Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [21] [22] [23] [24] [25] [26] [27] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

SAO LẠI NÓI
CHỮ QUỐC NGỮ VIỆT NAM
RẤT NỰC CƯỜI-[2]


Người TQ có các nhận thức nói trên là do họ hiểu sai về nguồn gốc dân tộc ta và về tiếng Việt. Nước ta thời cổ không có chữ viết để chép sử, phải mượn dùng chữ Hán hai nghìn năm, trong đó hơn nghìn năm từng là quận huyện của TQ, cho nên chính người Việt Nam cũng dễ tin theo quan điểm của các sách sử TQ viết về nguồn gốc dân tộc ta. Nhiều người TQ hiện nay vẫn nghĩ rằng người Việt Nam thời cổ thuộc tộc Lạc Việt, một trong các bộ tộc ở phía Nam sông Trường Giang mà họ gọi vơ đũa cả nắm là Bách Việt, tương tự như các tộc người Phúc Kiến, Quảng Đông, Giang Tô, v.v… Các tộc này đều thuộc chủng tộc Hán (tỷ lệ người Hán tại ba tỉnh nói trên là 97,6%; 94,1% và 99,64%; số liệu 2015), họ chủ yếu nói các phương ngữ Mân, Việt, Ngô của tiếng Hán. Các phương ngữ đó đều thuộc cùng một ngữ hệ Hán-Tạng, vì thế theo lẽ tự nhiên chữ Hán có thể ghi được tiếng mẹ đẻ của các tộc này và do đó không có vấn đề Hán hoá các tộc Bách Việt.

Thực ra dân tộc Việt Nam khác hẳn các tộc Bách Việt về chủng tộc, về văn hoá và nhất là về ngôn ngữ. Các thành tựu khảo cổ gần đây càng khẳng định ưu thế của giả thuyết cho rằng dân tộc Việt Nam thời cổ là cư dân bản địa (như người Mường) chứ không phải là dân Bách Việt di cư xuống miền Nam, như quan niệm của người TQ. Tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-khmer trong ngữ hệ Nam Á, khác hẳn ngữ hệ Hán-Tạng, và tuyệt đối không phải là một phương ngữ của tiếng Hán, thể hiện rõ nhất ở chỗ có nhiều âm tiết hơn và khác hẳn về ngữ pháp; bởi vậy chữ Hán không thể nào ghi được tiếng Việt. Cho dù đã dùng chữ Hán hai nghìn năm nhưng nước ta vẫn không bị Hán hoá như phong kiến TQ mong muốn, và không thể có một nền văn học tiếng Việt, chỉ có một nền văn học chữ Hán nghèo nàn (các học giả Đặng Thai Mai, Hoài Thanh…không xếp vào loại văn học dân tộc ta). Chữ Hán chỉ được tầng lớp quan chức và trí thức Việt Nam dùng trong công việc hành chính, giao tiếp với TQ, ghi chép sự việc, làm văn thơ theo kiểu văn thơ TQ…, và đọc bằng âm Hán-Việt. Để xây dựng một nền văn hoá dân tộc, tổ tiên ta đã tự sáng tạo ra chữ Nôm, và cuối cùng chấp nhận dùng chữ Quốc ngữ do các giáo sĩ châu Âu làm ra. Cả hai thứ chữ này đều ghi âm được tiếng Việt nhưng chữ Quốc ngữ hoàn thiện hơn.

Quá trình người Việt Nam bỏ chữ Hán chữ Nôm, chuyển sang dùng chữ Quốc ngữ là một quá trình tự nhiên, tự nguyện, chủ yếu vì chữ Quốc ngữ ghi được 100% tiếng Việt và dễ học, dễ nhớ, dễ viết, dễ dùng, hơn hẳn các loại chữ tổ tiên ta đã biết. Quá trình chuyển đổi chữ viết này rất thuận lợi, nhanh chóng thành công trên cả nước, tuy mới đầu có gặp sự phản đối yếu ớt từ một số ít nhà Nho cổ hủ. Tất nhiên sự ủng hộ của chính quyền cai trị cũng góp phần thúc đẩy quá trình đó. Trong thời gian ngắn, nước ta xuất hiện một nền văn hoá, văn học nghệ thuật, báo chí tiếng Việt và phát triển rầm rộ chưa từng thấy. Nói Việt Nam thất bại trong cải cách chữ viết là hoàn toàn sai lầm.

Rõ ràng, các giáo sĩ tham gia làm chữ Quốc ngữ như Antonio Barbosa, Gasparo d’Amiral, Alexandre de Rhodes, Francesco de Pina, Cristoforo Borri, Pigneau de Béhaine,…không chỉ giàu nhiệt tình tạo chữ ghi âm tiếng Việt mà còn có kiến thức cao siêu về ngôn ngữ học, nhờ thế tuy ít người và làm việc phân tán nhưng họ đã hoàn thành một sáng tạo vĩ đại trong lịch sử ngôn ngữ học thế giới: lần đầu tiên dùng chữ cái Latin làm ra một loại chữ ghi âm thành công tiếng nói của một dân tộc châu Á, tạo ra cho người Việt Nam một hệ thống chữ viết hoàn toàn mới, Latin hoá, ghi âm chính xác 100% tiếng Việt. Đây là món quà vô giá dân tộc ta nhận được từ nền văn minh Ki Tô giáo trong quá trình giao tiếp văn hoá Đông Tây.

Trên thế giới không có loại chữ viết nào tuyệt đối hoàn hảo; chữ Quốc ngữ cũng vậy. Dù sao nó thích hợp nhất với tiếng Việt. Do được Latin hoá nên việc mã hoá chữ Quốc ngữ để đưa tiếng Việt vào máy tính trở nên rất thuận tiện, không mất hàng chục năm nghiên cứu như việc mã hoá chữ Hán.

Thực ra từ thế kỷ XVII trở đi, các giáo sĩ châu Âu cũng hăng hái nghiên cứu dùng chữ cái Latin ghi âm tiếng TQ nhưng tất cả đều thất bại do gặp những khó khăn không thể vượt qua. Mọi cố gắng theo hướng đó của các học giả TQ về sau cũng vậy.

Năm 1605, nhà truyền giáo Matteo Ricci đầu tiên đề ra phương án dùng chữ cái Latin để ghi chú âm cho chữ Hán. Sau đó nhiều người TQ tiếp tục các nghiên cứu theo hướng đó, bắt đầu từ phương án chữ ghi âm tiếng Hán do Lô Tráng Chương đề xuất năm 1892. Tới năm 1958, sau khi bỏ ra cực nhiều công của, nhà nước CHND Trung Hoa mới làm ra được một phương án dùng chữ Latin để ghi chú âm chữ Hán, gọi là Phương án ghi âm Hán ngữ (Hanyu Pinyin Fangan). Nhưng đây chỉ là một bộ chữ Latin thể hiện âm đọc của từng chữ Hán, chỉ có chức năng làm công cụ hỗ trợ học và dùng chữ Hán mà chưa phải là một hệ thống chữ viết ghi âm hoàn chỉnh có thể thay cho chữ Hán.

Nói cách khác, người TQ chưa làm ra một hệ chữ viết Latin ghi âm được Hán ngữ. Các cố gắng của họ theo hướng này dường như đã chấm dứt sau một quyết định năm 1986 thống nhất từ nay không đặt vấn đề ghi âm hoá chữ Hán.[3] Công cuộc cải cách chữ Hán từ đó dừng lại ở tình trạng dùng “song ngữ”, tức chữ Hán kèm bộ chữ Pinyin Hán ngữ. Hầu như toàn bộ người TQ dùng điện thoại thông minh và máy tính đều biết sử dụng thành thạo bộ chữ Pinyin để đánh máy chữ Hán.

Trong các dân tộc từng dùng chữ Hán, duy nhất Việt Nam nhờ có chữ Quốc ngữ mà đã hoàn toàn “Thoát Hán” về ngôn ngữ, “thoát” một cách nhanh gọn, không chút dính dấp tới chữ Hán. Người Triều Tiên cũng sáng tạo được chữ Hangul là loại chữ ghi âm nhưng vẫn gặp khó khăn về các chữ/từ đồng âm, họ vẫn cần dùng chữ Hán để ghi chú nghĩa của một số từ, nhất là các từ về pháp lý.[4] Người Nhật tuy sáng tạo được loại chữ ghi âm Kana nhưng Nhật ngữ hiện nay vẫn phải dùng khoảng 2000 chữ Hán. Như vậy nghĩa là hai dân tộc ấy chưa hoàn toàn “Thoát Hán” về ngôn ngữ.

Có thể thấy chữ Quốc ngữ thực sự là một sáng tạo phi phàm, một thành tựu lao động trí tuệ xuất sắc của các nhà truyền giáo đạo Ki Tô người châu Âu – những người hiến dâng đời mình cho sứ mệnh truyền bá học thuyết của Chúa Jesus ấy khi sáng tạo ra chữ Quốc ngữ không biết rằng họ đã làm được một cống hiến vĩ đại cho dân tộc Việt Nam. Các giáo dân vùng Quảng Nam, Bình Định, Quy Nhơn, Phú Yên… từng đóng góp phần đáng kể vào sự hình thành và truyền bá chữ Quốc ngữ. Tiếp đó, công lao hàng đầu trong sự nghiệp bảo vệ và truyền bá phổ cập chữ Quốc ngữ thuộc về các nhà sáng lập phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, các học giả Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh…, cùng hàng triệu người tham gia phong trào Truyền bá Quốc ngữ và Bình dân học vụ.

Học giả Phạm Quỳnh ca ngợi Chữ Quốc ngữ là công cụ giải phóng trí tuệ của người Việt Nam. Đúng thế, chữ Quốc ngữ mở ra không gian vô tận cho tư duy của người Việt, bất kỳ ý nghĩ nào cũng có thể ghi lại bằng chữ – điều này trước đây chưa bao giờ thực hiện được. Chữ Quốc ngữ dễ học, dễ nhớ, dễ đọc dễ viết; nhờ thế chỉ trong một thời gian ngắn nước ta đã xoá được nạn mù chữ, nâng cao vượt bậc trình độ hiểu biết của dân chúng. Kho tàng tiếng Việt giàu có hơn bao giờ hết, có thể diễn dịch mọi thành tựu mới nhất của nhân loại về khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội-nhân văn…

Nhờ thế nền văn minh  Việt Nam phát triển nhanh chóng, toàn diện, hoà nhập xu thế toàn cầu hoá. Với khoảng gần 90 triệu người dùng, chữ Quốc ngữ trở thành ngôn ngữ viết top 25 thế giới… Các thành tựu của chữ Quốc ngữ rất to lớn, trên đây chỉ có thể lướt qua vài điểm. Hãy tưởng tượng nếu ngày nay nước ta vẫn dùng chữ Hán, chữ Nôm thì nền văn minh Việt Nam sẽ lạc hậu thảm thương như thế nào. Chữ Hán không ghi âm được tiếng Việt, chữ Nôm ghi âm được tiếng Việt nhưng khó gấp nhiều lần chữ Hán, phải biết chữ Hán mới học được chữ Nôm. Với hai loại chữ vuông đó sao có thể truyền bá được các giá trị văn hoá tư tưởng hiện đại, các khái niệm khoa học kỹ thuật… và xây dựng ngành văn hoá giáo dục, văn học, báo chí, truyền thanh truyền hình, xuất bản… với quy mô như ngày nay?

Rõ ràng chữ Quốc ngữ là di sản phi vật thể lớn nhất, giá trị nhất chúng ta nhận được từ tổ tiên mình – những người góp phần không nhỏ giúp các nhà truyền giáo châu Âu làm ra chữ Quốc ngữ và sau đó đồng tâm nhất trí chấp nhận dùng thứ chữ này.

Nguyễn Hải Hoành
là dịch giả và nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội. Một phiên bản của bài viết đã được đăng trên tạp chí Văn hoá Nghệ An số 353 (24/11/2017).
———————
[1]季羡林老人谈国学https://wenku.baidu.com/view/a7458429102de2bd97058833.html
[2] Nguyên văn chữ Hán: 越南文字拼音化之后,头戴帽子,脚穿鞋子,很滑稽.
[3] Nhà ngôn ngữ học Châu Hữu Quang nói việc này nếu làm thì cần 100-500 năm.
[4] Tiếng Triều/Hàn nghèo âm tiết, cho nên vấn đề từ đồng âm khá phức tạp. Ví dụ hai từ gốc Hán chú ý và chủ nghĩa, tiếng Triều/Hàn đều đọc và viết là “ju-i”, hoặc các từ kị sĩ , ký sự, kỹ sưđều đọc và viết là “ki-sa”, vì thế dễ gây nhầm lẫn. Trong trường hợp cần phân biệt chính xác các từ đồng âm, sách báo tiếng Hàn thường ghi chú bằng chữ Hán trong ngoặc đơn.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHUYỆN “ĂN THỊT NGƯỜI”
TỪ SỬ VIỆT
ĐẾN NỀN VĂN HỌC TRUNG QUỐC


Ngày 9.11 vừa qua, Cục quản lý dược của Bộ Y Tế đã khiến dư luận choáng váng khi ra công văn đề cập thuốc “Trung Quốc làm từ thịt người”. Ngay sáng ngày 10.11, báo điện tử Một Thế Giới có bài phản biện khẳng định cái gọi là thành phần thịt người thực chất chỉ là “nhau thai” mà trong y học cổ truyền nước ta gọi là “tử hà sa” và được coi như một dược liệu mà thôi.

Sau khi báo điện tử Một Thế Giới đăng bài phản biện thì đến chiều cùng ngày, đại diện của Bộ Y tế cho biết loại thuốc “làm từ thịt người” được nhắc đến trong công văn mới đây của Cục Quản lý dược, Bộ Y tế không phải được làm từ thịt người như nhiều người nghĩ mà thực chất được làm từ nhau thai. Như vậy, Bộ Y tế đã phải cải chính thông tin mà trước đó Cục quản lý dược phát ra và nội dung cải chính này theo đúng như những gì báo điện tử Một Thế Giới khẳng định trước đó.

Nhân vấn đề “thịt người” còn đang khiến dư luận quan tâm thì xin bàn qua những chuyện liên quan đến thịt người được đề cập trong sách sử nước ta. Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: Năm Mậu Ngọ (178). (Hán, Linh đế, năm Quang Hoà thứ 1). Tháng giêng, mùa xuân. Quận Giao Chỉ, quận Hợp Phố và Mán Ô Hử nổi dậy làm phản. Nhân thế người Giao Châu là Lương Long khởi lên làm loạn, đánh phá, vây hãm các thành ấp.

Sau đó, Cương mục giải thích thêm về cái gọi là Mán Ô Hử: “Theo truyện Tây Mai di trong sách Hậu Hán thư và theo sách Nam châu dị vật chí của Vạn Chấn, Ô Hử, là tên đất, ở về phía nam Quảng Châu, phía bắc Giao Châu, thường hay đón đường rình những hành khách qua lại, ập ra đánh, cốt bắt lấy người ăn thịt, không thiết đến của cải; có khi lấy thịt người ướp làm món ăn. Cho nên lại gọi là Hám nhân quốc (nước ăn thịt người)”. Đại Việt sử ký toàn thư thì định vị Ô Hử rõ hơn là tên tộc thiểu số ở vùng núi Ô Hử thuộc huyện Hoành, tỉnh Quảng Tây.

Thực ra, chúng tôi cũng tìm thử trong Hậu Hán Thư thì chỉ có 1 quyển ghi chép về khu vực phía Nam sông Dương Tử là liệt truyện số 76: Nam Man Tây Nam Di. Trong cuốn này cũng chẳng hề có truyện Tây Mai di như Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép mà chỉ có truyện về Nam man và Tây Nam di. Và trong cả phần Nam man lẫn Tây Nam di cũng không hề nhắc đến từ “Hám nhân quốc”. (ngay cách chép sử của người Hán cũng tỏ ra rất coi thường các dân tộc xung quanh khi người phía nam gọi là Man, người phía đông gọi là Di, phía bắc gọi là Địch, phía tây gọi là Nhung).

Còn như Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc) còn trước cả thời viết Hậu Hán thư. Cuốn này cũng chỉ là ghi chép trong đó có nhiều yếu tố dân gian chứ không phải chính sử, độ tin cậy rất thấp. Do vậy, chi tiết về dân tộc Ô Hử phía nam sông Dương Tử có truyền thống ăn thịt người là rất thiếu cơ sở.

Cũng cần thông cảm là các sử gia thời trước quả thật gặp khó trong việc tra cứu tư liệu xưa. Từ thời Linh đế nhà Hán đến lúc sủ gia nhà Nguyễn viết Khâm định cách nhau cũng khoảng 1,5 thiên niên kỷ - thời gian quá dài để thu thập tài liệu chính xác. Do vậy, nhiều sự kiện có khi cũng chỉ là chép tạm để sử gia thời sau có điều kiện sẽ khảo chứng thêm.

Nhưng một điều phải ghi nhận thời kỳ đó, triều đình phong kiến phương Bắc có dã tâm rất lớn trong việc bành trướng xuống phía Nam. Để thuyết phục nhân tâm thì họ tìm chính danh trong việc xâm lược các dân tộc phía Nam bằng chiêu bài “giáo hoá” các dân tộc chưa hiểu đạo thánh hiền, lối sống man rợ trong đó có việc ăn thịt người. Chiêu bài này được triều đình Hán - triều đại bắt đầu áp dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng cai trị - đẩy mạnh. Trên cơ sở đó, những câu chuyện ghi chép, các giai thoại thiếu thiện chí dành cho các dân tộc phía nam xuất hiện như chuyện người Ô Hử ăn thịt người xuất hiện để làm cớ cho việc xâm lược xuống phía nam. Ngay đến thời Minh - Thanh, khi Phùng Mộng Long (tác giả Đông Chu Liệt quốc) viết Dụ Thế Minh ngôn cũng còn chép những chuyện kể về người phía nam ai cũng giỏi bùa ngải, giết người như bỡn dù trên thực tế thì đó là “fake news”.

Những ghi chép rồi truyền miệng về “tộc ăn thịt người” thời Hán chẳng biết có đúng không nhưng về sau, nó trở thành một phần cảm hứng cho văn học Trung Quốc. Nếu đọc Thuỷ Hử của Thi Nại Am thì thấy thời Tống nhan nhản các tửu điếm giết người để làm bánh bao nhân thịt người còn khắp chốn là các sơn trại với các đại vương thích moi gan nạn nhân uống rượu, riêng “hảo hán” Lý Quỳ thì được kể rằng đã giết Lý Quỷ rồi ăn thịt ở hồi 42 như sau: “Đoạn rồi lần đến bếp, thấy nồi cơm đã chín, không còn có một chút gì để làm thức ăn. Chàng dở cơm ra ăn mấy miếng, rồi nom ra cái xác chết mà cười nói rằng: Mình ngu xuẩn thực! Thịt bỏ đây kia, mà không ăn là nghĩa lý gì?

Nói đoạn liền xăm xăm vác dao ra cắt mấy miếng thịt đùi Lý Quỷ, lấy nước rửa sạch, rồi đem vào đống than lửa vừa nướng vừa ăn, ăn một lúc no nê rồi đem xác Lý Quỷ vất vào giữa nhà, mà châm một mồi lửa đốt lên, rồi đem dao khoác gói ra đi”.

Truyện Tây Du Ký thì việc tìm cách ăn thịt Đường Tăng được lặp đi, lặp lại trong từng chương hồi. Truyện Tam Quốc cũng kể chuyện Lưu An giết vợ làm thịt dâng cho Lưu Bị ở hồi 19 như sau: “Một hôm vào nghỉ trọ một nhà, trong nhà có một chàng tuổi trẻ ra lạy. Bị hỏi tên họ là gì, người ấy nói là con nhà săn bắn tên là Lưu An. Lưu An nghe thấy quan mục Dự Châu đi qua, muốn kiếm đồ dã vị thết đãi, ngặt vì không tìm được thứ gì bèn giết vợ lấy thịt thết Lưu Bị. Huyền Đức hỏi: Thịt gì?
An thưa: Thịt chó sói!

Huyền Đức tưởng thực, ăn một bữa no, rồi tối đi ngủ. Đến sáng sắp đi, ra đằng sau lấy ngựa, thấy ở dưới bếp có một người đàn bà chết, thịt cánh tay đã cắt hết. Lưu Bị giật mình, hỏi ra mới biết thịt ăn tối hôm trước là thịt vợ Lưu An”.

Ba trong tứ đại danh tác của văn học Trung Quốc đều kể về ăn thịt người một cách rất tự nhiên. Cảm hứng đó truyền tiếp đến văn học hiện đại. Nổi tiếng trong văn học Trung Quốc phải kể đến các tác phẩm của Kim Dung. Cảm hứng ăn thịt người cũng được tả khá rõ. Chẳng hạn trong Xạ điêu anh hùng truyện thì kể “Quách Tĩnh bị rắn độc của Lương Tử Ông tấn công, trong lúc cấp bách Quách Tĩnh đã hút hết máu rắn nhờ đó công lực tăng lên đáng để. Sau đó Quách Tĩnh bị Lương Tử Ông truy sát để hút máu sống”. Trong Ỷ Thiên đồ long ký thì kể “Vi Nhất Tiếu bị tẩu hoả nhập ma khi luyện công, do đó khi khai triển nội công đều phải hút máu người sống, nếu không thì sẽ bị lạnh cóng toàn thân và chết”. Đặc biệt, Ỷ Thiên đồ long ký hồi 80 còn kể khi Trương Vô Kỵ dắt Dương Bất Hối đi tìm cha thì suýt bị bọn Tiết Viễn Công, Giản Tiệp giết để làm thịt ăn. Giản Tiệp còn nói: “Bụng đói đến nổ đom đóm thế này, dù ngươi có là em ruột, con ruột thì ta cũng ăn cả xương lẫn da”. Còn Tiết Công Viễn thì nói: “Đang đói bỏ mẹ, đến bố mẹ ruột tao cũng ăn nữa là”.

Đến Liên Thành Quyết thì việc ăn thịt người còn được đề cập rất cụ thể ở chương 32 và 33. Theo đó, nhân vật Hoa Thiết Cán đã ăn thịt luôn 2 người anh em kết nghĩa xấu số là Lục Thiên Trữ và Lưu Thừa Phong. Thậm chí, họ Hoa còn định giết luôn Địch Vân để làm thịt và lý luận với Thuỷ Sinh: “Thịt người sống ngon hơn thịt người chết, chúng ta mổ gã chia nhau ăn thịt há chẳng hay hơn ư?”

Thật khôi hài. Khi các triều đại xưa Trung Quốc dung túng cho những lời đồn đại về “lối sống hoang dại” của người phương nam thì những câu chuyện về “ăn thịt người” lại thẩm thấu, bám chắc vào nền văn học Trung Quốc. Cái sự thẩm thấu và bám chắc này lớn đến mức đi vào các tác phẩm nổi tiếng một cách rất tự nhiên mà không ai phải băn khoăn cả. Thậm chí, khi người ta đưa chuyện ăn thịt người lên tựa đề tác phẩm như “Mẹ chồng ăn thịt cả nhà nàng dâu” để thành yếu tố kích thích người đọc nâng tầm lên “Best seller”.

Theo hiểu biết nông cạn của người viết thì các nền văn học khác đều không có yếu tố “ăn thịt người” phổ biến như vậy. Ngay nền văn học Việt Nam thì ngoài chuyện Tấm Cám ra thì hầu như chúng ta không gặp chi tiết “ăn thịt người”.

Anh Tú
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

VIỆT NAM CÓ HOÀN TOÀN
“THOÁT TRUNG” ĐƯỢC KHÔNG?-[1]


Sau sáu năm, tôi lại đến Việt Nam lần nữa; chuyến đi này nhằm mục đích chính là tìm hiểu tình hình tiến trình “Thoát Trung” của Việt Nam thời cận đại và hiện đại cũng như các ảnh hưởng của tiến trình đó.

Cho dù chỉ là một du khách bình thường đi tham quan kiểu cưỡi ngựa xem hoa thì bạn cũng sẽ dễ dàng cảm nhận được văn hoá Trung Hoa có ảnh hưởng sâu sắc như thế nào đối với Việt Nam: những biển chữ Hán ngoài cổng các kiến trúc cổ trên đường phố, những đôi câu đối nghiêm chỉnh trên cột các đền chùa, môn cờ tướng Trung Quốc là trò giải trí được nhiều người ưa thích nhất ở các công viên, chữ Song Hỷ màu hồng trong các lễ cưới….

Thế nhưng sau khi đi sâu quan sát thì bạn sẽ phát hiện thấy chỗ nào cũng có dấu tích của tiến trình “Thoát Trung”: một số bảng biển chữ Hán ở các đền chùa bị thay bằng các bảng biển viết chữ Quốc ngữ La tinh hoá, thậm chí cả đến câu đối cũng đều đã “La tinh hoá” như vậy, những chữ La tinh của đôi câu đối viết dọc từ trên xuống dưới đem lại cho người ta một cảm giác cười ra nước mắt; trong các viện bảo tàng, những phần trưng bày về kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ hầu như không thấy nói gì về viện trợ của Trung Quốc; các cửa hiệu trên đường phố đều treo biển “Hàng Việt Nam”, “Hàng Nhật”, “Hàng Hàn Quốc” “Hàng Mỹ” thậm chỉ “Hàng Canada” mà hầu như chẳng thấy biển hiệu “Hàng Trung Quốc”, cho dù Trung Quốc là nước nhập khẩu hàng hoá lớn nhất vào Việt Nam.

Chưa thấy nhiều tác phẩm nghiên cứu có hệ thống về vấn đề Việt Nam “Thoát Trung”. Trong mấy tài liệu tôi sưu tầm được, các tác giả chưa nhất trí về nguồn gốc và tình hình phát triển của tiến trình Việt Nam “Thoát Trung”, việc phân tích động cơ “Thoát Trung” cũng khá đơn giản, và đó lại chính là nguyên nhân thúc đẩy tôi đến Việt Nam tìm hiểu.

“La tinh hoá” chữ viết của Việt Nam

Trong tác phẩm “Khối cộng đồng tưởng tượng – nguồn gốc và sự truyền bá chủ nghĩa dân tộc” [Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism] của Benedict Anderson có viết: “Các tưởng tượng về nhà bảo tàng và quá trình tổ chức nhà bảo tàng đều có tính chính trị sâu sắc”. Tôi luôn cho rằng nếu muốn tìm hiểu lịch sử một nước, hoặc nói chính xác hơn, nếu muốn tìm hiểu một quốc gia đã hướng dẫn người dân của họ nhìn nhận lịch sử của nước mình như thế nào thì cách tốt nhất là hãy đến thăm viện bảo tàng lịch sử của quốc gia đó.

“Viện Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam” là một toà kiến trúc kiểu Pháp mang đặc sắc thuộc địa rõ ràng. Nơi đây từng là viện nghiên cứu khảo cổ có tên “Viện Viễn đông bác cổ của Pháp Quốc (École française d’Extrême-Orient, EFEO)”. Viện này có đóng góp to lớn cho công cuộc nghiên cứu các lĩnh vực lịch sử học, khảo cổ học, nhân học vùng Đông Nam Á, Đông Á và Nam Á; trong đó cống hiến được truyền tụng nhất là thành tựu nghiên cứu về đền Angkor Wat ở Campuchia và về Hán học Viễn Đông cũng như Đôn Hoàng học. Viện Viễn đông bác cổ của Pháp Quốc còn phát minh ra một bộ chữ ghi âm Hán ngữ La Tinh hoá, từng một thời được dùng rộng rãi ở các nước nói tiếng Pháp hoặc dùng La Tinh ngữ.

Bộ chữ cái ghi âm ban đầu do Viện Viễn đông bác cổ của Pháp Quốc thiết kế chắc là không khác mấy so với chữ Quốc ngữ Việt Nam La tinh hoá do các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha phát minh hồi thế kỷ 16, nhằm tạo thuận tiện cho người phương Tây học Hán ngữ và tiếng Việt, cũng như cho việc truyền giáo và giao tiếp hàng ngày. Thế nhưng, cùng với tiến trình toàn cõi Việt Nam biến thành thuộc địa của Pháp còn Trung Quốc thì chưa hoàn toàn trở thành thuộc địa, hai loại chữ viết La tinh hoá ấy có số phận khác nhau. Sau khi Hệ thống Pinyin Hán ngữ do nhà nước Trung Quốc triển khai được Liên Hợp Quốc thừa nhận là Hệ thống Pinyin tiêu chuẩn quốc tế thì bộ chữ ghi âm Hán ngữ do Viện Viễn đông bác cổ của Pháp Quốc phát minh và bộ chữ ghi âm Hán ngữ kiểu Wade–Giles [Wade–Gilles system] do người Anh phát minh cũng như một vài kiểu chữ phiên âm Hán ngữ khác đều dần dần mất đi địa vị quốc tế, không còn được sử dụng nữa.

Nhưng từ thế kỷ 19 thực dân Pháp lại ra sức đẩy mạnh sử dụng chữ Việt Nam La tinh hoá (chữ Quốc ngữ), dần dần trở thành chữ viết chính thức của xứ Đông Dương thuộc Pháp. Người Pháp làm thế nhằm mục đích chính là để tầng lớp tinh hoa người Việt thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc, cắt đứt mối liên hệ văn hoá giữa Việt Nam với Trung Quốc. Cho nên một số học giả coi việc La tinh hoá văn tự Việt Nam tiến hành trong thời kỳ Pháp đô hộ nước này là sự khởi đầu quá trình “Thoát Trung” của Việt Nam.

Thế nhưng ngay cả trong thời kỳ Pháp thuộc thì chữ Hán và chữ Nôm (một loại chữ Việt Nam hoá dựa trên nền tảng chữ Hán) cũng không hoàn toàn biến mất trong đời sống người Việt. Trên rất nhiều lĩnh vực, chữ Hán vẫn dùng song song với chữ Quốc ngữ. Sau khi thành lập chính quyền Bắc Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo thì chữ Hán hoàn toàn bị thay thế, trở thành vật hy sinh của “Phong trào xoá nạn mù chữ” do nhà nước triển khai. Đối ngoại, chính phủ Việt Nam tuyên bố sở dĩ phải đẩy mạnh dạy chữ Quốc ngữ chứ không dạy chữ Hán, đó là do chữ Quốc ngữ La tinh hoá đơn giản dễ học. Nhưng trên thực tế cho dù là tầng lớp lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam hay tầng lớp tinh hoa trong xã hội Việt Nam thời ấy, ai cũng đều hiểu rõ bỏ chữ Hán là bước đi cốt lõi của tiến trình “Thoát Trung” nhằm để Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng mấy nghìn năm của Trung Quốc.

Tự thuật của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam

Trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam [Vietnam National Museum of History] ở Hà Nội, phần lớn các văn bản thuyết minh và lời thuyết minh vật trưng bày đều dùng tiếng Việt và tiếng Anh; một số ít “nội dung nhạy cảm” thì chỉ giới thiệu bằng tiếng Việt. Mặc dầu Trung văn không được dùng ở đây nhưng rất nhiều văn bản lịch sử và hiện vật lịch sử lại đều thể hiện bằng chữ Hán, nhất là phần lịch sử cổ đại.

Theo cách nói của giới sử học Trung Quốc thì lịch sử Việt Nam có thể sơ lược chia làm 5 thời kỳ: 1) Thời tiền sử và các truyền thuyết;  2) Thời kỳ Bắc thuộc, tức thời kỳ Việt Nam là một bộ phận của Trung Quốc, bắt đầu từ khi tướng nhà Tần là Triệu Đà bình định Bách Việt và lập nước Nam Việt tại Phiên Ngung [Panyu] thuộc tỉnh Quảng Đông thời nay cho tới năm 938 sau CN thời Ngũ đại thập quốc [907-979], khi Ngô Quyền của Việt Nam đánh bại quân Nam Hán, lập triều đại nhà Ngô độc lập;  3) Thời kỳ quốc gia độc lập, từ năm 938 đến năm 1884 khi nước Pháp biến Việt Nam thành thuộc địa; suốt thời kỳ đó, Việt Nam là nước phiên thuộc của nhiều vương triều Trung Quốc, trong đó có 20 năm Việt Nam bị nhà Minh thu hồi thành thuộc quốc;  4) Thời kỳ là thuộc địa của Pháp;  6) Thời kỳ độc lập sau Thế chiến II.

Các ghi chép lịch sử thường có nội dung khác nhau bởi lẽ chủ thể viết sử khác nhau, điều đó không khó hiểu. Trong Viện Bảo tàng Lịch sử quốc gia, ở phần thời kỳ tiền sử, văn hoá Đông Sơn được giới thiệu nhiều nhất, coi là tiêu biểu của thời này, nhưng ở thời kỳ thứ hai thì nền văn hoá đó lại bị lược bỏ. Trên thực tế, phần giới thiệu duy nhất về thời kỳ thứ hai là một bảng biểu “Chống xâm lược” xuyên suốt thời kỳ này, toàn bộ đều viết bằng chữ Quốc ngữ. Thế nhưng khi đọc kỹ bảng biểu đó người ta có thể thấy một số “nội dung nhạy cảm”: chống Đông Hán, chống Lưỡng Tấn, chống Nam Triều, chống quân nhà Đường v.v… Theo ghi chép của lịch sử Trung Quốc thì các nội dung này đều được định nghĩa là những sự kiện lịch sử “dân địa phương nổi dậy [dân biến]” hoặc “làm loạn [tác loạn]”, còn tại bảo tàng này thì tất thẩy đều được coi là nghĩa cử “chống ngoại xâm”.

Bảo tàng Lịch sử quốc gia dành cho thời kỳ thứ ba phần giới thiệu rất chi tiết nhưng sợi chỉ chính xuyên suốt phần này thì không thay đổi, vẫn là chủ đề “Chống xâm lược phương Bắc” như chống quân Tống, chống quân Nguyên, chống quân Minh, chống quân Thanh… song le lại không một chữ nào nói đến mối quan hệ giữa chính quốc [tông chủ, tức Trung Quốc] với nước phiên thuộc [tức Việt Nam]. Trong đó có một đoạn khá thú vị nói về thời kỳ 20 năm Minh thuộc: Theo ghi chép trong “Đại Việt Sử ký toàn thư”, sách sử chính thức của triều Hậu Lê Việt Nam thì những năm đầu nhà Minh, trong triều đình nhà Trần ở Việt Nam có xảy ra sự kiện một người họ Hồ [Hồ Quý Ly?] thuộc bên ngoại của nhà vua định cướp ngôi, nhà Minh phái quân đội Nam tiến sang Việt Nam để lập lại sự công bằng về đạo lý; sau khi diệt xong Hồ, các quan lại và người cao tuổi bản địa cho biết hoàng tộc nhà Trần đã bị tuyệt diệt không còn người nối dõi, yêu cầu nhà Minh thu hồi quốc hiệu An Nam Quốc (Việt Nam), khôi phục chế độ đãi ngộ “quận huyện” của vương triều Trung nguyên trước kia. Trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, đoạn lịch sử này cũng được giới thiệu là “Nhà Minh xâm lăng Việt Nam, phạm tội ác tầy trời”.

Tự khoe là “chính thống Trung Hoa”

Cho dù phần tự thuật trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tràn đầy tinh thần “Chống phương Bắc” nhưng từ quá trình lịch sử Việt Nam được thể hiện trong mọi trưng bày ở đây rất khó có thể nói các đời vương triều Việt Nam có một quá trình chủ động “Thoát Trung”. Trên thực tế, vào các thời Nguyên Mông, Mãn Thanh làm chủ vùng Trung nguyên Trung Quốc, các văn bản thư tịch của vương triều Việt Nam từng [có ý khinh bỉ] gọi hai kẻ thống trị phương Bắc ấy là “Mông Thát”, “Mãn Di”, mà tự khoe mình là “Chính thống Trung Hoa”. Trong bảo tàng có một bản chiếu thư bằng gấm do hoàng đế triều nhà Nguyễn sắc phong một vị tướng chống quân Thanh, trên tờ chiếu đó thậm chí có mấy chữ Hán: “Kiến công Vạn lý tráng Trường thành”.

Vào cuối thời đại phong kiến, Việt Nam ra sức mở rộng lãnh thổ, dần dần chiếm lĩnh một vùng đất rộng ở châu thổ sông Mekong vốn thuộc Campuchia. Trong quá trình cưỡng chế đồng hoá người Cao Miên, Việt Nam càng cưỡng bức người “Cao man” (người Cao Miên) mặc Hán phục, học chữ Hán. Sách sử chính thức của triều Nguyễn “Đại Nam thực lục” chép: “… Tai nghe nhiều thi quen, mắt thấy nhiều thì thuộc, cứ thế [người Miên] dần dà hoà nhập với phong tục người Hán; nếu lại có thêm sự giáo hoá của chính quyền, dùng văn hoá Hoa Hạ để biến đổi các dân tộc man di, xem ra sau vài chục năm thì có thể làm cho họ chẳng khác gì người Hán [Hán dân].” Ở đây triều Nguyễn tự xưng là “Hán”, “Hạ” [tên cũ của Trung Quốc], “Hán dân”, khoe mình là dòng chính thống [đích hệ] của văn hoá Trung Hoa.

Nhà văn chuyên mục lịch sử Quách Hoa Mân từng viết trên mục “Tư gia lịch sử” mạng Bloomberg về sự cai trị đất nước của vương triều phong kiến nhà Nguyễn như sau: “Nước Đại Việt dù ở xa trung tâm thống trị của vương triều Trung nguyên nhưng lại toàn lực bắt chước và cấy ghép các chế độ văn hoá, kinh tế, chính trị của Trung Quốc. Triều Lý (1010-1225) chia chế độ quan lại làm hai ban văn võ, mỗi ban có cửu phẩm; các địa phương có Tri phủ, Phán phủ, Tri châu; trung ương còn có các trọng chức như Thái sư, Thái phó, Thái uý, Thái bảo. Thời kỳ đầu triều Lý đã xây dựng Văn miếu để thờ Khổng Tử và Chu Công, bắt chước chế độ khoa cử nhà Tống Đường…”

Phương thức sao chép các chế độ của Trung Quốc kéo dài suốt cho tới đêm trước ngày Việt Nam rơi vào vòng thuộc địa của Pháp. Chịu sự cai trị trực thuộc của Trung Quốc trong hơn 1.000 năm cộng thêm hơn 900 năm bê nguyên xi mọi thứ của Trung Quốc về dùng, Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa quá ư sâu xa (sâu và rộng hơn nhiều so với Triều Tiên, Nhật). Trong “Khối cộng đồng tưởng tượng”, Anderson luận bàn thế này: “Tuy rằng vương triều thống trị Hà Nội và Huế (kinh đô triều Nguyễn) mấy thế kỷ qua đều bảo vệ được nền độc lập, không bị Bắc Kinh xâm phạm, nhưng rốt cuộc họ vẫn cứ dựa vào bè lũ quan liêu dốc lòng bắt chước người Trung Quốc để cai trị đất nước. Cơ quan nhà nước dựa vào chế độ “khoa cử” – kiểu thi viết về chủ đề là các kinh điển Nho giáo để lựa chọn và đề bạt người tài; các văn bản của triều đình đều viết bằng chữ Hán; về mặt văn hoá, mức độ Trung Quốc hoá của giai cấp thống trị cũng rất sâu.”

Rồi Anderson phân tích: Sau năm 1895, các trước tác của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu và sau này là của Tôn Trung Sơn… truyền vào Việt Nam khiến cho “mối quan hệ lâu dài giữa Việt Nam với Trung Quốc có tính chất không được [chính phủ thực dân Pháp] hoan nghênh”. Bởi thế nên vào khoảng năm 1915, chế độ khoa cử bị bãi bỏ, thay bằng hệ thống giáo dục thuộc địa với tiếng Pháp là môn học chính. Ngoài ra, chữ Quốc ngữ Việt Nam La tinh hoá được hết sức đề xướng, qua đó làm cho các thế hệ mới của người Việt Nam thuộc địa do không thể tiếp xúc với thư tịch của thời đại các vương triều cũng như văn học cổ xưa mà bị cắt đứt mối liên hệ với Trung Quốc – cũng có thể gồm cả quá khứ của bản địa Việt Nam.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

VIỆT NAM CÓ HOÀN TOÀN
“THOÁT TRUNG” ĐƯỢC KHÔNG?-[2]


Theo phân tích của Anderson, đối với tầng lớp tinh hoa bản xứ Việt Nam, sự “Thoát Trung” do người Pháp cưỡng chế tiến hành không phải là chủ ý của người Việt, mà là một quá trình bị động. Như vậy sau khi đã đánh đuổi thực dân Pháp (nhất là dưới sự giúp đỡ của quân đội Trung Quốc), Việt Nam hoàn toàn có thể trở lại con đường truyền thống “Trung Quốc hoá”, điều đó chẳng những có thể tăng cường mối quan hệ “láng giềng hữu hảo” giữa Việt Nam với Trung Quốc mà cũng có thể giúp cho người Việt Nam lập lại mối liên hệ với tổ tiên mình.

Song le sự thực lại không như vậy.

Phần tự thuật của Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam đến năm 1945 thì chấm dứt. Chỉ có thể tìm hiểu thời kỳ tiếp theo của lịch sử Việt Nam từ một bảo tàng khác – “Bảo tàng Cách mạng Việt Nam” ở bên kia đường phố. Viện Bảo tàng này trưng bày thời kỳ từ khi chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thức tỉnh cho tới ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam rồi đến chiến dịch Điện Biên Phủ, người Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp; về cơ bản có thể coi là lịch sử giai đoạn đầu quá trình phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó tràn ngập sự tuyên truyền mang màu sắc thần thoại, điều này không có gì khó hiểu.

Tiền đề cấu tạo quốc gia dân tộc

Điều khác biệt rõ ràng với các vật trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia là các vật trưng bày trong Bảo tàng Cách mạng hầu như không có chữ Hán, thậm chí hầu như không có hai chữ “Trung Quốc”. Tại đây, phong trào Việt Nam độc lập chống Pháp hoàn toàn do người Việt Nam tự thực hiện, không một chữ nào nhắc tới sự viện trợ của Trung Quốc. Có điều đáng chú ý là ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhà lãnh đạo xuất thân từ một gia tộc Nho học nhiều đời, có vốn hiểu biết chữ Hán vững vàng này đã đọc trước công chúng bản “Tuyên ngôn Độc lập” viết bằng chữ Quốc ngữ Việt Nam La tinh hoá. Sau đó không lâu, Hiến pháp năm 1946 ghi rõ chữ Quốc ngữ là chữ viết chính thức của Việt Nam.

Cuốn sách “Khối Cộng đồng tưởng tượng” của Anderson không quan tâm nhiều tới lịch sử “Thoát Trung” của Việt Nam, nhưng trong sách có riêng một chương bàn về sự thức tỉnh của chủ nghĩa dân tộc ở các quốc gia thuộc địa sau Thế chiến II và con đường xây dựng nhà nước dân tộc. Trong đó, tìm kiếm sự thừa nhận thân phận dân tộc mình là bước đi tất yếu để xây dựng quốc gia dân tộc, là cơ sở logic để thực hiện “Khối cộng đồng tưởng tượng”, mà quá trình tìm kiếm đó ắt phải là quá trình chủ động, tỉnh táo.

Đối với tầng lớp lãnh đạo Việt Nam sau ngày độc lập, trở lại “Trung Quốc hoá” tuyệt đối không phải là con đường đúng đắn để xây đắp sự đồng thuận của dân tộc. Ngược lại, “Thoát Trung” mới là điều kiện tất yếu để xây dựng một quốc gia dân tộc. Nói cách khác, nếu Việt Nam muốn trở thành một quốc gia hiện đại độc lập thì “Thoát Trung” là nền tảng, là cốt lõi, là một sứ mệnh lâu dài. Điều đó về cơ bản nhất trí với nhận thức “Thoát Trung” của Nhật Bản, Triều Tiên vốn là các nước trong vành đai văn hoá Trung Hoa, cho dù quá trình “Thoát Trung” của Việt Nam cần thời gian dài hơn, và quá trình đó càng đau khổ hơn đối với hai nước Trung Quốc và Việt Nam.

Nguyện vọng của tầng lớp lãnh đạo Việt Nam

Sau Thế chiến II, 200 nghìn quân Quốc Dân Đảng Trung Quốc tiến vào Việt Nam với danh nghĩa tiếp thu sự đầu hàng của quân đội Nhật chiếm đóng Việt Nam. Không lâu sau, quân đội Pháp cũng đổ bộ vào Việt Nam, yêu cầu phục hồi chủ quyền của quốc gia cai trị thuộc địa trước chiến tranh. Tưởng Giới Thạch lấy việc Pháp trả lại cho Trung Quốc một số lợi ích kinh tế như các tô giới trong lãnh thổ Trung Quốc làm điều kiện trao đổi để rút quân Quốc Dân ra khỏi Việt Nam.

Phần lớn các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam thời ấy đều phản đối việc trao trả Việt Nam cho thực dân Pháp, nhưng Hồ Chí Minh lại ký vào Hiệp định.[1] Vì thế mới có chuyện trong ghi chép của nhà báo Mỹ Stanley Karnow có viết một danh ngôn của Hồ Chí Minh:

“Lũ ngốc này! Chẳng lẽ các anh không biết rằng để người Trung Quốc ở lại có nghĩa là gì ư? Các anh không nhớ lịch sử à? Lần trước người Trung Quốc đến đây, họ ở lại một nghìn năm. Người Pháp là kẻ từ bên ngoài tới, họ đã rất suy yếu rồi, chủ nghĩa thực dân đang chết, người da trắng tại châu Á đang hết đời. Nhưng nếu người Trung Quốc ở lại thì họ sẽ mãi mãi không bỏ đi đâu! Tôi thà lại ngửi cứt bọn Pháp thêm 5 năm mà không muốn ăn cứt bọn Tàu suốt phần đời còn lại.”[2]

Trong thế giới Trung văn, câu nói này của Hồ Chí Minh có những bản dịch khác nhau, có thể từ ngữ có chút dị biệt, nhưng ý nghĩa đại để như vậy. Mặc dầu về sau giáo sư Liam Kelley ở Đại học Hawaii có nghi ngờ về xuất xứ câu nói ấy của Hồ Chí Minh mà Karnow trích dẫn, thế nhưng qua liên hệ với hồi ký của một số nhà lãnh đạo Trung Quốc thì những phát biểu của Hồ Chí Minh đại loại như “Biểu hiện ngạo mạn của quân đội Trung Quốc thì giống như biểu hiện của quân đội Trung Quốc thời xưa từng thường xuyên xâm phạm Việt Nam”, và liên hệ tới chuyện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam xoá sạch sự viện trợ của Trung Quốc giúp Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp, thì chẳng nói cũng biết tầng lớp lãnh đạo Việt Nam đúng là có xu hướng mạnh mẽ “Thoát Trung”.

Điều thú vị là Anderson sinh ra ở Côn Minh, từ nhỏ gia đình ông có thuê một bà bảo mẫu người Việt Nam; tuy sách của ông không bàn luận sâu về mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc song ông lại nói chính cuộc chiến tranh Trung Quốc-Việt Nam năm 1979 đã “trực tiếp gợi ý tôi viết cuốn Khối cộng đồng tưởng tượng”.

Hồi đó toàn thế giới đều cho rằng cuộc chiến ấy có nguyên nhân là sự đấu tranh phe phái trong thế giới cộng sản (Liên Xô và Việt Nam một phe, Trung Quốc và Campuchia một phe), hoặc là cuộc xung đột địa chính trị của ba nước lớn Trung Quốc, Mỹ, Nga. Nhưng Anderson thì nhìn thấy rõ nguyên nhân lịch sử ở tầng sâu hơn phía sau cuộc chiến ấy – đó là chủ nghĩa dân tộc vượt qua ý thức hệ, vượt qua địa chính trị.

Việt Nam có thể triệt để “thoát Trung” được chăng?

Những năm gần đây, do xung đột trên vấn đề Biển Đông [nguyên văn Nam Trung Quốc hải] và do nỗi đau vết thương còn lại sau cuộc chiến 1979 ấy, một số nhà phân tích cho rằng Việt Nam có lẽ sẽ tăng cường độ “Thoát Trung”. Năm 2010 một bộ phim truyền hình cổ trang của Việt Nam quay tại trường quay ở Trung Quốc vì “quá ư Trung Quốc hoá” mà bị chính quyền Việt Nam cấm chiếu.[3] Năm 2014, Bộ Văn hoá Việt Nam gửi công văn kiến nghị các địa phương không bày biện, không sử dụng, không thờ cúng các loại tượng điêu khắc, sản phẩm, linh vật và vật phẩm quái dị không hợp thuần phong mỹ tục Việt Nam”. Nghe nói những vật phẩm ấy chủ yếu là các loại sư tử đá “Trung Quốc hoá” nhập từ Trung Quốc.

Thế nhưng các cố gắng “Thoát Trung” về văn hoá của Việt Nam xem ra không có hiệu quả lớn. Suy cho đến cùng, quá trình hơn 2000 năm ngấm văn hoá Trung Quốc đã đặt nền móng văn hoá cho bản thân Việt Nam, triệt để “Thoát Trung” sẽ tương đương với sự cắt đứt lịch sử của chính mình. Ở Việt Nam ngày nay, tam giáo Nho, Thích, Đạo đều có mảnh đất của mình, mà cả ba đều từ Trung Quốc truyền sang, các tín đồ của họ vẫn chiếm tuyệt đại đa số trong số dân tin theo tôn giáo ở nước này.

Về kinh tế, hầu như chẳng ai tin rằng trong một thời gian ngắn Việt Nam có thể thoát khỏi sự dựa dẫm vào Trung Quốc. Cho dù nội bộ chính phủ Việt Nam thỉnh thoảng có thảo luận vấn đề “Cố gắng Thoát Trung về kinh tế” nhưng ngành chế tạo của Việt Nam chỉ là một khâu trong chuỗi sản xuất công nghiệp do Trung Quốc làm chủ, sản phẩm làm ra lại cần lấy Trung Quốc làm nước nhập khẩu lý tưởng. Thoát khỏi Trung Quốc về kinh tế hầu như là một “nhiệm vụ không thể thực hiện”.

Lĩnh vực Việt Nam có khả năng nhất để thực hiện “Thoát Trung” là chế độ chính trị. Mặc dù rất khó có thể nói thể chế chính trị hiện nay của Việt Nam là bản sao của Trung Quốc, nhưng mỗi lần Việt Nam và Trung Quốc xảy ra xung đột thì hầu như lần nào mâu thuẫn cũng đều được hoá giải với lý do “giữ cho toàn vẹn mối tình giữa hai đảng, hai chính phủ”. Tuy nhiều báo đài từng đưa tin với tiêu đề đại để như “Công cuộc cải cách thể chế chính trị của Việt Nam tiến nhanh hơn Trung Quốc” song tình hình thực tế lại không như vậy, hoặc có thể nói việc cải cách thể chế ở Việt Nam chưa có những đột phá thực chất.

Tháng 8/2014, hãng tin Bloomberg đưa tin: 61 thành viên Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có một cựu đại sứ tại Trung Quốc, cùng ký tên vào một bức thư ngỏ gửi Chính phủ Việt Nam. Bức thư viết: Các nhà lãnh đạo nên “xây dựng một nhà nước thực sự dân chủ, pháp trị”, cho phép tự do ngôn luận chính trị ở mức độ rộng hơn, “thoát khỏi” sự dựa dẫm vào Trung Quốc. Bản tin cho biết, một số người, kể cả các cựu quan chức chính phủ đã dự thảo một bản Hiến pháp yêu cầu triển khai sự “cạnh tranh về chính trị”. Mặc dù kết quả bầu cử lãnh đạo mới đây không thể hiện Chính phủ Việt Nam có dấu hiệu “thoát khỏi Trung Quốc”, nhưng việc vấn đề này có thể được bàn luận trong thư ngỏ là đủ tỏ rõ nguyện vọng của một bộ phận khá đông đảo trên chính trường Việt Nam.

Bất kể là trên vấn đề tranh chấp lãnh thổ hay vấn đề kinh tế, Việt Nam đều tính toán khả năng dựa vào phương Tây, thậm chí từng có thời đã xem xét vấn đề lập liên minh quân sự với quốc gia cựu thù là Mỹ, song le lại khó có thể vượt qua trở ngại về ý thức hệ. Nếu Việt Nam muốn tăng cường mối quan hệ với phương Tây để chống Trung Quốc thì tiền đề ắt phải là về chính trị nên mở cửa hơn, bỏ chế độ chuyên chế một đảng, về thể chế chính trị cần triệt để cắt đứt quan hệ với Trung Quốc. Bước đi này tuy không gian nan như sự “Thoát Trung” về văn hoá nhưng lại chẳng dễ dàng thực hiện.

Biên dịch NGUYỄN HẢI HOÀNH

Bài không ghi tên tác giả, có lẽ là một nhà báo Trung Quốc giấu tên. Nguyễn Hải Hoành biên dịch và ghi chú trong ngoặc [ ].
Nguồn tiếng Trung:  越南能否彻底“去中国化”? 2017-05-10
———————
[1] Có thể tác giả muốn nói Hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt, ký tại Hà Nội ngày 6/3/1946. Tham khảo: https://vov.vn/the-gioi/h...ich-va-dang-ta-486107.vov
[2] Câu cuối này trong tiếng Anh là  “I prefer to sniff French shit for five years than eat Chinese shit for the rest of my life.” – Theo: Stanley Karnow’s Vietnam: A History (New York: Viking Press, 1983).
[3] Có lẽ là phim “Lý Công Uẩn – Đường dẫn tới thành Thăng Long” Tham khảo: https://nld.com.vn/van-ho...-le-20110609102020887.htm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CÁC TUYẾN ĐƯỜNG
XÂM NHẬP VIỆT NAM
TỪ TRUNG QUỐC THỜI XƯA


Trong sách Thiên Hạ Quận Quốc Lợi Bệnh Thư 1 [THQQLBT], Cố Viêm Vũ khảo cứu các con đường xâm nhập Việt Nam với tiêu đề: Nhập Giao Tam Đạo. Nhập Giao Tam Đạo tức 3 tuyến đường xâm nhập Giao Chỉ, xuất phát từ 3 tỉnh Quảng Đông cũ [nay là Khâm Châu thị, Quảng Tây], Quảng Tây và Vân Nam. Để giúp dễ dàng nhận diện, xin tạm đặt tuyến đường thuỷ Quảng Đông cũ là đường Đ, Quảng Tây là đường T, Vân Nam là đường V; đường Quảng Đông theo nhánh sông Bạch Đằng là Đ1, theo nhánh sông Thái Bình là Đ5, v.v..
A.
Tuyến đường thuỷ Quảng Đông

Mở đầu Nhập Giao Tam Đạo ghi:
Một tuyến đường do từ Quảng Đông, đường này từ thời Mã Phục Ba [Mã Viện] đến nay thuỷ quân đều dùng. Từ châu Khâm dương buồm xuống biển nam một ngày, đến bờ tây nam tức trấn Triều Dương [tỉnh Quảng Ninh] thuộc Giao Chỉ. Lại bảo rằng đó là đường có thể từ châu Khâm tiến đánh Đô Trai [Cổ Trai] 2.

Đô Trai tức Cổ Trai nay thuộc huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng, là quê hương của Mạc Đăng Dung; được nhà Mạc chọn làm kinh đô cùng với thành Thăng Long. Dưới thời Gia Tĩnh, nhà Minh dự định đánh Việt Nam từ phía Quảng Tây, viên Tri châu Khâm, Lâm Hy Nguyên, dâng biểu vào ngày 6/4 Gia Tĩnh thứ 18 [11/5/1540] xin mở thêm một mũi tấn công từ châu Khâm đến Cổ Trai, với lập luận như sau:

“…Chỗ dựa của Mạc Phương Doanh là Đô Trai [Cổ Trai], vùng này gần biển, bùn lầy hơn 10 dặm thuyền không ghé được. Kế hoạch của chúng nếu kinh thành không giữ được thì chạy đến Đô Trai, Đô trai không giữ được thì chạy ra biển… Nên lấy quân Phúc Kiến vượt biển từ Chi Phong, quân Hồ Quảng xuất phát từ châu Khâm hợp lại đánh Đô Trai, bọn chúng không còn sào huyệt… ”
[Minh Thực Lục, Thế Tông, q.236, tr.2a-3a]

Nhắm phục vụ cho kế hoạch này, Thiên Hạ Quận Quốc Lợi Bệnh Thư chép thêm việc viên Tri phủ Trương Nhạc cho điều tra các con đường thuỷ xâm nhập Việt Nam dưới nhan đề Tây Nam Hải Đạo tức đường thuỷ theo hướng tây nam vào Việt Nam, gồm 1 đường dọc duyên hải Bắc phần và 5 đường nhánh đi vào nội địa. Nay xin nêu từng phần văn bản Tây Nam Hải Đạo, sau đó kê ra những bằng chứng lịch sử để phụ hoạ:

– Đường ven biển từ châu Khâm Trung Quốc đến tỉnh Thái Bình Việt Nam [đường Đ], Tây Nam Hải Đạo ghi như sau:

“Về đường thuỷ, dưới thời Gia Tĩnh [triều Minh], viên Tri phủ Trương Nhạc tìm hỏi được con đường từ Quan Sơn Tiền Hải châu Khâm [Quảng Tây] đáp thuyền thuận gió bắc trong 1, 2 ngày có thể đến phủ Hải Đông [tỉnh Quảng Ninh], Giao Chỉ. Nếu theo bờ biển mà đi thì từ lãnh Ô Lôi [châu Khâm] đi thuyền 1 ngày đến Bạch Long Vĩ [huyện Phòng Thành, Quảng Tây], từ Bạch Long Vĩ 2 ngày tới cửa Ngọc Sơn [Mũi Ngọc, Quảng Ninh, Việt Nam], lại 1 ngày đến châu Vạn Ninh [tây bắc Quảng Ninh], từ Vạn Ninh 2 ngày đến Miếu Sơn, từ Miếu Sơn 3 ngày đến phủ lỵ Hải Đông, từ phủ lỵ Hải Đông 2 ngày đến xã Kinh Thục, có đê đá do nhà Trần xây để ngăn quân Nguyên. Lại 1 ngày đến cửa sông Bạch Đằng [ranh Quảng Ninh, Hải Phòng], qua tuần ty Thiên Liêu, phía nam đến cửa biển An Dương [sông Cấm, Hải Phòng], rồi theo nam đến cửa biển Đa Ngư [sông Văn Úc, Hải Phòng]; mỗi cửa đều có nhánh cảng để vào Giao Châu.”

Có thể nói tất cả các cuộc xâm lăng nước ta bằng thuỷ quân, đều phải dùng một phần hay toàn bộ thuỷ lộ này. Riêng trận đại bại của quân Nguyên, khiến đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bị đánh đắm, xảy ra ngay trên thuỷ lộ này; sử Trung Quốc [Nguyên Sử, Liệt truyện An Nam] chép như sau:

“Thuyền lương của Trương Văn Hổ vào tháng 12 năm trước [1287] đến Đồn Sơn, gặp 30 chiếc thuyền Giao Chỉ, Hổ giao tranh, hai bên tổn thất tương đương. Đến vùng biển Lục Thuỷ, gặp nhiều thuyền giặc; thế không địch nổi, thuyền lại nặng không thể đi nhanh, bèn đánh chìm xuống biển, rồi hướng về Quỳnh châu [Hải Nam] ”

Nguyên Sử xác nhận Trương Văn Hổ đánh chìm thuyền lương tại biển Lục Thuỷ; riêng Đại Nam Nhất Thống Chí nước ta chép về Cửa Lục thuộc tỉnh Quảng Ninh như sau: “Phó tướng Vân Đồn là Trần Khánh Dư đánh thuyền lương của tướng Trương Văn Hổ ở biển Lục, thuyền lương đều đắm ở biển tức chỗ này ” 3 Nhìn trên bản đồ, Cửa Lục hay vịnh Cửa Lục, gần ngay khu du lịch Hạ Long.

– Đường rẽ vào sông Bạch Đằng [đường Đ 1]. Tây Nam Hải Đạo mô tả đường Đ 1 rẽ vào sông Bạch Đằng cho đến thượng lưu sông Đuống, giáp với thành Thăng Long [Hà Nội]:

“Từ cửa Bạch Đằng vào, phải qua 2 huyện Thuỷ Bàng, Đông Triều [Quảng Ninh], đến phủ Hải Dương lại qua huyện Chí Linh [Hải Dương], qua sông Hoàng Kính, Bình Than [khúc dưới sông Đuống] đi vào.”
Lịch sử chứng kiến 2 cuộc đại bại của quân Trung Quốc tại sông Bạch Đằng, một trận quân giặc từ ngoài biển xông vào, một trận từ nội địa nước ta rút về:

Sử Trung Quốc, Tân Ngũ Đại Sử, quyển 65, Nam Hán Thế Gia, chép việc con vua Nam Hán Lưu Yểm là Hồng Thao với danh nghĩa tiếp viện cho loạn tướng Kiều Công Tiễn, mang thuỷ quân sang xâm lăng nước ta, bị Ngô Quyền tiêu diệt tại sông Bạch Đằng; nội dung như sau:

“Năm thứ 10 [938], Nha tướng Giao Châu Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ lên ngôi; tướng cũ của Đình Nghệ là Ngô Quyền đánh Giao Châu; Công Tiễn xin quân Nam Hán tiếp viện. Yểm phong cho con, Hồng Thao, là Giao vương, ra quân đánh tại sông Bạch Đằng; Yểm đóng quân tại cửa biển. Quyền sau khi giết Công Tiễn, đánh ngược ra cửa biển, cắm cọc sắt. Quân của Quyền chờ thuỷ triều lên bèn rút; đợi thuỷ triều rút quay thuyền lại đánh, thuyền quân Nam Hán vướng phải cọc đều lật đổ; Hồng Thao chết, Lưu Yểm thu tàn quân trở về…..”

Lại một chiến thắng khác trên sông Bạch Đằng, lúc bấy giờ quân Nguyên xâm lăng nước ta lần thứ 3 bị thất bại, phải rút về nước. Đoàn thuỷ quân do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy; rút lui theo hướng sông Bạch Đằng để ra biển, bị tiêu diệt hoàn toàn, sự việc chép trong Nguyên Sử [quyển 166, Liệt truyện Phàn Tiếp] như sau:

“Tháng 2 năm Chí Nguyên thứ 25 [1288], trời nóng, lương thực hết; do đó Vương [Thoát Hoan] ra lệnh mang quân trở về. Tiếp và Ô Mã Nhi mang quân về; bị giặc chặn tại sông Bạch Đằng. Gặp lúc thuỷ triều rút, thuyền của Tiếp bị mắc cạn; thuyền giặc đến đông, tên bắn như mưa, từ giờ Mão [5-7 giờ sáng] đến Dậu [15-17 giờ]. Tiếp bị thương, rơi xuống nước; giặc dùng câu liêm kéo lên giết chết.”

– Đường rẽ vào cửa Cấm [Đ 2] qua các huyện An Dương [Hải Phòng], Nam Sách [Hải Dương]: thuỷ đạo này dẫn vào nội địa nước ta, ngoài ra còn có thể đánh bọc phía đông bắc kinh đô Cổ Trai của nhà Mạc. Tây Nam Hải Đạo đề cập về con đường này như sau:

“Từ cửa biển An Dương [cửa Cấm, Hải Phòng], qua huyện An Dương đến phủ Hải Dương, lại qua sông Hoàng Kính, rồi theo phía bắc các huyện Nam Sách [Hải Dương], Thượng Hồng [Hải Dương] mà vào.”

– Đường rẽ vào sông Lạch Tray [Đ 3] Hải Phòng đâm thẳng đến kinh đô Cổ Trai của nhà Mạc; ngoài ra còn có thể noi theo các tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh để xâm nhập nội địa. Tây Nam Hải Đạo ghi:

“Từ Đồ Sơn vào, thì qua Cổ Trai [sông Lạch Tray, Hải Phòng], đến huyện Nghi Dương [Kiến Thuỵ, Hải Phòng], qua phía bắc huyện An Lão [Hải Phòng], đến huyện Bình Hoà, qua phía nam các huyện Nam Sách, Thượng Hồng [Hải Dương] mà vào.”

– Ngả rẽ vào sông Văn Úc [Đ 4] Hải Phòng, qua các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, để vào nội địa; ngoài ra còn có thể đánh bọc phía nam kinh đô Cổ Trai của nhà Mạc. Tây Nam Hải Đạo chép:

“Từ cửa biển Đa Ngư [sông Văn Úc], mà vào, phải qua 2 huyện An Lão, Tân Minh [Tiên Lãng, Hải Phòng 4] đến sông Tố Hồng tại huyện Tứ Kỳ [Hải Dương], đến Khoái Châu [Hưng Yên] qua Hàm Tử quan [Khoái Châu] đi vào.”

– Một ngả rẽ khác noi theo sông Thái Bình [Đ 5] rổi chuyển qua sông nhỏ để vào huyện Khoái Châu, Hưng Yên, cũng noi theo Hàm Tử quan rồi đến sông Hồng Hà. Tây Nam Hải Đạo chép trong đoạn cuối như sau:
“Từ phía nam Đa Ngư theo cửa biển sông Thái Bình, qua 2 phủ Thái Bình [tỉnh Thái Bình], Tân Hưng [phía nam Hưng Yên], đến Hàm Tử quan tại Khoái Châu, rồi theo sông Phú Lương [Hồng Hà] mà vào. Đó là đại lược về đường thuỷ. ”
B.
Tuyến đường bộ Quảng Tây

Nhập Giao Tam Đạo đề cập đến 3 nhánh đường từ Quảng Tây xâm nhập Việt Nam, như sau:

“Tuyến đường do từ Quảng Tây đến, nhà Tống mở đường này, cũng chia làm 3 nhánh:

Từ châu Bằng Tường [Quảng Tây] vào, do trấn Nam Quan, đi 1 ngày tới Văn Uyên [Lạng Sơn].

Từ phủ Tư Minh [Ninh Minh, Quảng Tây] đến Ôn Khâu [huyện Văn Quan, Lạng Sơn]; qua Ma Thiên Lãnh, 1 ngày đến châu Tư Lăng [phía tây Bằng Tường, thuộc Sùng Tả thị, Quảng Tây].

Từ Long Châu vào, đi 1 ngày đến ải Bình Tây.”

– Con đường chính từ châu Bằng Tường qua ải Nam Quan [T 1] vào nước ta; phần lớn quân Trung Quốc xâm lăng theo hướng Quảng Tây sử dụng đường này. Minh Thực Lục chép việc Trương Phụ điều quân qua ải Pha Luỹ [tức ải Nam Quan] rồi làm lễ tế cáo, kể tội Lê [Hồ] Quí Ly như sau:
“Ngày 9/9 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [19/11/1406]

Ngày hôm nay bọn Hữu phó tướng quân chinh thảo An Nam Tân thành hầu Trương Phụ điều quân xuất phát từ Bằng Tường vượt quan ải Pha Luỹ, tế vọng sông núi trong nội địa nước An Nam với lời cáo rằng: Giặc họ Lê giết vua, bạo ngược với dân, xâm phạm tới Trung Quốc, tội lớn như biển…”
(Minh Thực Lục, Thái Tông, quyển 60, trang 1a)

– Con đường thứ hai xuất phát từ phủ Tư Minh [T 2] tức huyện Ninh Minh ngày nay, cách Bằng Tường khoảng 10 km về phía đông. Trong cuộc xâm lăng nước ta lần thứ 3, quân Nguyên do Trấn nam vương Thoát Hoan chỉ huy đã sử dụng 2 cánh quân đi song song vào nước ta theo thế ỷ dốc để yểm trợ cho nhau. Một cánh theo hướng Bằng Tường, do Trình Bằng Phi chỉ huy; một cánh xuất phát từ phủ Tư Minh, do Trấn nam vương đích thân chỉ huy. Cánh quân xuất phát từ Tư Minh, vượt qua ải Nữ Nhi tại phía đông, để vào An Nam. Nguyên Sử, An Nam truyện chép:

“Tháng 11 Trấn nam vương đến Tư Minh, để lại 2.500 quân giao cho Vạn hộ Gia Chỉ, để coi giữ lương thực quân cụ nặng. Trình Bằng Phi, Bột La Hợp Đáp Nhi chỉ huy 1 vạn quân Hán xuất phát từ Vĩnh Bình [Bằng Tường, Quảng Tây], Áo Lỗ Xích chỉ huy 1 vạn quân theo Trấn nam vương từ ải Nữ Nhi phía đông. A Bát Xích cầm 1 vạn quân làm tiên phong.”

– Con đường thứ 3 từ Long Châu vào [T 3], tiện cho việc xâm nhập tỉnh Cao Bằng. Đơn cử trong cuộc xâm lăng nước ta thời Tống [năm Bính Thìn 1076] Phó đô tổng quản Yên Đạt mang quân theo hướng này, chiếm cứ đất Quảng Nguyên, Cao Bằng.
C.
Tuyến đường từ Vân Nam

Tỉnh Vân Nam trước kia là nước Đại Lý, bị sáp nhập vào Trung Quốc vào thời đầu triều Nguyên. Nhập Giao Tam Đạo ghi nhận tuyến đường Vân Nam mở ra từ thời Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, niên hiệu Chí Nguyên. Tuyến này chia làm 2 đường: một đường từ Mông Tự [đường V 1] vào Việt Nam noi theo sông Hồng; đường thứ hai từ ải Hà Dương [V 2] noi theo sông Lô:

“Một tuyến đường từ Vân Nam, được mở ra từ thời Chí Nguyên nhà Nguyên [1260-1294], cũng chia làm 2 nhánh:

Thứ nhất do huyện Mông Tự, qua thác Liên Hoa vào đất Thạch Lang, Giao Chỉ.

[Thứ hai] từ ải Hà Dương [Hà Giang] theo tả ngạn sông Thao qua 10 ngày đến đồng bằng, nhưng qua nhiều đường núi khó đi.”

– Con đường từ huyện Mông Tự [đường V 1] do tướng nhà Nguyên sử dụng đầu tiên trong cuộc xâm lăng nước ta lần thứ nhất. Nguyên Sử, Liệt truyện An Nam chép:

“…Năm Quí Sửu Hiến Tông thứ 3 [1253] nhà Nguyên, Ngột Lương Hợp Thai theo Thế Tổ đánh dẹp Đại Lý; lúc Thế Tổ trở về bèn sai Ngột Lương Hợp Thai dẹp các nước Di chưa qui phục. Tháng 11 năm thứ 7 Đinh Tỵ [1257], Ngột Lương Hợp Thai tiến binh đến phía bắc Giao Chỉ. Trước hết sai 2 viên sứ giả đến dụ, nhưng không thấy về; bèn sai bọn Triệt Triệt Đô mỗi người mang 1.000 quân, chia đường tiến quân đến phía bắc kinh thành An Nam tại thượng nguồn sông Thao; lại sai con là A Truật đến tăng viện cùng trinh sát hư thực…”

Tiếp theo, vào các thập niên 1400, 1410, Kiềm quốc công Mộc Thạnh mấy lần dùng đường này đưa quân Minh sang đánh nước ta.

– Con đường từ ải Hà Dương [V 2]: Trong cuộc xâm lăng dưới thời nhà Thanh [1788], vua Càn Long ra lệnh cho Đề đốc Vân Nam Ô Đại Kinh theo con đường Mã Bạch [huyện Mã Quan, Vân Nam] mang quân vào nước ta, để phối hợp với đại quân của Tôn Sĩ Nghị hành quân từ hướng Quảng Tây. Tuyến đường này xuất phát từ Mã Quan, vào nước ta thì qua các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang; noi theo dòng sông Lô, sông Hồng đến Hà Nội.

***
Trên 2 ngàn năm lịch sử Trung Quốc lăm le xâm lược nước ta, chỉ chịu dừng lại lúc tình thế không cho phép dấn bước thêm. Học giả nổi tiếng như Cố Viêm Vũ bỏ cả cuộc đời ra nghiên cứu; với Nhập Giao Tam Đạo, cũng không đi chệch ra khỏi con đường xâm lược của cha ông. Với dã tâm bành trướng ngự trị trong huyết quản, kèm thêm kỹ thuật hiện đại máy bay, tàu ngầm của thế kỷ thứ 21; con đường xâm nhập vào nước ta không chỉ vỏn vẹn “tam đạo” mà thôi. Bởi vậy: Đất nước xây dựng như thế nào? Vận trù quyết sách ra sao? Nhân dân có đoàn kết không? Ngoại giao có được nhiều nước ủng hộ không? Là những câu hỏi lớn, để đối phương đưa lên bàn cân ước tính có nên xâm nhập vào nước ta hay không?

Hồ Bạch Thảo
Chú thích:
1. Thiên Hạ Quận Quốc Lợi Bệnh Thư, quyển 106, Quảng Tây, trang 11.
2. Đô Trai: tức Cổ Trai, thuộc huyện Nghi Dương [Hải Phòng] cung điện cũ của nhà Mạc. Đại Việt Thông Sử, Lê Quí Đôn, Ngô Thế Long dịch, Nxb KHXH: Hà Nội,1978, tr. 40 chép: Mạc Đăng Dung lập cung điện tại Cổ Trai [tỉnh Hải Dương]; như vậy chữ Đô Trai nhầm từ Cổ Trai.
3. Đại Nam Nhất Thống Chí, bản dịch của Viện Sử Học, NXB Thuận Hoá: Huế, 2006, tập 4, trang 45.
4. Đào Duy Anh, Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời [ĐNVNQCĐ], Nxb Thuận Hoá: Huế, 1994, tr. 182.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

THỜI BÁO HOÀN CẦU
VIẾT VỀ TÌNH CẢM YÊU GHÉT
CỦA VIỆT NAM VỚI TRUNG QUỐC-[1]


Biên dịch và ghi chú: Nguyễn Hải Hoành

Ngày 28/11/2017, thời báo Hoàn Cầu đăng bài của nhà báo Bạch Vân Dy viết về quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc với tựa đề “Thật khó tin! Tình cảm yêu ghét Trung Quốc của ‘Quốc gia anh em’ này lại lộ liễu đến thế”. Nội dung bài báo như sau:

Phòng bị – khi mở bản đồ vùng này, tôi bỗng phát hiện…

Trong lịch sử, Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Hán [nguyên văn Hán phong] từng một thời có danh hiệu đẹp là “Trung Hoa nhỏ”, và ở thời nay, việc xây dựng và cải cách chính trị, kinh tế và chế độ xã hội Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của Trung Quốc, thể hiện ở tính chất giống nhau về mô hình. Thế nhưng đất nước núi liền núi sông liền sông với Trung Quốc này lại có tình cảm cực kỳ phức tạp với Trung Quốc: có phòng bị nhưng không thể không ở gần; có ấm ức [uỷ khúc] nhưng từ đáy lòng lại có sự hâm mộ và hướng tới [Trung Quốc].

Tình cảm ấy biểu hiện một cách khác thường tại hai thành phố của Việt Nam. Đó là thành phố mới nổi Đà Nẵng, và Nha Trang, nơi nghỉ dưỡng nổi tiếng, hai nơi này thu hút du khách Trung Quốc ùn ùn kéo đến, cũng là nơi châm ngòi cho các tranh cãi có liên quan tới “Trung Quốc”. Gần đây phóng viên của “Thời báo Hoàn cầu” đã đến hai đô thị kể trên trải nghiệm sự “đan xen yêu ghét” của Việt Nam đối với Trung Quốc.

Do nằm gần cố đô Huế và sở hữu một bờ biển đẹp, mấy năm nay Đà Nẵng, thành phố lớn thứ tư của Việt Nam, đã trở thành thắng cảnh nghỉ dưỡng trong con mắt của nhiều người Trung Quốc. Thế nhưng khi đi dạo trong phong cảnh nhiệt đới mê ly ấy, có lẽ nhiều người chưa biết rằng Đà Nẵng là căn cứ hải quân quan trọng và cũng là thành phố Việt Nam ở gần quần đảo Hoàng Sa nhất.

Ngay trong buổi sáng đầu tiên đến Đà Nẵng, phóng viên “Thời báo Hoàn cầu” đã chú ý tới điểm đó. Phóng viên mua một bản đồ vùng này, khi mở bản đồ lập tức phát hiện thấy ở phía trên tại chỗ dễ thấy nhất có đánh dấu phạm vi quản lý của Đà Nẵng, kể cả cái gọi là “Quần đảo Hoàng Sa” (tức quần đảo Tây Sa của Trung Quốc – ghi chú của Thời báo Hoàn Cầu).

Có thể thấy sự “tuyên bố chủ quyền” tương tự như vậy ở khắp mọi chỗ: con đường vòng bãi biển Mỹ Khê là một trong những nơi đông du khách nhất, nhưng con đường đầy ánh nắng, bãi cát và cây dừa ấy lại mang hai cái tên có ý vị chính trị cực kỳ mạnh mẽ: đoạn phía Bắc gọi là “Hoàng Sa”, đoạn phía Nam gọi là “Trường Sa” (Việt Nam gọi quần đảo Nam Sa là “quần đảo Trường Sa” – ghi chú của Thời báo Hoàn Cầu). Tại một phía “đường Hoàng Sa” có một toà nhà nhỏ bốn tầng, lạ thay trước cửa có mấy chữ lớn “Nhà trưng bày Hoàng Sa”. Cho dù công trình này chưa hoàn thành nhưng phóng viên bản báo nhìn thấy trong nhà có một tượng đài màu trắng ngờ là “tấm bia chủ quyền”.

Hầu như mỗi người Đà Nẵng đều đã quen thuộc với những cái tên đường phố và toà nhà có ý vị sâu xa ấy, hơn nữa thái độ thể hiện của chính quyền đối với điều đó cũng kích thích tình cảm của dân chúng. Anh Việt, chủ một cửa hàng trái cây ở trung tâm thành phố nói với phóng viên “Thời báo Hoàn cầu” rằng anh thường thấy báo chí và truyền hình đưa tin nói Trung Quốc “bố trí vũ khí ở Biển Đông của chúng tôi (Việt Nam gọi Nam Hải là Biển Đông – ghi chú của Thời báo Hoàn Cầu)”, anh rất phản cảm với chính phủ Trung Quốc, “Tôi mong sao Đà Nẵng có thể đặt càng nhiều tên đường và tên đất như “Hoàng Sa”, “Trường Sa”. Thậm chí tôi mong rằng sẽ có ngày cái tên “Hoàng Sa”, “Trường Sa” có thể xuất hiện trên đường phố Trung Quốc!”

Những ngôn từ gay gắt như thế khiến phóng viên bản báo có chút ngạc nhiên. Phía sau loại “tuyên bố” ấy có sự phòng bị, bất an, cũng phảng phất có ý thù địch. Phóng viên bản báo cảm nhận sâu sắc điều đó khi có mặt tại “Uỷ ban Nhân dân huyện Hoàng Sa” ở trung tâm thành phố Đà Nẵng. Đây là cơ quan “Chính quyền huyện Hoàng Sa” Việt Nam đặt riêng, trên danh nghĩa là để quản lý toàn bộ quần đảo Tây Sa.

Phóng viên bản báo đến thăm nơi này vào cuối tuần, phòng làm việc không có ai cả, nhưng qua lớp kính có thể thấy rõ trong nhà treo đầy bản đồ liên quan tới “Biển Đông”. Trong hành lang có một tấm biển nổi bật in dòng chữ tuyên ngôn “Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong lịch sử tiến hành chiếm lĩnh, tổ chức, quản lý và khai thác quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa). Do không có “lãnh thổ” thực tế để bố trí nên một tấm “bia huyện Hoàng Sa” cao khoảng hai mét bị đặt ở góc nhà, mặt phủ một lớp bụi mỏng.

Tại khu vực này, phóng viên bản báo gặp một người dân ở gần đấy, tên là Từ Sĩ Tôn. Ông già 65 tuổi ấy tự xưng họ tên này có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng ông vô cùng bất mãn với Trung Quốc. Ông nói, nếu cho điểm cao nhất là 10 điểm, thì ông chỉ có thể cho Trung Quốc 5 điểm, còn với Nhật và Mỹ thì lại có thể cho 9 và 10 điểm. “Mỹ tuy có đánh nhau với chúng tôi nhưng sau này lại giúp chúng tôi rất nhiều. Còn Trung Quốc thì sau chiến tranh mấy chục năm luôn bắt nạt Việt Nam. Trong đời mình, tôi cảm thấy Trung Quốc đối với Việt Nam chẳng ra sao cả.”

Đối với một người Đà Nẵng khác là anh Quân thì tình cảm đề phòng Trung Quốc trực tiếp liên quan đến đời sống hàng ngày của anh. “Tôi có mấy người thân phục vụ trong hải quân. Hiện nay tranh chấp trên biển giữa Trung Quốc với Việt Nam làm cho tôi và người nhà rất lo lắng. Chúng tôi sợ xảy ra chiến tranh.” Khi phóng viên “Thời báo Hoàn cầu” hỏi tiếp anh có cho rằng thật sự có khả năng xảy ra chiến tranh hay không thì anh nhìn ra phía xa và nói đi nói lại một câu: “Mong rằng sẽ không xảy ra”.

Ấm ức – người Trung Quốc coi thường chúng tôi

Tình cảm phức tạp của Việt Nam đối với Trung Quốc cũng phản ánh trong mối quan hệ giữa dân chúng địa phương với du khách Trung Quốc. Bảy tháng đầu năm nay tổng cộng đã có 2,2 triệu lượt du khách Trung Quốc tới Việt Nam, tăng 51% so cùng kỳ. Số du khách Trung Quốc đến thăm Việt Nam trong cả năm có thể lên tới 4 triệu. Thế nhưng phía sau con số đẹp ấy là những lời oán trách và bất mãn của không ít du khách Trung Quốc, rất nhiều người cảm thấy mình không được đối xử công bằng: chẳng những có các cảnh rối ren thị trường thường thấy như lừa đảo bịp bợm, mà các sự việc như du khách Trung Quốc bị nhân viên hải quan Việt Nam đòi hối lộ, bôi bẩn hộ chiếu, đối xử thô bạo thậm chí ẩu đả cũng liên tục xảy ra.

Phóng viên “Thời báo Hoàn cầu” khi xuất cảnh từ sân bay Cam Ranh Nha Trang đã nhìn thấy cảnh thế này: một nhân viên công tác Việt Nam lớn tiếng quát mắng du khách Trung Quốc đang xếp hàng chờ kiểm tra an ninh, bất cứ ai dừng lại hoặc có chi tiết sơ suất nào đó đều bị nhân viên này nghiêm giọng quở trách. Phóng viên “Thời báo Hoàn cầu” cũng chẳng gặp may. Khi theo thói quen ở nhiều nước, phóng viên giơ tay lấy chiếc rổ đựng giày, nhân viên kia cũng thô bạo đánh vào tay phóng viên và dùng một thứ tiếng nghe không rõ là tiếng Việt Nam hoặc tiếng Trung Quốc ngọng nghịu quát to bảo phóng viên trực tiếp đặt giày lên băng chuyền.

Đồng thời một số nhân viên ngành du lịch Đà Nẵng và Nha Trang cũng khéo nhắc nhở du khách Trung Quốc, họ cho rằng người Trung Quốc làm ồn, không tôn trọng luật pháp và tập tục địa phương sở tại. Ngô Thị Lượng, nhân viên hướng dẫn mua hàng của một hiệu bán đồ lưu niệm tại Nha Trang, nói với phóng viên “Thời báo Hoàn cầu” là cô từng thấy một số du khách Trung Quốc khi mua hàng lại không dùng tiền Việt Nam để chi trả mà khăng khăng đòi dùng Nhân dân tệ. “Tôi đã nhiều lần giải thích cho họ biết là ở đây không thể dùng đồng Nhân dân tệ để tiêu dùng nhưng một số khách chẳng những không tỏ ra hiểu biết mà ngược lại rất không vui lòng, có lúc còn nói với chúng tôi những lời khó nghe nữa cơ.”
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

THỜI BÁO HOÀN CẦU
VIẾT VỀ TÌNH CẢM YÊU GHÉT
CỦA VIỆT NAM VỚI TRUNG QUỐC-[2]


Phóng viên bản báo cho rằng những cọ sát này càng giống như những mâu thuẫn của một giai đoạn phát triển nào đấy. Tương tự dòng xe máy xuyên ngang chạy dọc như nước chảy trên đường phố, thị trường Việt Nam đang ở vào một giai đoạn phát triển nhanh nhưng thường xuyên xảy ra vấn đề này nọ hoặc các trang thiết bị đi kèm chưa theo kịp, khó tránh khỏi hiện tượng “va chạm”. Song le trong sự bao trùm của tình cảm dân tộc mạnh mẽ đối với Trung Quốc thì bất cứ sự việc nào có liên quan tới du khách Trung Quốc đều rất dễ dàng được dư luận quan tâm, phóng đại hoặc xuyên tạc, tiếp đó gây ra thành kiến lệch lạc và sự bất mãn mới của người Việt Nam đối với Trung Quốc.

Hoàng Thị Bích Trâm còn đang học đại học, cô ấm ức nói với phóng viên “Thời báo Hoàn cầu” rằng cô muốn làm hướng dẫn viên du lịch [HDVDL] nhưng rất nhiều đoàn du lịch Trung Quốc lại chỉ muốn thuê HDVDL người Trung Quốc, người Việt Nam dù có biết tiếng Trung Quốc đi nữa nhưng giỏi lắm cũng chỉ có thể được làm ‘trợ lý HDVDL’ mà thôi”. “Cũng tức là nói chúng tôi không được phụ trách về hành trình thực tế của đoàn, chỉ khi nào có chuyện gì đó thì mới lấy tư cách HDVDL xuất đầu lộ diện giao thiệp với chính quyền và cảnh sát. Hơn nữa HDVDL người Trung Quốc có thu nhập cao rất nhiều so với các trợ lý như chúng tôi.”

Ông Đoàn, một người Đà Nẵng 50 tuổi, thì cho rằng người Trung Quốc hay “bắt nạt” người Việt Nam. “Tôi thường thấy báo đài đưa những tin tiêu cực về du khách Trung Quốc. Mấy hôm vừa rồi, đài nói gần đây có một bà già quẩy gánh táo bán ngoài phố, có du khách Trung Quốc ăn táo của bà mà không trả tiền, lại còn mắng bà ấy nữa.” Cho dù phóng viên bản báo nói sự việc này có lẽ có phần kỳ quặc nhưng ông Đoàn vẫn cứ giữ quan điểm như cũ: “Chuyện ấy làm tôi cảm thấy người Trung Quốc có chút coi thường người Việt Nam chúng tôi, không bình đẳng với chúng tôi.”

Hoan nghênh  – “Người Trung Quốc thích mua sắm”

Dù là “đề phòng” hay “ấm ức”, hai tình cảm ấy càng như một “dòng nước ngầm” ẩn giấu, nhiều lúc Đà Nẵng và Nha Trang xem ra lại là hai thành phố rất hữu hảo với người Trung Quốc. Phố lớn ngõ nhỏ ở đây chỗ nào cũng có thể nhìn thấy các biển tiếng Trung Quốc, từ “Phở Quảng Nam” đến “Nơi cho thuê xe máy”, rồi đến “Hàng đặc sản Việt Nam”, dù cho không biết nói một câu tiếng Việt đi nữa bạn cũng chẳng khó khăn tìm thấy nơi mình cần đến. Hơn nữa ở mỗi một cửa hiệu du khách có thể tới hầu như đều có một nhân viên hướng dẫn mua hàng biết nói tiếng Trung Quốc.

Cô Ngọc 21 tuổi làm việc ở một cửa hiệu áo dài trong một trung tâm thương mại lớn, khi bạn chỉ tay vào bất cứ bộ trang phục nào trong cửa hiệu, cô đều có thể nhanh chóng dùng tiếng Trung Quốc cho biết giá cả của chúng. Khi phóng viên “Thời báo Hoàn cầu” hỏi cô có ấn tượng thế nào về du khách Trung Quốc, cô cười rất cởi mở đáp: “Người Trung Quốc thích mua sắm.” Cô bảo, khách đến Nha Trang nhiều nhất là người Trung Quốc và người Nga, nhưng du khách Nga ít mua hàng. Khi phóng viên hỏi cô có thấy du khách Trung Quốc làm ồn không thì cô cười nói: “Cũng có lúc như vậy, nhưng tôi cảm thấy chuyện ấy chẳng sao cả, họ có thể mua hàng là được rồi.”

Trong các lần phóng viên phỏng vấn, rất nhiều người địa phương thừa nhận du khách Trung Quốc đến đây đã kích thích kinh tế vùng này. Theo “Mạng Việt Nam”, 9 tháng đầu năm nay thu nhập ngành du lịch của Đà Nẵng đạt 600 triệu USD, tăng 24,4% so cùng kỳ. Trong đó phần “cống hiến” của du khách Trung Quốc không nhỏ. Cho tới hiện nay số du khách Trung Quốc đến Đà Nẵng năm 2017 đã vượt quá 440 nghìn lượt người, tăng 23% so cùng kỳ, chỉ kém du khách Hàn Quốc mà thôi.

“Người Việt Nam giám sát các xí nghiệp nước ngoài rất chặt chẽ, rất nhiều công ty du lịch Trung Quốc làm ăn tại Việt Nam đều kinh doanh dưới hình thức công ty của địa phương, nhằm tránh sự chướng mắt quá mức. Thực ra đây là hành vi kinh doanh tiêu cực [nguyên văn màu tro] nhưng chính quyền cứ phớt lờ.” Một người Hoa từng làm ngành du lịch ở Đà Nẵng ngót 10 năm nói với phóng viên “Thời báo Hoàn cầu” là mỗi lần người Việt Nam sở tại có mâu thuẫn lợi ích với doanh nhân Trung Quốc kinh doanh du lịch thì nói chung chính quyền Việt Nam đều áp dụng cách giải quyết “Hoà cả làng” [nguyên văn Hoà hi ni], “Vừa bảo doanh nhân Trung Quốc lưu ý, cũng vừa gây sức ép với tình cảm [dân tộc] của người Việt Nam, bởi lẽ chính quyền rất hiểu rõ lợi ích mà việc làm ăn với Trung Quốc đem lại [cho Việt Nam]. Điều đó không tách rời được Trung Quốc”.

“Mười năm trước bãi biển Mỹ Khê chẳng có gì cả, chỉ có một ít lều quán xơ xác, bây giờ cả khu này đã xây dựng đầy những khách sạn to đẹp. Thu nhập của dân sở tại mấy năm nay tăng lên không ít.” Cô Trang là hướng dẫn viên tại Đà Nẵng của phóng viên “Thời báo Hoàn cầu”, cô hướng dẫn các đoàn du khách Trung Quốc, mỗi tháng thu nhập đại để vào khoảng 2-3 nghìn Nhân dân tệ [khoảng 7-10 triệu VNĐ], cao hơn nhiều so với mức thu nhập khoảng 1500 Nhân dân tệ [khoảng 5 triệu VNĐ] của người dân sở tại bình thường. “Mới đầu khi tôi vào đại học định học tiếng Trung Quốc, cha mẹ tôi đều không đồng ý, cảm thấy chắc chắn sẽ không tìm được việc làm, một số người xung quanh cho rằng học tiếng Trung Quốc là bán nước. Bây giờ khi thấy tôi làm việc và có thu nhập, họ đều nghĩ rằng ban đầu tôi đã lựa chọn đúng, rất ủng hộ tôi.”

Xu hướng –  “Trung Quốc rất tiên tiến, tôi muốn đi thăm Trung Quốc xem thế nào”

Trong thời gian ở Đà Nẵng và Nha Trang, phóng viên “Thời báo Hoàn cầu” có bảo người dân địa phương dùng ba từ để hình dung Trung Quốc trong suy nghĩ của họ. Kết quả cuối cùng mấy từ có tần suất cao nhất là: phát triển, sầm uất và công nghệ.

“Tôi thấy người Trung Quốc rất có năng lực, trong một thời gian ngắn mà họ có thể xây dựng đất nước mình được tốt như vậy.” Đoàn Xuân Hoàng 34 tuổi nói với phóng viên “Thời báo Hoàn cầu”. Trong ấn tượng của anh, Trung Quốc là một quốc gia lớn, giàu có và tiên tiến, nhất là công nghiệp chế tạo phát đạt. Anh bạn trẻ này chỉ vào các phụ kiện điện thoại di động bán trong cửa hiệu của anh và nói: “Toàn bộ những thứ này đều nhập từ Trung Quốc. Tôi thật sự muốn đi Trung Quốc xem xem các bạn chế tạo những thứ ấy như thế nào.”

Phạm Thị Sáng đang học đại học ngoại ngữ ở Đà Nẵng nói với phóng viên bản báo rằng phần lớn những người có cách nhìn tiêu cực về Trung Quốc là những người già, “Bởi lẽ quan điểm của họ về Trung Quốc dừng lại ở quá khứ”, còn phần lớn lớp trẻ Việt Nam đã có nhận thức tương đối khách quan về sự phát triển chính trị, văn hoá và kinh tế của Trung Quốc, rất nhiều người còn đầy những suy tưởng hướng về Trung Quốc. Sáng và nhiều bạn xấp xỉ tuổi cô đều rất hâm mộ văn hoá Trung Quốc, thích xem phim Trung Quốc, xem phim truyền hình và nghe nhạc Trung Quốc. “Trong suy nghĩ của tôi, Trung Quốc là một đất nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có trình độ phát triển kinh tế rất cao, sau này Việt Nam có rất nhiều cái có thể học Trung Quốc”.

“Tứ đại phát minh mới” của Trung Quốc[1] cũng đang ảnh hưởng tới Việt Nam một cách không cảm nhận thấy. Tại một hiệu giày dép ở Nha Trang, trên quầy thu ngân có mã hai chiều thanh toán WeChat Bảo Hoà (một phương thức nhận diện chủ yếu cho ứng dụng di động; ở đây là nói mã QR của công ty Trung Quốc Bảo Hoà; WeChat chữ Hán là vi tín). Điều khiến người ta ngạc nhiên hơn là chủ hiệu lại không phải là người thuộc lớp trẻ bám sát trào lưu hiện đại, mà là một bà trên 50 tuổi. Bà chủ nói với phóng viên “Thời báo Hoàn cầu” là thanh toán WeChat Bảo Hoà rất tiện lợi, “Hiện nay rất nhiều cửa hiệu Việt Nam đều đã bắt đầu sử dụng rồi”. Khi phóng viên bản báo chia tay ra về, bà còn không quên nhét vào tay phóng viên một tấm danh thiếp có in mã vạch hai chiều của cửa hiệu mình: “Tôi làm một tài khoản công chúng cho cửa hiệu của tôi, nếu rảnh anh có thể vào xem xem?”

Ngay cả ông Đoàn luôn cảm thấy “Trung Quốc bắt nạt Việt Nam” cũng cho con gái đang học đại học bắt đầu học tiếng Trung Quốc. “Tôi nghĩ sau này nhất định sẽ càng ngày càng có nhiều dịp giao thiệp với Trung Quốc, lũ trẻ học tiếng Trung Quốc thì trong tương lai chắc chắn sẽ có tiền đồ tốt hơn”. Khi phóng viên nhắc ông rằng “Bác từng bảo bác ghét Trung Quốc cơ mà” thì ông Đoàn hơi ngượng ngùng nói: “Cái đó cũng là để có thể nói lý lẽ với người Trung Quốc thôi!”

Thế nhưng trong cửa hàng đồ điện gia dụng của bà vợ ông Đoàn thì hàng hoá Trung Quốc cũng ngày một nhiều. Khi có người nghi ngờ chất lượng những mặt hàng này thì người phụ nữ Việt Nam ấy sẽ bực mình trả lời theo một phản xạ có điều kiện: “Hàng hoá toàn thế giới đều là do Trung Quốc sản xuất cả đấy ạ !”

Bản gốc tiếng Trung:            难以置信!这个“兄弟国家”对中国的恨爱,都这么直白!
—————-
[1] Tứ đại phát minh mới của Trung Quốc trong bài này nói kết quả bình chọn hồi tháng 5/2017 của thanh niên 20 nước dọc “Một vành đai, một con đường”, đó là: 1) Đường sắt cao tốc;  2) Alipay [Chi phó bảo, do tập đoàn Alibaba TQ sáng tạo, là hình thức thanh toán trực tuyến không có phí giao dịch của bên thứ ba, tức một kênh trung gian để thanh toán, đem lại nhiều tiện lợi cho người dùng, hiện được 300 triệu dân TQ sử dụng];  3) Xe đạp dùng chung; 4) Mua hàng qua mạng. Tứ đại phát minh cũ của Trung Quốc là: 1) Thuốc nổ; 2) Kim chỉ nam; 3) Công nghệ làm giấy; 4) Công nghệ in chữ rời.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

QUAN HỆ VIỆT-TRUNG
QUA CON MẮT
CỦA MỘT HỌC GIẢ TRUNG QUỐC


Biên dịch: Nguyễn Huy Hoàng

Đầu tháng 2 năm nay, tôi có chuyến thăm thứ hai đến Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Khác với chuyến thăm lần đầu cách đây bốn năm, lần này tôi quyết định dành phần lớn thời gian trong năm ngày ở đây để khám phá các bảo tàng trong thành phố. Ở Việt Nam lúc này là mùa khô, và các bảo tàng sẽ cung cấp một nơi trú ẩn dễ chịu trước cái nóng hầm hập trên đường phố. Vả lại, con trai tôi mới bốn tuổi trong chuyến thăm đầu, và tôi nghĩ lớn thêm bốn năm là đủ cho nó học được chút gì đó từ các bảo tàng về lịch sử và văn hoá của một đất nước mà nó đã đến thăm hai lần.

Quan trọng hơn, là một nhà khoa học chính trị, tôi hy vọng chúng sẽ giúp tôi tìm hiểu xem Việt Nam nhìn nhận như thế nào về mối quan hệ với Trung Quốc. Với vai trò hết sức quan trọng của các bảo tàng – cũng như bản đồ và các cuộc điều tra dân số – trong quá trình hình thành bản sắc quốc gia, như Benedict Anderson đã thảo luận sâu rộng trong cuốn sách được đánh giá cao The Imagined Communities của ông, tôi chắc chắn câu chuyện của chính phủ Việt Nam về mối quan hệ song phương sẽ khác câu chuyện của chính phủ Trung Quốc, nhưng tôi không biết chính xác thì khác như thế nào.

Sáng ngày thứ hai, tôi đến Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh. Tôi đã nghe những người từng đến thăm bảo tàng nói đây là nơi dành riêng cho cuộc chiến giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Tôi cũng biết rằng Trung Quốc đã cung cấp một lượng lớn viện trợ cho Việt Nam trong cuộc chiến, mặc dù Bắc Kinh chưa bao giờ tiết lộ con số chính xác. Một nguồn tin của Trung Quốc ước tính con số này rơi vào khoảng 20 tỷ USD (tính theo cơ sở giá trong những năm 1970). Hơn nữa, Bắc Kinh cũng gửi 300.000 nhân viên quân sự qua biên giới trong giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1968, theo một nguồn tin khác. Bởi vậy mà trước khi đến bảo tàng, tôi đã nghĩ sẽ có ít nhất một hai hiện vật để ghi nhận sự giúp đỡ hào phóng mà Trung Quốc dành cho Việt Nam.

Tầng trệt của bảo tàng là một bộ sưu tập ảnh và áp phích. Các bức ảnh cho thấy các cuộc tập hợp, diễu hành, biểu tình phản đối chiến tranh trên khắp thế giới (và cả ở Mỹ), trong khi các tấm áp phích dùng từ ngữ và hình ảnh để truyền tải sự ủng hộ của quốc tế dành cho Việt Nam và phản đối Hoa Kỳ. Đến cuối bộ sưu tập tôi gặp ba bức ảnh. Bức thứ nhất chụp cảnh Mao Trạch Đông bắt tay với Hồ Chí Minh. Bức thứ hai chụp hai quả khinh khí cầu treo hai dải băng rôn dài – một ghi “Mao chủ tịch muôn năm” và một ghi “Hồ chủ tịch muôn năm” – trên quảng trường Thiên An Môn đông đúc ở Bắc Kinh. Bức thứ ba chụp cảnh Mao đón tiếp một phái đoàn Việt Nam. Hoá ra chỉ có ba bức ảnh này trong bảo tàng cao ba tầng gợi ý sự thừa nhận và biết ơn của Việt Nam đối với sự trợ giúp của Trung Quốc trong Chiến tranh Việt Nam.

Chiều ngày thứ tư, tôi đến thăm Bảo tàng Lịch sử. Sau khi nhanh chóng đi qua hai gian trưng bày đầu tiên, có các hiện vật và trang phục truyền thống, tôi đến lối vào gian trưng bày thứ ba. Ở đầu lối vào là một tấm bảng ghi “Bắc thuộc – Đấu tranh giành độc lập.” Gian trưng bày thứ ba này có khoảng hai chục tấm áp phích và bản đồ phục dựng. Tôi đặc biệt thấy cuốn hút trước một tấm áp phích, ghi (nguyên văn) như sau:

Sau khi An Dương Vương thất bại trong cuộc kháng chiến chống Triệu Đà (179 TCN), Việt Nam bị các triều đại phong kiến Trung Quốc cai trị, bóc lột, và đồng hoá. Trong hơn 1.000 năm, người Việt Nam đã cố gắng hết sức để gìn giữ văn hoá truyền thống, ngôn ngữ dân tộc, tiếp nhận và Việt hoá các yếu tố văn hoá Hán; đồng thời tổ chức hơn 100 cuộc nổi dậy chống lại những kẻ xâm lăng để giành chủ quyền với cuộc nổi dậy đầu tiên là của Hai Bà Trưng (40–43 CN). Năm 938, Ngô Quyền đánh đuổi hoàn toàn quân Trung Quốc xâm lược trên sông Bạch Đằng lịch sử, bắt đầu kỷ nguyên tự do và độc lập cho người Việt Nam.

Sau tấm áp phích là một chuỗi các bản đồ phục dựng, thể hiện không chỉ các tuyến đường của “quân Trung Quốc xâm lược” liên tiếp, mà còn cả vị trí của các cuộc kháng chiến. Một tấm bản đồ mô tả “các cuộc nổi dậy tiêu biểu chống quân xâm lược phương Bắc (thế kỷ 1–10).” Một tấm thể hiện “chiến thắng của quân đội Đại Việt trước quân Tống xâm lược (1076–1077).” Tấm bản đồ thứ ba cho thấy “cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418–1427).” Đến khi bước ra khỏi lối vào, tôi đã có một cái nhìn rõ ràng về cách mà Trung Quốc từng – và có lẽ là vẫn – được nhìn nhận bởi người láng giềng phương Nam.

Đến tối về lại phòng khách sạn, tôi cố gắng lý giải những gì mình đã thấy trong Bảo tàng Lịch sử. Tình cờ tôi có mang theo một cuốn sách du lịch của Lonely Planet năm 2014 về Việt Nam, nên tôi bắt đầu đọc phần giới thiệu ngắn gọn về lịch sử đất nước. Rồi tôi thấy một mục có tiêu đề “China Bites Back” (Trung Quốc nổi giận), viết như sau:

Trung Quốc một lần nữa nắm quyền kiểm soát ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 15, đem văn khố quốc gia và một số trí thức của đất nước về Nam Kinh [kinh đô nhà Minh] – một tổn thất có tác động lâu dài lên nền văn minh Việt Nam. Sưu cao thuế nặng và lao động khổ sai cũng là điển hình của thời kỳ này. Nhà thơ Nguyễn Trãi (1380–1442) viết về giai đoạn này: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội. Nhơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.”

Thành thật mà nói, tôi đã không hề chuẩn bị tinh thần để đón nhận một đoạn thơ như thế. Quả thật, với tôi, nó nghe cũng giống như một đoạn thơ lên án quân Nhật Bản xâm lược Trung Quốc nếu tác giả không được nêu tên. Tôi thực sự choáng váng trước mức độ oán hận trong hai dòng thơ này. Chắc chắn là tôi nhận thức được rất rõ rằng hai đất nước đã trải qua một mối quan hệ nhiều rắc rối kể từ cuối những năm 1970: một cuộc đụng độ biên giới năm 1979, các cuộc đụng độ trên biển vào cuối những năm 1980, và căng thẳng trên các đảo tranh chấp ở Biển Đông kể từ năm 2010. Nhưng tôi không biết sự thù địch của Việt Nam với Trung Quốc lại sâu đậm và mạnh mẽ như thế. Như một “bách niên quốc sỉ” đã trở thành một phần không thể tách rời trong ký ức tập thể của người Trung Quốc, “ngàn năm Bắc thuộc” cũng phát triển thành một thành tố cốt lõi trong bản sắc dân tộc của người Việt Nam, bất kể ký ức của người Trung Quốc thay đổi như thế nào, hay bản sắc Việt Nam là do tự phát triển hay được hình thành một cách nhân tạo.

Bỏ cuốn Lonely Planet xuống, tôi cố gắng lý giải mối quan hệ Việt-Trung. Bỗng nhiên tôi nhớ ra một đoạn trích thường được [một số học giả phương Tây] cho là của Hồ Chí Minh, vị cha già của Việt Nam hiện đại. Ông Hồ được cho là đã nói như sau vào năm 1946, ít lâu sau khi ông đồng ý cho phép quân đội Pháp trở lại Việt Nam:

Các anh thật thiển cận! Các anh không nhận ra Trung Quốc ở lại nghĩa là thế nào sao? Các anh không nhớ lịch sử của mình sao? Lần cuối đến đây, họ đã ở lại một ngàn năm. Pháp là người ngoài. Họ yếu. Chủ nghĩa thực dân sắp chết. Người da trắng đã tận số ở châu Á. Nhưng nếu ở lại bây giờ thì người Trung Quốc sẽ không bao giờ rời đi. Còn tôi, tôi thà ngửi cứt Pháp trong năm năm tới còn hơn ăn cứt Tàu cả cuộc đời.

Sự tha thứ nhanh chóng của Hồ Chí Minh đối với thực dân Pháp góp phần giải thích thái độ rộng lượng dễ thấy của người Việt đối với người Mỹ. Một vật trưng bày trong Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh nói rằng 3 triệu người Việt (trong đó có 2 triệu dân thường) đã bị giết, 2 triệu người bị thương, cộng thêm 300.000 người mất tích trong cuộc chiến chống Mỹ. Bên cạnh tổn thất kinh hoàng về người còn có tổn hại to lớn mà chất độc da cam gây ra cho cả môi trường địa phương và người dân sống ở đó. Rất có thể những hành động ô nhục và tội ác mà người Mỹ gây ra trong khoảng mười năm còn tồi tệ hơn nhiều so với những gì mà Trung Quốc đã gây ra (cho Việt Nam) trong hơn một ngàn năm. Vậy mà người Việt Nam vẫn có vẻ nhanh chóng vượt qua được sự tàn ác của Mỹ.

Quá khứ có thể cho chúng ta biết gì về tương lai của mối quan hệ Việt-Trung? Một bài học có vẻ đúng: Các lực lượng ly tâm của chủ nghĩa dân tộc mạnh hơn rất nhiều so với các lực lượng hướng tâm của chủ nghĩa cộng sản. Cũng như Mao cuối cùng đã cắt đứt với Stalin, cuối cùng Hồ Chí Minh cũng quay lưng lại với Mao. Cào vỏ bọc một người cộng sản, rồi ta sẽ thấy không sâu bên dưới lớp da là một nhà dân tộc chủ nghĩa. Chừng nào những ký ức về “ngàn năm Bắc thuộc” còn tươi mới trong ý thức tập thể của người Việt, hứa hẹn của Bắc Kinh về sự trỗi dậy hoà bình sẽ còn không đáng tin, và những căng thẳng tiếp diễn ở Biển Đông chỉ khiến hứa hẹn đó thêm phần đáng ngờ. Hà Nội sẽ tiếp tục tìm kiếm sự ủng hộ từ những bên thứ ba để chuẩn bị nghênh đón sự trỗi dậy không hoà bình của Trung Quốc.

Với những suy nghĩ này, tôi chuẩn bị cho điểm dừng tiếp theo: Yangon, Myanmar.

Xie Tao (Tạ Thao)
Giáo sư ngành khoa học chính trị tại Trường Anh ngữ và Nghiên cứu Quốc tế, Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh, là tác giả cuốn U.S.-China Relations: China Policy on Capitol Hill(Routledge, 2009). Bài viết thể hiện quan điểm của riêng tác giả.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

TẠI SAO NGƯỜI VIỆT NAM
KHÔNG BỊ ĐỒNG HOÁ
SAU 1.000 NĂM BẮC THUỘC?-[1]


Tác giả: Nguyễn Hải Hoành

Tiếng ta còn thì nước ta còn!

Đồng hoá dân tộc (national assimilation) gồm: 1- Đồng hoá tự nhiên, tức quá trình dân tộc A trong giao tiếp với dân tộc B, do chịu ảnh hưởng lâu dài của B mà A tự nhiên dần dần mất bản sắc của mình, cuối cùng bị B đồng hoá; đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2- Đồng hoá cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc nhỏ yếu hơn chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của một dân tộc lớn mạnh hơn; đây là một tội ác.

Đồng hoá dân tộc chủ yếu diễn ra dưới hình thức đồng hoá văn hoá, trong đó chủ thể đồng hoá thường là một nền văn hoá mạnh và tiên tiến (như đông dân hơn, kinh tế phát triển hơn, đã có chữ viết, có các hệ tư tưởng), đối tượng đồng hoá thường là nền văn hoá yếu và lạc hậu hơn. Đồng hoá ngôn ngữ là công cụ đồng hoá văn hoá thông dụng nhất, quan trọng nhất, hiệu quả nhất. Một dân tộc bị mất tiếng nói mẹ đẻ của mình và phải nói tiếng của một dân tộc khác thì không còn giữ được bản sắc dân tộc nữa.

Trong lịch sử, các nền văn hoá yếu thường bị nền văn hoá mạnh đồng hoá. Thời cổ, Trung Quốc là quốc gia đông người nhất và có nền văn minh tiên tiến nhất châu Á. Nền văn hoá Hán ngữ của họ có sức đồng hoá rất mạnh. Dân tộc Hồi ở phía Tây nước này, ngày xưa dùng chữ A Rập, sau nhiều năm giao lưu với người Hán cũng toàn bộ dùng chữ Hán và nói tiếng Hán. Ngay cả các dân tộc nhỏ nhưng mạnh về quân sự, sau khi thôn tính và thống trị Trung Quốc được ít lâu cũng bị nền văn hoá Hán ngữ đồng hoá.

Thí dụ dân tộc Mãn sau khi chiếm Trung Quốc và lập triều đại nhà Thanh đã lập tức tiến hành đồng hoá dân tộc Hán: cưỡng bức đàn ông Hán phải cạo nửa đầu và để đuôi sam, phải bỏ chữ Hán mà chỉ dùng chữ Mãn làm chữ viết chính thức trên cả nước. Nhưng đến giữa đời Thanh, tức sau khoảng 100 năm thì tiếng Mãn cùng chữ Mãn đều biến mất, từ đó trở đi người Mãn chỉ dùng tiếng Hán và chữ Hán, nghĩa là họ lại bị đồng hoá ngược bởi chính nền văn hoá của dân tộc bị họ cai trị lâu tới 267 năm!
Các nước đế quốc thực dân sau khi chiếm thuộc địa đều cưỡng chế đồng hoá ngôn ngữ dân bản xứ, quá trình này diễn ra khá nhanh, nhìn chung sau 5-6 thế hệ (mỗi thế hệ 25 năm), tiếng nói của người bản xứ đã bị thay bằng ngôn ngữ của nước cai trị. Đầu thế kỷ XV, Brazil bị Bồ Đào Nha chiếm, chẳng bao lâu tiếng Bồ trở thành ngôn ngữ chính thức duy nhất của người Brazil. Nhiều thuộc địa Pháp ở châu Phi như Bénin, Togo, Sénegan… dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính duy nhất. Năm 1918 nước ta bắt đầu dạy tiếng Pháp ở lớp cuối tiểu học, 10-20 năm sau toàn bộ học sinh trung học cơ sở trở lên đến trường đã chỉ nói tiếng Pháp, giáo viên chỉ giảng dạy bằng tiếng Pháp. Nếu cứ thế dăm chục năm nữa thì có lẽ Việt Nam đã trở thành nước nói tiếng Pháp.

Thế nhưng sau hơn 1.000 năm bị bọn phong kiến người Hán thống trị và cưỡng bức đồng hoá, dân tộc Việt Nam vẫn không bị Hán hoá, vẫn giữ nguyên được nòi giống, tiếng nói và phong tục tập quán.

Đây quả là một điều kỳ diệu có lẽ chưa dân tộc nào khác làm được. Đáng tiếc là chưa thấy nhiều người quan tâm nghiên cứu vấn đề này, một thành tựu vĩ đại đáng tự hào nhất của dân tộc ta (nói cho đúng là của tổ tiên ta thôi, còn chúng ta bây giờ thua xa các cụ).

Vì sao tổ tiên ta có thể làm được kỳ tích ấy ? Có người nói đó là do dân ta giàu tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, xã hội có cơ chế làng xã bền chặt, v.v… Nói như vậy có lẽ còn chung chung, nếu đi sâu phân tích tìm ra được nguyên nhân cụ thể thì sẽ giúp ích hơn cho việc phát huy các truyền thống quý báu của dân tộc ta. Thực tế cho thấy tổ tiên ta giành được thắng lợi chống đồng hoá không phải bằng đấu tranh vũ trang mà chủ yếu bằng tài trí.

Xin nói thêm rằng chính người Trung Quốc cũng rất quan tâm vấn đề này. Chúng tôi đã thử nêu lên mạng Bách Độ (Baidu) của họ câu hỏi “Vì sao Trung Quốc thống trị Việt Nam hơn 1.000 năm mà Việt Nam không bị đồng hoá?”

Từ hàng triệu kết quả, có thể thấy đa số dân mạng Trung Quốc đều có chung một thắc mắc lớn: Vì sao bị Trung Quốc thống trị lâu thế mà người Việt Nam vẫn không nói tiếng Trung Quốc? Nói cách khác, họ coi đồng hoá ngôn ngữ là tiêu chuẩn đồng hoá quan trọng nhất và đều thừa nhận Trung Quốc đã không đồng hoá nổi Việt Nam. Họ tỏ ra tiếc nuối về sự kiện Việt Nam sau hơn 10 thế kỷ từng là quận huyện của Trung Quốc, từng dùng chữ Hán hàng nghìn năm mà rốt cuộc lại trở thành một quốc gia độc lập, dùng chữ Latin hoá, ngày nay là nước chống lại mạnh nhất chính sách xâm lấn Biển Đông của Bắc Kinh.

Do hiểu biết Việt Nam rất ít, thậm chí hiểu sai, hầu hết dân mạng Trung Quốc không tìm được lời giải thắc mắc trên, kể cả người tỏ ra am hiểu lịch sử nước ta. Họ nêu các lý do:

– Văn hoá Việt Nam có trình độ Hán hoá cao(?), người Việt rất hiểu và không phục Trung Quốc;
– Việt Nam ở quá xa Trung nguyên, khí hậu nóng, quan lại người Hán ngại sang Việt Nam làm việc, đã sang thì chỉ lo làm giàu, không lo đồng hoá dân bản xứ;
– Các nhân vật tinh hoa Trung Quốc như Lưu Hy, Hứa Tĩnh, Hứa Từ, Viên Huy (劉熙、許靖、許慈、袁徽) chạy loạn sang Việt Nam đã giúp nước này có nền văn hoá không kém Trung Quốc;
– Người Hán di cư đến Việt Nam đều bị người bản xứ đồng hoá v.v…

Nói chung họ đều chưa thấy, hay cố ý lờ đi nguyên nhân chính là ở tài trí của người Việt.

Nhưng họ nói người Việt Nam hiểu Trung Quốc là đúng. Do sớm hiểu rõ ý đồ thâm hiểm của phong kiến người Hán muốn đồng hoá dân tộc ta nên tổ tiên ta đã kịp thời đề ra đối sách. Cụ thể là đã tìm ra cách giữ gìn được tiếng nói của dân tộc mình trong quá trình bị bọn thống trị người Hán cưỡng bức học chữ Hán.

Mấy nghìn năm sau, một học giả lớn của dân tộc ta tóm tắt bài học lịch sử này trong một câu nói rất chí lý: “Tiếng ta còn thì nước ta còn!”

Sau khi chiếm nước ta (203 tr. CN), Triệu Đà đã ép buộc dân ta học Hán ngữ, nhằm đồng hoá họ bằng ngôn ngữ. Có lẽ đây là thời điểm muộn nhất chữ Hán vào nước ta.[1] Sách “Việt giám Thông khảo Tổng luận” do Lê Tung viết năm 1514 có chép việc họ Triệu mở trường dạy người Việt học chữ Hán.[2] Về sau, tất cả các triều đại người Hán cai trị Việt Nam đều thi hành chính sách đồng hoá. Triều nhà Minh còn tìm cách tiêu diệt nền văn hoá của ta, như tiêu huỷ toàn bộ các thư tịch do người Việt viết, bắt nhân tài, thợ giỏi người Việt sang Trung Hoa phục dịch.

Như vậy, dân tộc ta buộc phải chấp nhận học chữ Hán từ rất sớm (trước Triều Tiên, Nhật Bản nhiều thế kỷ). Do hiểu biết người Hán nên tầng lớp tinh hoa người Việt đã nhanh chóng nhận ra nếu cứ học như thế thì cuối cùng tiếng Việt sẽ bị thay bằng tiếng Hán, dân ta sẽ trở thành một bộ phận của Trung Quốc.

Vậy cha ông ta đã dùng cách nào để giữ được tiếng nói của dân tộc trong hơn 1.000 năm bị cưỡng bức học và dùng chữ Hán cũng như phải tiếp thu nhiều yếu tố của nền văn minh Trung Hoa?

Vấn đề này rất cần được làm sáng tỏ để từ đó hiểu được truyền thống quý báu của dân tộc ta. Dưới đây chúng tôi xin mạo muội góp vài ý kiến nông cạn, nếu có sai sót mong quý vị chỉ bảo.

Đọc chữ Hán bằng tiếng Việt: Một sáng tạo xuất sắc của tổ tiên ta

Chữ viết hình vuông là một phát minh lớn của nền văn minh Trung Hoa, được người Hán chính thức sử dụng từ đời nhà Thương (thế kỷ 16 đến 11 tr. CN), ngày nay phổ biến được gọi là chữ Hán.

Thực ra trong hơn 2.000 năm kể từ ngày ra đời, thứ chữ viết ấy chỉ được người Hán gọi là chữ 字 (tự) hoặc văn tự 文字. Đến đời Đường (thế kỷ VII) cái tên 漢字 (Hán tự, tức chữ Hán) mới xuất hiện lần đầu trong sách Bắc Sử 北史 do Lý Diên Thọ biên soạn.[3] Sau đó người Nhật và người Triều Tiên cũng gọi thứ chữ này là Hán tự: tiếng Nhật đọc Kanji, tiếng Triều Tiên đọc Hantzu. Cho tới nay Bộ Giáo dục Đài Loan vẫn chỉ gọi là Quốc tự 國字.

Vì thứ chữ ấy khi vào Việt Nam còn chưa có tên nên tổ tiên ta bèn đặt cho nó cái tên là chữ Nho, với ý nghĩa là chữ của người có học, bởi lẽ Nho 儒 là từ dùng để gọi những người có học. Dân ta gọi người dạy chữ là thầy đồ Nho, bút và mực họ dùng để viết chữ là bút Nho và mực Nho.[4]

Đây quả là một điều độc đáo, bởi lẽ Hán ngữ xưa nay chưa hề có khái niệm chữ Nho; tất cả từ điển Hán ngữ cổ hoặc hiện đại và các từ điển Hán-Việt đều không có mục từ Nho tự 儒字 với ý nghĩa là tên gọi của chữ Hán.

Có thể suy ra: Việt Nam thời xưa không có chữ viết (hoặc đã có chữ Việt cổ nhưng chưa hoàn thiện, chưa diễn tả được các khái niệm trừu tượng), vì thế khi tiếp xúc với chữ Hán, tầng lớp tinh hoa của tổ tiên ta đã nhận thấy đây là một phương tiện cực kỳ hữu ích dùng để truyền thông tin được xa và lâu, không bị hạn chế về khoảng cách và thời gian như cách truyền thông tin bằng tiếng nói, do đó họ đã sớm nghĩ tới việc mượn thứ chữ này làm chữ viết của dân tộc ta.

Muốn vậy dân ta phải biết chữ Hán, một thứ ngoại ngữ. Làm cho dân chúng học và dùng được một ngoại ngữ là việc hoàn toàn bất khả thi ở thời ấy. Hơn nữa chữ Hán cổ khó đọc (vì không biểu âm), khó viết (vì có nhiều nét và cấu tạo phức tạp), khó nhớ (vì có quá nhiều chữ), thuộc loại chữ khó học nhất trên thế giới.

Nói chung, mỗi chữ viết đều có một âm đọc; không ai có thể xem một văn bản chữ mà không vừa xem vừa đọc âm của mỗi chữ (đọc thầm hoặc đọc thành tiếng). Mỗi chữ Hán đều có một âm tiếng Hán; muốn học chữ Hán tất phải đọc được âm của nó. Viết chữ Hán khó, tuy thế tập nhiều lần sẽ viết được, nhưng do khác biệt về hệ thống ngữ âm, người Việt nói chung khó có thể đọc được các âm tiếng Hán.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

TẠI SAO NGƯỜI VIỆT NAM
KHÔNG BỊ ĐỒNG HOÁ
SAU 1.000 NĂM BẮC THUỘC?-[2]


Ngoài ra Trung Quốc là một nước rộng lớn, đông dân; cho tới trước nửa cuối thế kỷ 20 cả nước vẫn chưa thống nhất được âm đọc của chữ. Loại chữ này chỉ thể hiện ý nghĩa, không thể hiện âm đọc, cho nên nhìn chữ mà không biết cách đọc. Người dân các vùng xa nhau thường đọc chữ Hán theo âm khác nhau, thậm chí khác xa nhau, vì thế thường không hiểu nhau nói gì. Các thứ tiếng địa phương ấy ta gọi là phương ngữ, người Hán gọi là phương ngôn (方言); Hán ngữ hiện có 7 phương ngữ lớn, nhiều phương ngữ nhỏ (次方言).

Không thống nhất được âm đọc chữ Hán là một tai hoạ đối với người Hán. Với người nước ngoài học chữ Hán cũng vậy: khi mỗi ông thầy Tàu đọc chữ Hán theo một âm khác nhau thì học trò khó có thể học được thứ chữ này.
Để có thể học được chữ Hán mà không cần đọc âm tiếng Hán, tầng lớp tinh hoa của tổ tiên ta đã sáng tạo ra một giải pháp xuất phát từ ý tưởng: nếu người Hán khác vùng có thể tự đọc chữ Hán theo âm riêng của vùng, thì ta cũng có thể đọc chữ Hán theo âm riêng của người Việt.

Muốn vậy, mỗi chữ Hán được tổ tiên ta quy ước đọc bằng một (hoặc vài, tuỳ chữ Hán gốc) âm tiếng Việt xác định có gốc là âm chữ Hán — ngày nay gọi là âm Hán-Việt, nghĩa là mỗi chữ Hán đều được đặt cho một (hoặc vài) cái tên tiếng Việt xác định, gọi là từ Hán-Việt.

Thí dụ chữ 水 được đặt tên là chữ Thuỷ, âm đọc thuỷ khác với âm đọc shuẩy của người Hán. Chữ 色, tiếng Hán đọc sưa, ta đọc sắc. Thuỷ và Sắc là từ Hán-Việt, cũng là âm Hán-Việt của 水và色.

Âm/từ Hán-Việt được chọn theo nguyên tắc cố gắng bám sát âm Hán ngữ mà tổ tiên ta từng biết.[5] Như chữ 終, âm Hán và âm Hán-Việt đều đọc chung, tức hệt như nhau; chữ 孩, Hán ngữ đọc hái, ta đọc Hài, gần như nhau. Nhưng hầu hết chữ đều có âm Hán-Việt khác âm Hán. Như 集 âm Hán là chí, ta đọc Tập ; 儒 giú, ta đọc Nho. Có chữ âm Hán như nhau mà âm Hán-Việt có thể như nhau hoặc khác nhau, như 同 và 童, âm Hán đều là thúng, từ Hán-Việt đều là Đồng ; nhưng 系 và 細, âm Hán đều là xi, lại có hai từ Hán-Việt khác nhau là Hệ và Tế. Chữ Hán có hai hoặc nhiều âm thì có thể có một, hai hoặc nhiều âm/từ Hán-Việt, như 都 có hai âm Hán là tâu và tu, lại chỉ có một âm/từ Hán-Việt là Đô ; 少 có hai âm Hán shảo và shao, cũng có hai âm/từ Hán-Việt là Thiểu (trong thiểu số) và Thiếu (trong thiếu niên).

Thứ chữ Hán đọc bằng âm Hán-Việt này được dân ta gọi là chữ Nho. Vì đọc chữ bằng tiếng mẹ đẻ nên chữ Nho trở nên dễ học đối với người Việt: chỉ cần học mặt chữ, nghĩa chữ và cách viết văn chữ Hán mà không cần học phát âm cũng như học nghe/nói tiếng Hán. Vì thế thời xưa ở nông thôn nước ta không hiếm người 6-7 tuổi đã biết chữ Nho.[6] Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) 12 tuổi đỗ Cử nhân, 16 tuổi đỗ Hoàng giáp (Tiến sĩ). Người không biết chữ cũng có thể học truyền miệng các tác phẩm ngắn có vần điệu, như Tam Thiên Tự.[7]

Người biết chữ Nho có thể xem hiểu các thư tịch chữ Hán, viết văn chữ Hán; tuy không nói/nghe được tiếng Hán nhưng vẫn có thể dùng bút đàm để giao tiếp bình thường với người Hán. Chỉ bằng bút đàm chữ Nho, Phan Bội Châu giao tiếp được với các nhà cải cách Trung Quốc và Nhật Bản, đưa được mấy trăm thanh niên Việt Nam sang Nhật học quân sự chính trị, chuẩn bị về nước đánh đuổi thực dân Pháp.

Cần nhấn mạnh: vì âm/từ Hán-Việt không thể ghi âm hầu hết từ ngữ tiếng Việt cho nên cách đọc chữ Hán theo âm Việt hoàn toàn không thể biến tiếng Việt thành một phương ngữ của Hán ngữ,[8] và dân ta vẫn hoàn toàn nói và nghe bằng tiếng mẹ đẻ.

Chữ Nho chỉ dùng để viết mà thôi, và chỉ được giới tinh hoa (trí thức và quan lại người Việt) dùng trong giao dịch hành chính, ngoại giao, lễ tiết, chép sử, giáo dục, thi cử, sáng tác văn thơ. Còn ở Trung Quốc, những người nói một trong các phương ngữ tiếng Hán đều có thể dùng chữ Hán để ghi âm được toàn bộ tiếng nói của phương ngữ ấy, nghĩa là họ có thể dùng chữ Hán để ghi âm tiếng mẹ đẻ.

Dĩ nhiên cách đọc tiếng Việt chỉ có thể làm với chữ Hán, là loại chữ biểu ý (ghi ý), chứ không thể làm với chữ biểu âm (ghi âm). Ngày nay âm/từ Hán-Việt của mỗi chữ Hán có thể dễ dàng viết ra bằng chữ Quốc ngữ (một loại chữ ghi âm), nhưng ngày xưa, khi chưa có bất kỳ loại ký hiệu nào ghi âm tiếng nói, tổ tiên ta chỉ có thể truyền khẩu. Thế mà lạ thay, việc dạy chữ Nho đã được mở rộng, ở thời Nguyễn là đến tận làng, có thể suy ra tỷ lệ người biết chữ Hán của dân ta cao hơn Trung Quốc!

Chỉ bằng cách truyền miệng mà người Việt thời xưa đã tạo ra được một bộ từ Hán-Việt tương ứng với bộ chữ Hán khổng lồ — bộ chữ này trong Tự điển Khang Hy (1716) có hơn 47 nghìn chữ; Tiêu chuẩn Nhà nước Trung Quốc GB18030 (2005) có 70.217 chữ; Trung Hoa Tự hải có 85.568 chữ Hán.

Quá trình tiến hành Việt Nam hoá phần ngữ âm của chữ Hán kéo dài trong hàng nghìn năm, là một thành tựu văn hoá vĩ đại. Có thể phỏng đoán đó là một quá trình mở, do nhiều thế hệ người Việt thực hiện, thể hiện sức sáng tạo bất tận của tổ tiên ta.

Nhật và Triều Tiên cũng mượn dùng chữ Hán, nhưng họ tự đến Trung Hoa nghiên cứu đem chữ Hán về dùng chứ không bị ép dùng từ sớm như ta. Họ cũng đọc chữ Hán theo âm bản ngữ của dân tộc mình — giải pháp do người Việt nghĩ ra và thực hiện trước họ nhiều thế kỷ.

Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Nguyễn Tài Cẩn nói: “Cách đọc Hán Việt là một tài sản của riêng dân tộc ta. Có dùng nó khi đọc Đạo đức kinh, Kinh Thi, Sở từ… thì mới phù hợp với thói quen dân tộc, tiện lợi cho dân tộc. Theo ý chúng tôi, dùng cách đọc Hán Việt ở những trường hợp này là một điều hết sức phù hợp với khoa học. Đọc theo lối Hán Việt thì dễ hiểu hơn, bởi lẽ ngay trong tiếng Việt đã có khá nhiều tiếng Hán Việt quen thuộc, chỉ đọc lên, nghe được, là hiểu được; đọc theo lối Hán Việt thì cũng thuận tai hơn… ”.[9]

Đúng thế. Thí dụ từ 社會, người Anh biết Hán ngữ đọc shưa huây, người Anh không biết Hán ngữ khi nghe âm đọc ấy sẽ chẳng hiểu gì; còn người Việt biết Hán ngữ đọc “xã hội”, người Việt không biết Hán ngữ nghe đọc sẽ hiểu ngay nghĩa của từ; âm “xã hội” thuận tai, dễ đọc dễ nhớ hơn âm shưa huây. Rõ ràng cách đọc Hán-Việt thật tiện lợi cho người Việt. Trong bài sau, chúng tôi sẽ nói thêm về vấn đề này.

Ngày nay mỗi chữ Hán trong tất cả các từ điển Hán-Việt đều phải ghi kèm từ Hán-Việt tương ứng. Hán-Việt Tự điển của Thiều Chửu có kèm Bảng tra chữ theo âm Hán-Việt, dùng tra chữ Hán rất tiện và nhanh hơn tra theo bộ thủ. Người có sáng kiến làm Bảng này là bà Nguyễn Thị Quy (1915-1992), em ruột Thiều Chửu, khi bà lần đầu xuất bản Tự điển nói trên tại Sài Gòn năm 1966.[10]

Như vậy, bằng cách đọc chữ Hán theo âm tiếng Việt, tổ tiên ta đã thành công trong việc mượn chữ Hán để dùng làm chữ viết chính thức của dân tộc mình và gọi nó là chữ Nho. Sự vay mượn này chẳng những không làm cho tiếng Việt bị biến mất mà còn làm cho nó phong phú hơn rất nhiều, trở thành một ngôn ngữ cực kỳ linh hoạt, có thể tiếp nhận và Việt hoá hầu như toàn bộ từ ngữ mới xuất hiện trong tiến trình phát triển của loài người toàn cầu.

Chữ Nho khác chữ Hán ở phần ngữ âm: nó là chữ Hán được đọc bằng âm tiếng Việt chứ không đọc bằng âm tiếng Hán như chữ người Hán dùng. Nói cách khác, chữ Nho là chữ Hán đã được Việt Nam hoá phần ngữ âm; còn về tự dạng và nghĩa chữ thì cơ bản như chữ Hán của người Hán. Vì thế có người gọi chữ Nho là chữ Hán-Việt.

Rõ ràng nó là chữ của người Việt Nam, đã Việt Nam hoá phần ngữ âm, không thể coi là chữ của người Hán. Chữ Nho là chữ viết chính thức của dân tộc ta trong hơn 2.000 năm, kể từ thời điểm muộn nhất là bắt đầu thời Bắc thuộc cho tới khi được thay thế bằng chữ Quốc ngữ cực kỳ ưu việt, được chính các nhà Nho tiên tiến tán thưởng và đi tiên phong ủng hộ sự phổ cập Quốc ngữ.

Cách đọc chữ Hán bằng âm/từ Hán-Việt đã đáp ứng nhu cầu giao tiếp bằng bút đàm giữa quan lại cấp thấp người Việt với quan lại cấp cao người Hán, khiến cho bọn thống trị người Hán vẫn thực thi được quyền lực cai trị dân bản xứ. Hơn nữa, cách đó làm cho việc phổ cập chữ Hán trong người Việt trở nên dễ dàng, tức đáp ứng yêu cầu dạy chữ Hán của các vương triều người Hán. Vì vậy chúng không còn lý do cưỡng chế dân ta phải học nghe/nói tiếng Trung Quốc.

Cách đọc chữ Hán như trên đã có tác dụng không ngờ là làm cho người Hán dù có cai trị Việt Nam bao lâu thì cũng không thể tiêu diệt nổi tiếng Việt và Hán hoá được dân tộc ta. Có thể là khi bắt đầu sáng tạo cách đọc ấy, tổ tiên ta chưa nghĩ tới điều đó, nhưng rốt cuộc sáng tạo xuất sắc này đã giúp dân tộc ta tránh được nguy cơ bị người Hán đồng hoá. Đây là một thành công vĩ đại!

Đáng tiếc là hiện không thấy có thư tịch nào ghi chép ai nghĩ ra và thời điểm nào xuất hiện cách đọc chữ Hán bằng âm/từ Hán-Việt. Có thể cho rằng sáng kiến đó ra đời khi chữ Hán bắt đầu vào nước ta, tức muộn nhất là khoảng thế kỷ 2 – 1 tr.CN.

Có ý kiến cho rằng cách đọc Hán-Việt bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán đời Đường, cụ thể là Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng hai thế kỷ 8, 9.

Nếu hiểu ý kiến này theo nghĩa đến đời Đường mới xuất hiện cách đọc Hán-Việt thì e rằng khó có thể giải đáp câu hỏi: vậy thì trong thời gian khoảng ngót 1000 năm trước đó người Việt đọc chữ Hán bằng cách nào? Đến đời Đường, người Hán đã thống trị Việt Nam được hơn 9 thế kỷ, quá thừa thời gian để họ hoàn toàn đồng hoá người Việt bằng văn hoá, ngôn ngữ, khi ấy tiếng Việt đã bị biến mất, sao còn có thể xuất hiện cách đọc Hán-Việt?

Phải chăng nên hiểu ý kiến trên theo nghĩa: đến thời Đường, cách đọc Hán-Việt được hoàn thiện nhờ học tập Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng thế kỷ 8 – 9.

************
Có thể kết luận: dân tộc Việt Nam tồn tại được và không bị đồng hoá sau hơn 1.000 năm chịu sự thống trị của một quốc gia liền kề có nền văn hoá lớn mạnh là nhờ đã phát huy bản lĩnh trí tuệ của mình, thể hiện ở chỗ sáng tạo được biện pháp đọc chữ Hán bằng tiếng Việt, qua đó đã vô hiệu hoá chủ trương đồng hoá ngôn ngữ của các triều đại phong kiến Trung Hoa.

Có những người Hán đã nhận ra bản lĩnh trí tuệ ấy của người Việt.

Năm 987, nhà Tống cử Lý Giác李覺 đi sứ sang Hoa Lư, Việt Nam, được hai vị Quốc sư Khuông Việt và Pháp Thuận đón tiếp, đàm phán các vấn đề quốc gia đại sự và hoạ thơ. Khi về nước, Lý Giác tặng vua Lê Đại Hành một bài thơ, trong có câu: “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu 天外有天應遠照”, nghĩa là: “Ngoài trời này còn có trời khác, nên nhìn thấy”. Nói cách khác, thế giới này đâu phải chỉ có một mặt trời Trung Hoa mà còn có mặt trời Việt Nam!

Câu thơ cho thấy Lý Giác đã bước đầu nhận ra bản lĩnh trí tuệ của người Việt. Đúng thế, tổ tiên ta thật vô cùng tài giỏi, nếu không thì còn đâu giang sơn tươi đẹp này!

Nguyễn Hải Hoành
là dịch giả và nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.
—————————
[1] Nói là “muộn nhất” vì còn có các quan điểm như: chữ Hán vào VN qua con đường giao thương hoặc truyền bá tôn giáo từ lâu trước khi nước ta bị Triệu Đà chiếm; VN đã có chữ viết từ đời Hùng Vương (Hoàng Hải Vân: Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động).
[2]宋代中越文学交流述论 có câu 黎嵩 “越鑑通考總論” viết : 趙佗 “建立學校,導之經義。由此已降,四百余年,頗有似類” .
[3] Bài 汉字名称的来由 (http://blog.sina.com.cn) và một số bài khác có viết: Từ  Hán tự  漢字xuất hiện sớm trong Bắc sử, quyển 9 [biên soạn xong năm 659]. 汉字一词早出自《北史》卷九本纪第九, “章宗一”:“十八年,封金源郡王.始习本朝语言小字, 及汉字经书,以进士完颜匡、司经徐孝美等侍读”. Từ Hán tự xuất hiện nhiều trong sách Kim sử 金史 (năm 1345) đời Nguyên. Ở đời nhà Thanh (1644-1911), thời kỳ đầu do chữ viết chính thức của chính quyền không phải là chữ Hán mà là chữ Mãn (满文) nên phải dùng tên gọi chữ Hán 漢字 để chỉ loại văn tự truyền thống của người Hán, nhằm phân biệt với chữ Mãn.
[4] Có ý kiến nói do thời bấy giờ thứ chữ đó được dùng để dạy dân ta học Nho giáo 儒教 nên dân ta gọi nó là chữ Nho. Nhưng Nho 儒với nghĩa “người có học” xuất hiện trước rất lâu, sau đó mới dùng chữ ấy vào từ Nho giáo để gọi học thuyết của Khổng Tử. Cùng lý do ấy, chữ Khổng có trước khi Khổng Tử ra đời.
[5] Khó có thể biết đó là âm tiếng địa phương nào ở TQ. Trong đó có những âm tiếng Quảng Đông, như nhất, nhì, shập, học chập khi đọc các chữ  一,二,十,學習 (âm Hán-Việt đọc nhất, nhị, thập, học tập).
[6] Thí dụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) 8 tuổi học chữ Nho, 13 tuổi văn hay chữ tốt, 24 tuổi đậu Giải Nguyên, 28 tuổi đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ. Phan Bội Châu (1867-1940) 6 tuổi học ba ngày đã thuộc lòng 1440 chữ Nho trong Tam Tự Kinh. Trần Gia Minh tác giả sách Huyền thoại Kim thiếp Vũ Môn 5-6 tuổi đã học chữ Nho truyền khẩu từ người ông mù loà.
[7] Do nhà Nho Đoàn Trung Còn sáng tác, là một bài vè dài, mỗi câu hai âm, đọc lên có vần điệu dễ nhớ.
[8] Năm 1867, G. Aubaret trong cuốn Grammaire annamite từng sai lầm nhận định: “Tiếng bình dân nói trong vương quốc An Nam là một phương ngữ của tiếng Trung Quốc” (trích dẫn theo Phạm Thị Kiều Ly trong “Ghi âm tiếng Việt bằng chữ Quốc ngữ”, sách “Tiếng Việt 6”, Nxb Tri Thức, 2015).
[9] Nguyễn Tài Cẩn : Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt.
[10] Dẫn theo Lê Quốc Trinh, con trai bà Quy và là người trực tiếp tham gia làm Bảng tra này.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [21] [22] [23] [24] [25] [26] [27] ... ›Trang sau »Trang cuối