai cá tính đó của ông.
1/
Ba sông, bốn mắt:

Tương truyền năm mới lên 7 tuổi, một hôm có người bạn của cha đến chơi, thấy chú bé thông minh đĩnh ngộ, hỏi đâu nói được đấy thì rất lấy làm kinh ngạc. Nhân muốn thử thêm tài của Đôn, ông khách trỏ vào con sông chảy quanh sau vườn nhà, ở chỗ đó sông tự chia ra làm ba nhánh, bèn tức cảnh ra một vế đối: “Tam xuyên” (ba con sông). Vế đối này bề ngoài có vẻ khá đơn giản, nhưng kỳ thực rất “hóc búa”, vì 2 chữ “Tam xuyên”,  三 川, chữ nào cũng chỉ có 3 nét, hơn nữa chữ “xuyên” lại là chữ “tam” quay một phần tư vòng tròn (ngược chiều kim đồng hồ) mà thôi.

Chú bé 7 tuổi hiểu ngay cái lắt léo của vế đối, nhất thiết không chịu mắc lừa vì vẻ dễ dàng của nó. Đôn nhìn quanh để tìm ý. Chợt trông lên mặt ông khách, thấy ông ta đang đeo mục kỉnh, Đôn mừng quá, bèn tức cảnh đối lại ngay là “Tứ mục” (bốn mắt).
Vế đối lại này hết sức tài tình ở chỗ Đôn  đã tìm ra 2 chữ cũng rất giản dị, “Tứ mục”, 四 目, mỗi chữ chỉ có 4 nét, nhất là chữ “mục” cũng chính là chữ “tứ” quay một phần tư vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ mà thành. Vế đối tức cảnh lại còn nêu lên được một đặc điểm của ông khách già là đeo kính. Khách thán phục đứng dậy nắm lấy hai vai của chú bé mà nói: “Tài học của chú rồi sẽ dọc ngang một đời!”
2/
Thơ tự răn mình :

Tương truyền Lê Quý Đôn lúc nhỏ tuy rất thông minh nhưng tính khí rất ngỗ ngược, vì thế đã làm cha mẹ ông phải nhiều phen bực dọc.

Hồi tám chín tuổi, một hôm cởi truồng đi tắm. Tình cờ giữa đường gặp quan thượng hỏi thăm vào nhà cha mình là Trung hiếu công Lê Phú Thứ, ông liền đứng dạng hai chân ra và bảo quan thượng rằng: “Đố ông biết chữ gì đây? Nếu ông biết thì tôi sẽ đưa ông đi!” Ông khách thấy đứa trẻ hỗn xược, giận tím mặt không thèm nói gì cả. Đôn liền cười vang mà nói rằng: “Chữ thái, thế mà cũng không biết!”

(Chữ thái 太 trông giống người đứng dạng hai chân)

 Thấy đứa trẻ quá ngỗ ngược, ông quan ngạc nhiên lắm, sau hỏi ra mới biết là con Trung hiếu công. Lúc vào chơi nhà, ông thượng đem chuyện ấy ra phàn nàn.
Trung hiếu công bèn gọi Lê Quý Đôn lên mắng rằng: “Mày là thằng rắn mày rắn
mặt, phải vịnh một bài thơ tự trách mình, nếu không làm được thì ta đánh đòn! "

Đôn đọc ngay tám câu Đường luật:

Chẳng phải liu điu, vẫn giống nhà.
Rắn đầu biếng học, lẽ không tha!
Thẹn đèn hổ lửa, đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm, rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng dối trá.
Lằn lưng, đành chịu vọt năm ba.
Từ nay Trâu Lỗ chăm nghề học, (1)
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia!

(1/ Trâu: nước thầy Mạnh Tử. Lỗ: nước đức Khổng Tử. Cầu này có ý nói, từ nay sẽ chăm học theo đạo Khổng Mạnh

Bài thơ vừa ra giọng tự trách mình, vừa có ý nêu tên một số rắn (liu điu, rắn, hổ lửa, mai gầm, ráo, thằn lằn, trâu, lỗ, hổ mang), vậy mà đọc vần không thấy gượng gạo chút nào. Ông thượng thấy Đôn mới tí tuổi mà đã tài như thế, bao nhiêu tức bực đều tiêu tan hết, tấm tắc khen mãi không thôi.
3/
“Nghi nhất tự lai vấn” :

Vốn có tính kiêu ngạo, tự cho mình là thông suốt thiên kinh vạn quyển, nên khi đỗ bảng nhãn rồi, ông sai treo ngoài cửa một tấm bảng:

天下疑一字來問
“Thiên hạ nghi nhất tự, lai vấn”   
(Ai có chữ gì không biết, hãy cứ đến mà hỏi).

Bấy giờ gặp lúc thân phụ là Lê Phú Thứ vừa mất, trong nhà đang rộn rịp sửa soạn tang lễ, bỗng một ông già chống gậy tìm vào, Lê Quý Đôn nhìn không phải khách quen, bèn hỏi lai lịch. Ông già nói:

- Cháu còn nhỏ không biết, lão là bạn học với cụ nghè, nhưng vì nhà nghèo đường xa, tuổi già, nên ít đi lại. Hôm nay nghe tin cụ mất, lão mới đến để gửi câu đối viếng. Cháu đem giấy bút ra, lão đọc để cháu viết hộ, vì lão tay run không viết được
.
Lê Quý Đôn vâng lời, cầm bút đợi viết. Ông già đọc:
- Chi.
Lê Quý Đôn không biết là chữ Chi nào, nên dùng dằng đợi xem chữ sau là gì đã, sẽ tuỳ theo nghĩa mà viết cho đúng chữ nào. Ông già lại đọc tiếp:
- Chi.
Lê Quý Đôn thưa:
- Bẩm, Chi nào ạ?

Ông già thở dài thườn thượt nói:
- Trời ơi, cháu đỗ đến bảng nhãn mà chữ Chi không biết viết ư? Thế có ai xem bảng treo ngoài kia mà vào hỏi chữ “Chi” thì cháu trả lời ra sao?

Lê Quý Đôn giận xám cả mặt. Lúc đó ông già mới đọc luôn hai vế:

Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kim thượng tại;
Tại tại sổ thiên lý ngoại, đào hoa lưu thuỷ tử hà chi?
Dịch nghĩa:
Cách hơn ba chục năm, xích huyện, hồng châu nay vẫn đó;
Xa ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa, lưu thuỷ bác về đâu?

Thấy câu đối lạ tai, Lê Quý Đôn và cử toạ đều giật mình. Đọc xong, ông già lại phủ phục trước linh sàng cụ nghè mà khóc:

- Ới anh ơi, anh bỏ đi đâu, con anh đỗ đến bảng nhãn mà chữ “Chi” không biết, anh ơi ...

Rồi ông già chống gậy ra về, mời thế nào cũng không ở lại.

Dụng tâm của ông già là làm cho Lê Quý Đôn phải gỡ tấm bảng ngạo nghễ kia đi.

Cũng có thuyết cho là một dật sự của Cao Bá Quát. Song thân phụ họ Cao là một ông đồ, có lẽ không có dịp đi những “xích huyện hồng châu”. Vả lại có đỗ đến bảng nhãn cao nhất nước, mới dám treo bảng, chứ như Cao Bá Quát chỉ đỗ á khoa thi hương, ắt không dám nghênh ngang thế.

Họ Cao có một câu tuy không kém nghênh ngang nhưng chỉ là lời nói đùa: “ Có bốn bồ chữ, thì tôi hai bồ, anh tôi một, còn một mới đem chia cho cả thiên hạ!”.

Dù sao trong thoại này, tên người chủ động không quan hệ bằng bài học mà người sau có thể rút được về cái thói tự kiêu, tự mãn.
4/
Lê Quý Đôn và nhà sư :

Sau bài học này, Lê Quý Đôn lại nhận được một lần nữa nơi một nhà sư trụ trì ở chùa làng và chú tiểu.

 Nhân việc ma chay trên kia, Lê  phải lui tới trên chùa làng để làm lễ cầu siêu. Một hôm Lê vừa bước vào phương trượng thì nhà sư reo mừng:

- A, quan bảng nhãn tới đây rồi. May quá, bần tăng đang có điều muốn nhờ quan lớn chỉ giáo. Số là chú tiểu của bản tự mới gặp một người ra câu đố mà chú không giải được, bần tăng cũng chịu nốt, bây giờ phải nhờ đến quan bảng mới xong: “nghi nhất tự lai vấn” mà! Câu đố như thế này:

Hạ bất khả hạ,
Thượng bất khả thượng.
Chỉ nghi tại hạ,
Bất khả tại thượng.
- Dưới không thể dưới, trên không thể trên, đúng nên ở dưới, không thể ở trên.

“Họ đố là chữ gì, chắc chỉ quan bảng là giảng được thôi!”

Lê Quý Đôn ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu, chưa giải đáp được thì chú tiểu ở ngoài chạy vào:

- Bẩm quan bảng, ngài đã nghĩ ra chưa?
- Chưa chú ạ! Khó quá!
- Thế mà cháu vừa tìm ra rồi đấy!
- Thế thì chịu chú, nào chú giảng thử coi!
- Thưa đó là chữ nhất. Hạ bất khả hạ: trong chữ hạ 下 thì chữ nhất ở trên chứ không thể ở dưới; thượng bất khả thượng: trong chữ thượng 上 thì chữ nhất ở dưới chứ không thể ở trên; Chỉ nghi tại hạ: trong chữ chỉ 止 và chữ nghi 宜 thì chữ nhất nằm dưới; Bất khả tại thượng : trong chữ bất 不 và chữ khả 可 thì chữ nhất nằm trên. Dễ quá, quan bảng nhỉ!

Lê Quý Đôn biết mình bị lỡm vì cái bảng “Nghi nhất tự lai vấn” trong đó họ lấy ngay chữ nhất mà nhạo mình, nhưng không có cách gì đối phó lại được, đành nói vài câu chữa thẹn rồi cáo lui.

Từ đó, tấm bảng kia không còn treo ở cửa nữa.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

BÀI HÁT HAI MÙA NOEL
CỦA NHẠC SỸ ĐÀI PHƯƠNG TRANG


“Hai mùa Noel” của nhạc sĩ Đài Phương Trang là một trong những ca khúc được nhiều người nghe nhất vào mỗi dịp Giáng sinh về. Nhưng sau những ca từ đượm buồn của ca khúc này là một câu chuyện nhân hậu giản dị như chính tâm hồn của người nhạc sĩ.

Lễ Giáng Sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Noel hay Christmas là một ngày lễ kỷ niệm ngày Chúa Jesus sinh ra đời của những người theo đạo Công giáo và Tin Lành. Ngày lễ Giáng sinh được cử hành chính thức vào ngày 25.12 hàng năm, nhưng thường được mừng sớm từ đêm 24.12. Ngoài ý nghĩa tôn giáo, lễ Giáng sinh đến nay đã trở thành lễ hội văn hoá cho tất cả mọi người trên thế giới và đêm Noel đã thu hút đến hàng triệu người tham gia chứ không còn bó hẹp trong cộng đồng người theo đạo.

Lễ Giáng sinh cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhạc sĩ sáng tác ra những ca khúc hay mà chúng ta vẫn thường nghe trong dịp này. Về bản chất, Noel là một lễ hội mang tính vui tươi để mừng ngày đức Chúa Jesus giáng thế. Chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy điều này trong âm nhạc quốc tế khi nghe những ca khúc mang giai điệu vui tươi rộn ràng qua các ca khúc nổi tiếng như Jingle Bell, I Wish You A Merry Christmas, Santa Claus is Coming to Town, The First Noel…




Thế nhưng không hiểu sao trong âm nhạc Việt Nam, dường như dịp Giáng sinh thường tạo cảm giác gợi buồn cho các nhạc sĩ. Có lẽ trong tiết trời lành lạnh của mùa đông, cùng không khí rộn ràng xung quanh khiến cho trái tim người nghệ sĩ rung lên cùng những cảm xúc khi họ cảm nhận được nỗi buồn, sự mất mát đổ vỡ trong tình yêu của chính mình hoặc của người khác khi không có người mình yêu thương bên cạnh để cùng chia sẻ và cảm nhận.

Có lẽ vì thế mà những bài hát về Giáng sinh của các nhạc sĩ Việt Nam đa số đều mang giai điệu chậm buồn, nội dung ca từ thường chất chứa những da diết, nhớ nhung, nuối tiếc về những cuộc tình tan vỡ, những ước mộng không thành… Nhưng thật kỳ lạ, những bài hát như thế thường được ở lại rất lâu trong lòng của nhiều thế hệ người nghe nhạc Việt. Trong số những bài hát bất hủ về Noel mang âm điệu buồn của các nhạc sĩ Việt Nam có thể kể đến các ca khúc như Giáo đường im bóng (Nguyễn Thiện Tơ - Phi Tâm Yến), Bài thánh ca buồn (Nguyễn Vũ), Bóng nhỏ giáo đường… và bài hát Hai mùa Noel của nhạc sĩ Đài Phương Trang cũng nằm trong những ca khúc Noel được nhiều người yêu thích nhất.

Bài hát Hai mùa Noel của nhạc sĩ Đài Phương Trang ra đời cách đây hơn 40 năm, kể về một câu chuyện tình “Mùa Noel đó chúng ta quen nhau bên giáo đường. Mùa Noel đó anh dắt em vào tình yêu…” của một chàng trai với một cô gái. Tình yêu và ước nguyện của họ được bắt đầu vào một đêm Giáng sinh đầy lãng mạn khi cả hai cùng đến nhà thờ để thề nguyện “Hẹn nhau năm tới khi Giáng Sinh về muôn nơi. Mình trao cho nhau hoa lòng nhẫn cưới thiệp hồng. Dìu nhau xem lễ đêm Đông. Bên nhau muôn đời em ơi!...”. Thế nhưng đó cũng là lần đầu tiên và duy nhất chàng trai được quỳ cạnh người mình yêu trong đêm Noel. Không hiểu vì lý do gì, mối tình đẹp đó đã tan vỡ để lại bao khổ đau tiếc nuối cho người trong cuộc.

“Rồi Noel qua như mộng ước cũng xa rồi.
Gặp nhau chi để thương đau?
Yêu nhau sao đành xa nhau?

Cái kết buồn trong ca khúc khiến cho không ít người bâng khuâng day dứt tự hỏi chàng trai trong bài hát là ai? Đó có phải chính là mối tình của nhạc sĩ Đài Phương Trang thời trai trẻ hay không? Câu hỏi ấy sẽ mãi mãi là điều bí mật nếu như không được chính nhạc sĩ Đài Phương Trang kể ra. Và khi bí mật đó đã được “bật mí” thì nhiều người đã không khỏi ngỡ ngàng khi biết đây là một cuộc tình hoàn toàn… hư cấu.

Theo chia sẻ của nhạc sĩ Đài Phương Trang thì Hai mùa Noel được ra đời trong một dịp rất tình cờ. Vào dip Giáng sinh năm ấy ông rất hạnh phúc cùng người người yêu của mình (hiện bây giờ đang là vợ của ông). Khi chở người yêu đi chơi Giáng sinh, nhạc sĩ Đài Phương Trang vô tình bắt gặp một chàng trai đứng một mình ở khu vực nhà thờ Đức Bà (TP.HCM) hàng giờ liền. Không biết chàng trai đó đứng làm gì đang đợi ai, nhưng hình bóng lẻ loi cô đơn đó đã gợi lên cho ông nhiều cảm xúc, thương cảm và muốn được chia sẻ suốt một thời gian dài.

Hai năm sau đó, theo đề nghị của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông nhờ ông viết một ca khúc về chủ đề Noel cho hãng đĩa Sơn Ca thì hình ảnh chàng trai cô đơn đứng bên gốc cây cạnh nhà thơ Đức Bà đã trở thành nguồn cảm hứng  cho ông hoàn thành bài hát này.


Ngay sau khi ra đời, Hai mùa Noel đã được rất nhiều người yêu nhạc đón nhận. Bài hát cũng trở nên phổ biến rộng rãi hơn với công chúng nghe nhạc Việt trong và ngoài nước khi được các ca sĩ nổi tiếng như Anh Khoa, Như Quỳnh, Mạnh Đình, Tuấn Vũ, Vũ Khanh, Hương Lan, Đàm Vĩnh Hưng, Hồng Ngọc chọn thể hiện và đưa vào các album nhạc Giáng sinh hàng năm.

Về mặt âm nhạc, bài hát Hai mùa Noel của nhạc sĩ Đài Phương Trang rất thành công, nhưng đây chưa hẳn là niềm vui của ông. Nhạc sĩ Đài Phương Trang chia sẻ rằng vì nội dung của ca khúc này mà ông áy náy trong suốt một thời gian rất dài. Đây là câu chuyện hoàn toàn tưởng tượng nhưng nỗi buồn trong đó đã gợi lên cho ông quá nhiều suy tư. Vì vậy sau mấy chục năm ông quyết định “chuộc lỗi” bằng một ca khúc Hai mùa Noel 2. Ca khúc nối tiếp này vẫn là câu chuyện tưởng tượng nhưng chàng trai trong câu chuyện đã khác, anh đã vượt qua nỗi đau riêng, vượt qua sự cô đơn mất mát trong tình yêu để hướng đến một tình cảm lớn hơn trong mỗi dịp đi lễ nhà thờ đó là “cầu xin ơn lành ban cho những mối duyên đời luôn được chung đôi mãi không chia rời”.

Không biết chàng trai đứng ở gốc cây bên cạnh nhà thờ Đức Bà mà nhạc sĩ Đài Phương Trang bắt gặp năm ấy bây giờ đang ở đâu, làm gì? Anh có vượt nỗi buồn vì cô đơn ngày đó hay chưa? Anh đã có một gia đình êm ấm cùng với người mình yêu hay chưa? Nhưng chắc chắn khi biết được hát Hai mùa Noel nhạc sĩ Đài Phương Trang được lấy cảm hứng từ một khoảnh khắc cô đơn của chính mình và chuyển tải vào đó sự an ủi sẻ chia cảm thông thì có lẽ đó là niềm vui đủ để lấn át những nỗi buồn xưa cũ.

Một mùa Giáng sinh nữa lại về, hàng triệu triệu người đang hân hoan chào đón với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Trong đêm Giáng sinh thiêng liêng nhưng rộn ràng ấm áp sẽ có rất nhiều chàng trai cô gái tay trong tay hạnh phúc bên nhau cùng đến giáo đường cùng cầu nguyện cho tình yêu của họ trở nên bền chặt…Thế nhưng đâu đó trên mỗi góc phố con đường, mỗi gốc cây bên cạnh vẫn còn những chàng trai, cô gái đang cô đơn đứng trong đêm lạnh để chờ đợi một điều gì đó. Và có lẽ nếu vô tình nghe được bài hát Hai mùa Noel của nhạc sĩ Đài Phương Trang, họ sẽ cảm thấy nhẹ lòng hơn, an ủi hơn một phần nào.


Tiểu Vũ
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [47] [48] [49] [50] [51] [52] [53] ›Trang sau »Trang cuối