Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [27] [28] [29] [30] [31] [32] [33] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH
PHAN RANG – XUÂN LỘC
[Phần 4]


DIỄN BIẾN CÁC TRẦN ĐÁNH


Các trận đánh tại thượng du miền Đông Nam Bộ


Một tuần sau khi Chiến dịch Tây Nguyên 1975 mở màn, Quân đoàn 4 Quân Giải phóng miền Nam mở các trận đánh trên hướng Tây Ninh - Bình Dương, tiếp tục những mục tiêu mà họ chưa đạt được vào ba năm trước. Tại đây, QLVNCH không còn tuyến phòng thủ liên hoàn như năm 1972 do không đủ binh lực và phương tiện chốt giữ. Mặc dù tuyến này không phải là hướng trọng điểm trong các hướng tiến công của Quân Giải phóng năm 1975 nhưng do vị trí tiếp giáp Sài Gòn từ hướng Tây Bắc nên những trận đánh tại miền Đông Nam Bộ trong tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1975 đã thu hút một phần lớn binh lực của Quân đoàn III QLVNCH, không cho các lực lượng này được rảnh rỗi để chi viện cho các hướng khác. Tại Tây Ninh, QLVNCH bố trí 1 sư đoàn bộ binh, (sư đoàn 25), 2 liên đoàn biệt động quân và 4 chi đoàn thiết giáp. Tại Bình Dương có 1 sư đoàn bộ binh (sư đoàn 5), 1 liên đoàn biệt động quân và 1 chi đoàn thiết giáp.

Bộ Tư lệnh quân đoàn 4 Quân Giải phóng quyết định chọn tuyến Dầu Tiếng - Chơn Thành là điểm yếu nhất trong các cứ điểm phòng thủ từ xa của Quân đoàn III - QLVNCH tại hướng Bắc Tây Bắc Sài Gòn. QLVNCH bố trí tại đây 4 tiểu đoàn bảo an (35, 304, 312, 352) với 2600 quân, 1 chi đoàn thiết giáp, 10 khẩu pháo 105 mm. Trung tâm phòng ngự của QLVNCH tại tuyến này là chi khu quân sự Dầu Tiếng nằm ở điểm tiếp giáp ba tỉnh Tây Ninh, Bình Long và Bình Dương. Khu vực này được cấu trúc thành cụm cứ điểm kiên cố gồm 47 đồn, gần 100 lô cốt với 2000 quân. Tại khu vực ngoại vi trên đường 239, Bến Củi, Suối Ông Hùng có 6 đồn, 11 lô cốt với 600 quân. Nhiệm vụ tấn công chi khu quân sự được Quân đoàn 4 giao cho sư đoàn 9 với 3 trung đoàn bộ binh, được tăng cường trung đoàn 16, tiểu đoàn 22 xe tăng (thiếu 1 đại đội), 1 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn cao xạ.

5 giờ sáng ngày 11 tháng 3, sư đoàn 9 nổ súng tấn công chi khu quân sự Dầu Tiếng. Pháo binh QLVNCH của chi khu và tại các căn cứ lân cận như Rừng Nần, Bàu Đồn, Chà Là đã chi viện cho lực lượng phòng thủ chi khu chặn được mũi tấn công chính của Sư đoàn 9 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong ngày 11 tháng 3. Chiều 11 tháng 3, tướng Lê Nguyên Khang điều chi đoàn 3 thiết đoàn 45 thuộc lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp từ Bàu Đồn theo đường 239 lên giải toả cho Dầu Tiếng nhưng bị trung đoàn 16 Quân Giải phóng phục kích chặn đánh tại Suối Ông Hùng, phải lui về Bàu Đồn. Các trận địa pháo của QLVNCH tại Bàu Đồn và Rừng Nần cũng bị tiểu đoàn pháo binh của sư đoàn 9 bắn kiềm chế.

Ngày 12 tháng 3, Quân Giải phóng tiếp tục tấn công, kết hợp với đột kích bằng bộ binh, có pháo binh và xe tăng yểm hộ với đặc công dùng thuốc nổ phá hầm ngầm cố thủ tại chỉ huy sở chi khu. Thiếu tá chi khu trưởng Võ Văn Quý dẫn số quân còn lại rút về Bàu Đồn. Lúc 9 giờ 40 phút cùng ngày, Quân Giải phóng làm chủ chi khu quân sự Trị Tâm (Dầu Tiếng). Ngày 13 tháng 3, trung đoàn 2 (sư đoàn 9) được tăng cường tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 3) cùng 1 đại đội xe tăng yểm trợ tấn công cụm phòng ngự Tam giác trên đường 239 và các đồn lẻ Vườn Chuối, Ngã ba Sắc, Cầu Tàu, Bến Củi và làm chủ trận địa sau ba giờ giao chiến. Mặc dù Bộ tham mưu Quân đoàn III QLVNCH đã có kế hoạch sử dụng 2 chiến đoàn của sư đoàn 25 có lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp tăng phái mở cuộc phản kích lấy lại Dầu Tiếng nhưng phải huỷ bỏ vì lệnh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu lui về giữ Truông Mít, Bầu Đồn, Tây Ninh.

Ngày 16 tháng 3, trước nguy cơ bị tiêu diệt, QLVNCH bỏ An Lộc; rút 2 liên đoàn biệt động quân và lực lượng của tiểu khu An Lộc về tăng cường cho lực lượng cố thủ tại Chơn Thành. Từ ngày 24 đến ngày 30 tháng 3, các trung đoàn 1 và 2 (sư đoàn 9 liên minh Quân Giải phóng) được phối thuộc 2 tiểu đoàn của tỉnh đội Bình Phước mở cuộc tấn công Chơn Thành lần thứ nhất nhưng bị đánh bật lại. Ngày 31 tháng 3, sau khi tập trung đầy đủ 3 trung đoàn bộ binh, được Bộ chỉ huy quân đoàn 4 tăng cường trung đoàn 273 (sư đoàn 341) và tiểu đoàn pháo binh gồm 15 khẩu, trong đó có 4 khẩu 130 mm, sư đoàn 9 bao vây và tiếp tục tập kích cụm cứ điểm Chơn Thành. QLVNCH điều 1 chi đoàn thuộc lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp lên giải vây cho Chơn Thành nhưng đã bị những lực lượng của trung đoàn 1, trung đoàn 2 chặn đứng trên đường số 13. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, lực lượng còn lại của liên đoàn 31 biệt động quân tại Chơn Thành đã mở đường máu rút sang phía Đông, lui về hậu cứ của chiến đoàn 315 tại Bàu Bàng. Sư đoàn 9 Quân Giải phóng đánh chiếm toàn bộ quận lỵ Chơn Thành ngày 2 tháng 4. 2134 sĩ quan, binh sĩ QLVNCH bị tiêu diệt, 472 người bị bắt, 16 máy bay các loại bị bắn rơi. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thu giữ 39 xe quân sự (trong đó có 8 xe tăng), gần 1000 súng các loại (trong đó có 5 khẩu pháo cỡ 105 và 155 mm); chiếm lĩnh hoàn toàn tỉnh Bình Long và tạo ra nhiều bàn đạp chiến thuật bao quanh cụm cứ điểm Xuân Lộc.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH
PHAN RANG – XUÂN LỘC
[Phần 5]


DIỄN BIẾN CÁC TRẦN ĐÁNH


Các trận đánh tại thượng du miền Đông Nam Bộ


Một tuần sau khi Chiến dịch Tây Nguyên 1975 mở màn, Quân đoàn 4 Quân Giải phóng miền Nam mở các trận đánh trên hướng Tây Ninh - Bình Dương, tiếp tục những mục tiêu mà họ chưa đạt được vào ba năm trước. Tại đây, QLVNCH không còn tuyến phòng thủ liên hoàn như năm 1972 do không đủ binh lực và phương tiện chốt giữ. Mặc dù tuyến này không phải là hướng trọng điểm trong các hướng tiến công của Quân Giải phóng năm 1975 nhưng do vị trí tiếp giáp Sài Gòn từ hướng Tây Bắc nên những trận đánh tại miền Đông Nam Bộ trong tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1975 đã thu hút một phần lớn binh lực của Quân đoàn III QLVNCH, không cho các lực lượng này được rảnh rỗi để chi viện cho các hướng khác. Tại Tây Ninh, QLVNCH bố trí 1 sư đoàn bộ binh, (sư đoàn 25), 2 liên đoàn biệt động quân và 4 chi đoàn thiết giáp. Tại Bình Dương có 1 sư đoàn bộ binh (sư đoàn 5), 1 liên đoàn biệt động quân và 1 chi đoàn thiết giáp.

Bộ Tư lệnh quân đoàn 4 Quân Giải phóng quyết định chọn tuyến Dầu Tiếng - Chơn Thành là điểm yếu nhất trong các cứ điểm phòng thủ từ xa của Quân đoàn III - QLVNCH tại hướng Bắc Tây Bắc Sài Gòn. QLVNCH bố trí tại đây 4 tiểu đoàn bảo an (35, 304, 312, 352) với 2600 quân, 1 chi đoàn thiết giáp, 10 khẩu pháo 105 mm. Trung tâm phòng ngự của QLVNCH tại tuyến này là chi khu quân sự Dầu Tiếng nằm ở điểm tiếp giáp ba tỉnh Tây Ninh, Bình Long và Bình Dương. Khu vực này được cấu trúc thành cụm cứ điểm kiên cố gồm 47 đồn, gần 100 lô cốt với 2000 quân. Tại khu vực ngoại vi trên đường 239, Bến Củi, Suối Ông Hùng có 6 đồn, 11 lô cốt với 600 quân. Nhiệm vụ tấn công chi khu quân sự được Quân đoàn 4 giao cho sư đoàn 9 với 3 trung đoàn bộ binh, được tăng cường trung đoàn 16, tiểu đoàn 22 xe tăng (thiếu 1 đại đội), 1 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn cao xạ.

5 giờ sáng ngày 11 tháng 3, sư đoàn 9 nổ súng tấn công chi khu quân sự Dầu Tiếng. Pháo binh QLVNCH của chi khu và tại các căn cứ lân cận như Rừng Nần, Bàu Đồn, Chà Là đã chi viện cho lực lượng phòng thủ chi khu chặn được mũi tấn công chính của Sư đoàn 9 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong ngày 11 tháng 3. Chiều 11 tháng 3, tướng Lê Nguyên Khang điều chi đoàn 3 thiết đoàn 45 thuộc lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp từ Bàu Đồn theo đường 239 lên giải toả cho Dầu Tiếng nhưng bị trung đoàn 16 Quân Giải phóng phục kích chặn đánh tại Suối Ông Hùng, phải lui về Bàu Đồn. Các trận địa pháo của QLVNCH tại Bàu Đồn và Rừng Nần cũng bị tiểu đoàn pháo binh của sư đoàn 9 bắn kiềm chế.

Ngày 12 tháng 3, Quân Giải phóng tiếp tục tấn công, kết hợp với đột kích bằng bộ binh, có pháo binh và xe tăng yểm hộ với đặc công dùng thuốc nổ phá hầm ngầm cố thủ tại chỉ huy sở chi khu. Thiếu tá chi khu trưởng Võ Văn Quý dẫn số quân còn lại rút về Bàu Đồn. Lúc 9 giờ 40 phút cùng ngày, Quân Giải phóng làm chủ chi khu quân sự Trị Tâm (Dầu Tiếng). Ngày 13 tháng 3, trung đoàn 2 (sư đoàn 9) được tăng cường tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 3) cùng 1 đại đội xe tăng yểm trợ tấn công cụm phòng ngự Tam giác trên đường 239 và các đồn lẻ Vườn Chuối, Ngã ba Sắc, Cầu Tàu, Bến Củi và làm chủ trận địa sau ba giờ giao chiến. Mặc dù Bộ tham mưu Quân đoàn III QLVNCH đã có kế hoạch sử dụng 2 chiến đoàn của sư đoàn 25 có lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp tăng phái mở cuộc phản kích lấy lại Dầu Tiếng nhưng phải huỷ bỏ vì lệnh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu lui về giữ Truông Mít, Bầu Đồn, Tây Ninh.

Ngày 16 tháng 3, trước nguy cơ bị tiêu diệt, QLVNCH bỏ An Lộc; rút 2 liên đoàn biệt động quân và lực lượng của tiểu khu An Lộc về tăng cường cho lực lượng cố thủ tại Chơn Thành. Từ ngày 24 đến ngày 30 tháng 3, các trung đoàn 1 và 2 (sư đoàn 9 liên minh Quân Giải phóng) được phối thuộc 2 tiểu đoàn của tỉnh đội Bình Phước mở cuộc tấn công Chơn Thành lần thứ nhất nhưng bị đánh bật lại. Ngày 31 tháng 3, sau khi tập trung đầy đủ 3 trung đoàn bộ binh, được Bộ chỉ huy quân đoàn 4 tăng cường trung đoàn 273 (sư đoàn 341) và tiểu đoàn pháo binh gồm 15 khẩu, trong đó có 4 khẩu 130 mm, sư đoàn 9 bao vây và tiếp tục tập kích cụm cứ điểm Chơn Thành. QLVNCH điều 1 chi đoàn thuộc lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp lên giải vây cho Chơn Thành nhưng đã bị những lực lượng của trung đoàn 1, trung đoàn 2 chặn đứng trên đường số 13. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, lực lượng còn lại của liên đoàn 31 biệt động quân tại Chơn Thành đã mở đường máu rút sang phía Đông, lui về hậu cứ của chiến đoàn 315 tại Bàu Bàng. Sư đoàn 9 Quân Giải phóng đánh chiếm toàn bộ quận lỵ Chơn Thành ngày 2 tháng 4. 2134 sĩ quan, binh sĩ QLVNCH bị tiêu diệt, 472 người bị bắt, 16 máy bay các loại bị bắn rơi. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thu giữ 39 xe quân sự (trong đó có 8 xe tăng), gần 1000 súng các loại (trong đó có 5 khẩu pháo cỡ 105 và 155 mm); chiếm lĩnh hoàn toàn tỉnh Bình Long và tạo ra nhiều bàn đạp chiến thuật bao quanh cụm cứ điểm Xuân Lộc.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH
PHAN RANG – XUÂN LỘC
[Phần 6]


MẶT TRẬN XUÂN LỘC

Ngay sau các trận đánh tại thượng du miền Đông Nam Bộ, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4, Quân đội Nhân dân Việt Nam có bốn ngày để chuẩn bị cho trận đánh tại quyết chiến điểm Xuân Lộc. Thiếu tướng Hoàng Cầm, tư lệnh quân đoàn sử dụng phương án 2 và trực tiếp chỉ huy cánh quân phía Bắc và Tây Bắc. Đại tá Bùi Cát Vũ, phó tư lệnh Quân đoàn chỉ huy cách quân Đông. Tại cụm cứ điểm Xuân Lộc, Chuẩn tướng Lê Minh Đảo và đại tá Nguyễn Văn Phúc, tỉnh trưởng Long Khánh cũng bố trí xong trận địa phòng thủ. Lê Minh Đảo tuyên bố với báo chí: “Tôi thề giữ vững Xuân Lộc. Bất chấp cộng sản tập trung bao nhiêu sư đoàn, tôi cũng đánh gục họ. Tôi sẽ đánh một trận oai hùng cho thế giới biết sức mạnh và tài ba của Quân lực Việt Nam Cộng hoà”.

5 giờ 40 phút sáng ngày 9 tháng 4 năm 1975, chiến sự tại Xuân Lộc mở màn với trận pháo kích gần một giờ của bốn cụm pháo binh chiến dịch thuộc Quân đoàn 4 - Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sư đoàn 341 từ hướng Bắc nhanh chóng đánh chiếm khu thông tin, khu cố vấn Hoa Kỳ và khu cảnh sát sau hơn một giờ công kích. Tuy nhiên, cách quân này vẫn phải dừng lại phòng ngự cơ động do bị Chiến đoàn 52 QLVNC phản kích vào bên sườn phía Nam. Ngược lại, cánh quân phía đông của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (sư đoàn 7) đã không chờ xe tăng đi cùng, phát triển tấn công trước nên bị thương vong nhiều. Đến 8 giờ, tám xe tăng của Quân đoàn 4 mới đến chi viện nhưng bộ binh không theo kịp để yểm hộ, bị QLVNCH bắn cháy ba chiếc gần ấp Bảo Chánh A. Đến xế trưa, các trung đoàn 209 (sư đoàn 7) và 270 (sư đoàn 341) chốt giữ vòng ngoài đã đánh bại cuộc phản kích giải toả Sở chỉ huy sư đoàn 18 và dinh tỉnh trưởng Long Khánh do các chiến đoàn 43 và 48 thực hiện tại Núi Thị, Tân Phong, Bảo Toàn, bắn cháy 7 xe tăng của QLVNCH tại ấp Bảo Toàn. Tại hướng Nam, sư đoàn 6 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phối hợp tấn công dọc theo quốc lộ 1 từ Hưng Nghĩa đến đèo Mẹ Bồng Con, chiếm ấp Trần Hưng Đạo, phá huỷ 11 xe tăng và xe bọc thép của Chiến đoàn 322 định ứng cứu cho Xuân Lộc từ phía Tây. Trong ngày 9 tháng 4, các chiến đoàn của Sư đoàn 18 QLVNCH tổ chức hàng chục trận phản kích vào các cánh quân của Quân đoàn 4 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, chặn được đà tiến quân của các lực lượng này, đặc biệt là trên hướng tấn công chủ yếu từ phía Tây Bắc.

Từ này 10 đến ngày 11 tháng 4, các trung đoàn 141, 165 và 207 (sư đoàn 7) có xe tăng yểm hộ tiếp tục tấn công hậu cứ Sư đoàn 18, chiến đoàn 52 và thiết đoàn 5 QLVNC nhưng cả ba mũi tấn công đều bị chặn đứng. Trên hướng Tây Bắc, các trung đoàn 226 và 270 (sư đoàn 341) tiếp tục phái đổi phó với các trận phản kích của các Chiến đoàn 322 và 43. Trên hướng phối hợp, trung đoàn 33 (sư đoàn 6) chiếm được một phần chi khu quân sự Dầu Giây. Trong hai ngày này, không quân VNCH từ Biên Hoà đã tổ chức hơn 200 phi vụ ném bom, yểm hộ cho sư đoàn 18 và các đơn vị QLVNCH đang phòng thủ tạị Xuân Lộc. Do các lực lượng phòng thủ Xuân lộc đã bị chia cắt thành ba cụm: Núi Thị, Dầu Giây và thị xã, đêm 11 tháng 4, tướng Lê Minh Đảo bí mật chuyển Sở chỉ huy sư đoàn 18 từ trong thị xã ra Chi khu Tân Phong. Đại tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng Long Khánh cũng di tản lên căn cứ Núi Thị.

Ngày 12 tháng 4 năm 1975. Bộ Tổng tham mưu QLVNCH quyết định tăng cường cho mặt trận Xuân Lộc nhiều đơn vị rút từ lực lượng tổng trù bị. Lữ đoàn dù 1 đổ bộ xuống đồn điền cao su Bảo Định. Hai lữ đoàn thuỷ quân lục chiến được điều đến phòng ngự phía Đông căn cứ Biên Hoà. Liên đoàn 33 biệt động quân, trung đoàn 8 bộ binh (sư đoàn 5), 8 tiểu đoàn pháo binh, 3 chi đoàn thiết giáp 3/15, 3/18, 3/22 được đưa đến khu vực Tân Phong, Dầu Giây. Sư đoàn 3 và sư đoàn 5 không quân tại Biên Hoà và Tân Sơn Nhất tổ chức mỗi ngày từ 80 đến 120 phi vụ yểm hộ cho cụm phòng thủ Xuân Lộc. 14 giờ ngày 12 tháng 4, Không lực VNCH đã sử dụng máy bay C-130 ném hai quả bom CBU-55 (bom Daisy Cutter), một trong những loại vũ khí phi hạt nhân có sức huỷ diệt hàng loạt xuống xã Xuân Vinh, sát thị xã Xuân Lộc, gây thương vong hơn 2000 quân nhân Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và dân thường.

Ngày 13 tháng 4, tướng Trần Văn Trà, Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đến Sở chỉ huy Quân đoàn 4. Tại đây, ông quyết định tạm dừng tấn công và thay đổi cách đánh, sử dụng sư đoàn 6 và một phần của sư đoàn 341 chuyển hướng tấn công chủ yếu sang phía Tây Nam cụm phòng thủ Xuân Lộc tại điểm yếu nhất là khu Dầu Giây, cắt đường số 2 đi Bà Rịa - Vũng Tàu, cắt đường 1 đoạn Xuân Lộc - Biên Hoà, tổ chức nhiều chốt chặn trên địa đoạn Trảng Bom - Biên Hoà. Bằng cách đó, có thể dùng “thế” để đánh chiếm Xuân Lộc. Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 cũng điều trung đoàn 95B tăng cường cho Quân đoàn 4 tại mặt trận Xuân Lộc. QLVNCH cho rằng họ đã đẩy lùi cuộc tấn công của đối phương, chấm dứt thời kỳ rút lui. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố “khả năng chiến đấu của quân lực Việt Nam cộng hoà đã được phục hồi” và “đủ mạnh để giữ vững chế độ”. Tướng Lê Minh Đảo cũng tuyên bố “Việt cộng muốn qua Long Khánh phải bước qua xác của Đảo này”.

Tuy nhiên, đến ngày 15 tháng 4 thì tình hình mặt trận đã diễn biến khác hẳn. Sáng 15 tháng 4, pháo binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không bắn phá thị xã Xuân Lộc mà nhằm vào sân bay Biên Hoà. Trong gần một ngày, sư đoàn 3 KQVNCH tại đây đã bị trúng bom không tổ chức được một phi vụ xuất kích nào. Để có đủ hoả lực yểm hộ cho Xuân Lộc từ trên không, Sư đoàn 4 không quân tại căn cứ Trà Nóc được huy động. Ngay trong ngày 15 tháng 4, Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B Quân Giải phóng miền Nam đã đánh tan Chiến đoàn 52 và Chi đoàn thiết giáp số 13 của QLVNCH tại Túc Trưng, Kiệm Tân, ngã ba Dầu Giây và căn cứ Nguyễn Thái Học, phá vỡ tuyến phòng thủ phía Tây Xuân Lộc. Toàn bộ chiến đoàn chỉ còn hơn 200 người sống sót. Trong hai ngày 16 và 17 tháng 4, Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn III - QLVNCH sử dụng Lữ đoàn thiết giáp số 3 và Chiến đoàn 8 (sư đoàn 5) với sự yểm hộ của gần 200 phi vụ ném bom và hơn 100 khẩu pháo tại các căn cứ Nước Trong, Bà Thức, Long Bình, Đại An phản kích theo đường số 1 nhằm giải toả ngã ba Dầu Giây nhưng đều bị các lực lượng của Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đẩy lùi về Bàu Cá. Trên các khu vực xung quanh thị xã Xuân Lộc, các chiến đoàn 43, 48 và tiểu đoàn dù 2 (lữ đoàn dù 1) QLVNCH liên tục bị tập kích và tiêu hao.

Từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 4, các tuyến phòng thủ của QLVNCH tại Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân liên tiếp bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phá vỡ. Các đơn vị phái đi trước của Cánh quân Duyên Hải của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (gồm Quân đoàn 2 và chủ lực khu 5) đã có mặt tại Rừng Lá, cách Xuân Lộc 10 km về phía Đông, các trục lộ giao thông quan trọng nối Xuân Lộc với các địa bàn xung quanh đều bị cắt đứt. Trước nguy cơ bị bao vây và tiêu diệt hoàn toàn, ngày 19 tháng 4, tướng Lê Minh Đảo điện cho Bộ Tổng tham mưu QLVNCH đề nghị rút khỏi Xuân Lộc và lập tức được chấp thuận với yêu cầu giữ bí mật tuyệt đối kế hoạch rút lui. Ngày 20 tháng 4, dưới trời mưa tầm tã, hơn 200 xe quân sự các loại vận chuyển những đơn vị QLVNCH còn lại tại Xuân Lộc di chuyển theo liên tỉnh lộ 2 hướng đi Bà Rịa rồi theo đường mòn vòng về Biên Hoà. Những đơn vị này đã bị một tiểu đoàn của tỉnh đội Long Khánh (Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) truy kích và tiêu diệt toán quân rút sau cùng. Viên đại tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng Long Khánh và trung tá Lê Quang Định phó tỉnh trưởng tử trận. “Cánh cửa thép” Xuân Lộc bị đập vỡ. Trận đánh có tổ chức nhất của QLVNCH trước cửa ngõ Sài Gòn tháng 4 năm 1975 kết thúc với sự rút lui của các đơn vị tổng trù bị cuối cùng khiến Sài Gòn không còn một lực lượng nào đáng kể để mặc cả với đối phương. Theo Frank Snepp, đại tướng Cao Văn Viên phải bất đắc dĩ mà công nhận rằng: quân đội không còn chiến đấu được nữa và không còn hy vọng gì thắng trận.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH
PHAN RANG – XUÂN LỘC
[Phần 7]


MẶT TRẬN PHAN RANG

Do phải hành quân trên chặng đường dài hơn 400 km từ Quảng Nam vào nên đến sáng 13 tháng 4, các chi đội phái đi trước của cánh quân Duyên hải (Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) gồm sư đoàn 3 Sao Vàng và trung đoàn bộ binh 25 (được điều từ Quân đoàn 3 sang phối thuộc) mới có mặt tại phía Nam Cam Ranh. Bộ tư lệnh cánh quân Duyên Hải giao cho Sư đoàn này nhiệm vụ đánh chiến Phan Rang trong hành tiến. Việc chuẩn bị lực lượng chỉ trong một ngày.

Sáng ngày 14 tháng 4, sư đoàn 3 Sao Vàng bắt đầu đột phá tuyến phòng thủ tại hẻm Du Long do Trung đoàn 5 (sư đoàn 2) và Liên đoàn 31 biệt động quân QLVNCH trấn giữ. Để hạn chế thương vong, Bộ tư lệnh sư đoàn 3 chỉ dùng trung đoàn 2 đánh vỗ mặt, điều trung đoàn 52 luôn sâu và phía Nam, bất ngờ đánh chiếm hai điểm chốt tại ấp Bà Râu và cảng Ninh Chữ; đến buổi chiều cùng ngày thì khép được vòng vây cánh quân của QLVNCH ở phía Bắc Phan Rang tại Bà Râu, Du Long, Kiền Kiền, Ba Tháp, Suối Đá. Trên hướng Tây Bắc, trung đoàn 25 đánh bật các đợt phản kích của trung đoàn 4, sư đoàn 2 tại đèo Ngoạn Mục, đẩy đơn vị này phải lùi khỏi tuyến phòng ngự ngoại vi Phan Rang rút về thị xã. Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, điều 8 máy bay A-37 ném bom phá sập cầu Kiền Kiền và dùng trực thăng đổ thêm quân xuống tuyến phòng thủ Kiền Kiền - Ba Tháp, tạm thời chặn được mũi tấn công của Sư đoàn 3 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở hướng này.

Ngày 15 tháng 4, Sư đoàn 3 Sao Vàng một mặt vẫn sử dụng trung đoàn 2 và trung đoàn 52 phá vỡ tuyến phòng ngự phía Bắc Phan Rang tại Kiền Kiền và Ba Tháp; mặt khác tiếp tục điều động từ lực lượng dự bị của mình các trung đoàn 12 và 141 vượt đường số 1 thực hiện mũi vu hồi thọc sâu thứ hai, tấn công áp sát sân bay Thành Sơn, vây chặt thi xã Phan Rang. Tướng Phạm Ngọc Sang tiếp tục lệnh cho sư đoàn 6 không quân ném bom đánh sập tất cả các cầu ở phía Bắc Du Long nhưng vẫn không ngăn cản được các đơn vị xe tăng phái đi trước của Lữ đoàn 203 - Quân đoàn 2 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiếp cận Phan Rang. Trưa 15 tháng 4, tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh Quân đoàn III và tổng trưởng quốc phòng Trần Văn Đôn ra thị sát Phan Rang trong một chuyến đi chớp nhoáng. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi xin tăng viện một tiểu đoàn dù nhưng được trả lời rằng quân dù hiện đang tăng phái cho Xuân Lộc, không còn đơn vị nào để điều cho Phan Rang. Tối hôm đó, các tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm Ngọc Sang, Trần Văn Nhựt (tư lệnh sư đoàn 2) và các đại tá Lê Quang Lưỡng (chỉ huy quân dù), Nguyễn Văn Biết (chỉ huy biện động quân) bàn định một kế hoạch phản công quy mô vào sáng hôm sau để khôi phục tình hình ở Du Long.

Ngay khi tiếp cận chiến trường, Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 điều động thêm trung đoàn bộ binh 101 (sư đoàn 325) và một tiểu đoàn xe tăng thuộc lữ đoàn 203 tham chiến. 5 giờ sáng ngày 16 tháng 4, tất cả các cánh quân của sư đoàn 3 và trung đoàn 25 tấn công hợp điểm vào trung tâm thị xã. Chưa kịp ra lệnh phản công, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi đã nhận được tin điện khẩn cấp từ Liên đoàn 31 biệt động quân đóng tại Hội Diên, Xuân An báo về: “Xe tăng cộng sản vượt qua sông suối đang tràn qua Du Long vào Phan Rang”. Tướng Sang ra lệnh cho tất cả các máy bay còn bay được lập tức xuất kích ngăn chặn xe tăng đối phương. Tuy nhiên, ngay sau đó, một trận pháo kích mạnh của pháo binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phá hỏng đường băng sân bay Thành Sơn. Các máy bay đã cất cánh phải quay về Biên Hoà sau khi thực hiện phi vụ. Lúc 9 giờ 30 phút cùng ngày, trung đoàn 101 đánh chiếm dinh tỉnh trưởng, bắt sống đại tá Nguyễn Văn Tư, tỉnh trưởng Ninh Thuận. Lúc 10 giờ cùng ngày, trung đoàn 25 làm chủ sân bay Thành Sơn, bắt sống trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi - Phó tư lệnh Quân đoàn III và chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, chỉ huy sư đoàn 6 không quân QLVNCH. “Lá chắn Phan Rang” của QLVNCH đã chịu chung một số phận với “Lá chắn Xuân Lộc”.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH
PHAN RANG – XUÂN LỘC
[Phần 8]


KẾT QUẢ CHIẾN DỊCH


Kết quả chính trị - quân sự


Với bốn tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Hàm Tân và Long Khánh vừa chiếm được, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã kiểm soát 20 tỉnh, chiếm hai phần ba lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Không chỉ mất hai vị trí phòng thủ then chốt là Xuân Lộc và Phan Rang, QLVNCH còn mất nốt những lực lượng trù bị chiến lược cuối cùng. Điều đó nói lên thế và lực của quân đội này đã hoàn toàn suy sụp và khả năng Sài Gòn bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh chiếm chỉ còn là vấn đề của thời gian có thể tính từng ngày. Sáng 18 tháng 4, tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh Quân đoàn III đã báo cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu biết tin thua trận, quân đội đang tán loạn và chỉ còn có thể chống đỡ được vài ba ngày. Còn Văn phòng CIA tại Sài Gòn đã đánh một bức điện về Trung tâm CIA với nội dung: “Mọi dấu hiệu cho thấy Cộng sản đã thay đổi kế hoạch thời gian biểu của họ. Có thể họ sẽ tiến công vào khu vực Sài Gòn khoảng giữa tháng Tư. Họ cũng chẳng nhắc đến thương lượng và đả động đến một chính phủ ba thành phần nữa”.

Hai cuộc thất trận liên tiếp ở Phan Rang và Xuân Lộc đã gây ra một cơn địa chấn chính trị tại Sài Gòn. Sáng 18 tháng 4, tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã tiếp một số nhân vật ôn hoà. Họ đều nói cho Nguyễn Văn Thiệu biết rằng thời của ông ta đã hết và họ mong muốn một sự rút lui êm ả. Trong khi đó, tại thượng viện và hạ viện, những người đối lập không giấu giếm ý muốn lấy thủ cấp chính trị của Nguyễn Văn Thiệu. Kể cả phe cực hữu cũng muốn Nguyễn Văn Thiệu phải ra đi. Theo họ, ông ta phải chịu trách nhiệm vì những thất bại quân sự quá chóng vánh vừa qua.

Cũng trong những ngày cuối cùng này, tại cả thượng nghị viện và hạ nghị viện Sài Gòn đều nổ ra những cuộc tranh cãi dữ dội về đối sách của VNCH. Phe hữu kêu gọi phải chiến đấu đến cùng và tin rằng người Mỹ sẽ viện trợ tất cả những gì cần để chống đỡ, để ổn định lại tình hình và thương lượng với cộng sản trên thế mạnh. Phe ôn hoà thì phê phán những người yêu cầu chiến đấu đến cùng là thiếu đầu óc thực tế. Họ cho rằng nếu đã phải thương lượng thì nên thương lượng ngay để tránh một thất bại khủng khiếp, thất bại hoàn toàn cả về quân sự và chính trị. Cho dù cuộc tranh cãi vô vọng ấy vẫn tiếp diễn thì cũng đã có đến sáu nhóm muốn loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu khỏi chức vụ Tổng thống Việt Nam Cộng hoà vì họ đều biết Nguyễn Văn Thiệu là người mà “phía bên kia” không bao giờ chấp nhận nói chuyện:

Nhóm quân nhân cao cấp do Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu.
Nhóm chính trị cấp tiến do tướng Dương Văn Minh làm thủ lĩnh.
Nhóm Phật giáo do Thượng toạ Thích Trí Quang lãnh đạo.
Nhóm Thiên chúa giáo do Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình lãnh đạo.
Nhóm Phong trào cứu nước, cứu vãn hoà bình, đấu tranh chống tham nhũng do linh mục Trần Hữu Thanh lãnh đạo.
Nhóm các lực lượng hoà hợp dân tộc do Thượng nghị sĩ Vũ Văn Mẫu đứng đầu.

Tất cả các áp lực trên cùng với sự thua trận về quân sự đã dẫn đến kết quả là 19 giờ tối 21 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức sau 10 năm ngồi ghế tổng thống Việt Nam Cộng hoà. Ngay sau đó, Thượng nghị viện đã chỉ định ông Trần Văn Hương giữ chúc vụ này với một nhiệm vụ duy nhất: bằng mọi cách, phải mở được một cuộc đàm phán với đối phương. Nhiều người trách cứ Thiệu là đã ra đi quá muộn, để tình hình quá nát đến mức không còn có thể cứu với được gì. Tuy nhiên, đó không chỉ là lỗi của riêng ông ta. Người muốn giữ Nguyễn Văn Thiệu thêm một thời gian nữa không phải ai khác mà chính là đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin.

Phản ứng của quốc tế

Thắng lợi cùng lúc tại hai mặt trận Xuân Lộc và Phan Rang đã làm cho vai trò của hai đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam trong Ban Liên hợp quân sự bốn bên đóng tại Tân Sơn Nhất trở nên quan trọng. Tại buổi họp thường kỳ vào sáng thứ Bảy (19 tháng 4) ông Võ Đông Giang, đại diện cho Chính phủ Cách mạng lâm thời không những yêu cầu Nguyễn Văn Thiệu phải ra đi mà còn yêu cầu cả đại sứ Martin và các cố vấn quân sự Hoa Kỳ đang mặc thường phục cũng phải ra đi nhưng thường dân Hoa Kỳ thì không bị coi là đồng minh với VNCH. Người đứng đầu CIA tại Sài Gòn, ông Polga thì lại cho đó là tín hiệu cho việc duy trì sự có mặt tối thiểu của Hoa Kỳ cho dù có điều gì xảy ra đi nữa. Và thế là phía Hoa Kỳ bắt đầu một cuộc vận động để Thiệu ra đi càng nhanh càng tốt nhằm lấy chỗ cho một người có thể đứng ra nói chuyện được với đối phương. Trái với những gì Polga đã làm trước đây là tô hồng tình hình để mong có được sự hậu thuẫn từ Washington và động viên Thiệu phần nào; lần này Polga ra lệnh cho cấp dưới làm báo cáo thật đen tối để thuyết phục Thiệu rút lui.

Trong ngày 20 tháng 4, đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin có hai cuộc gặp quan trọng. Buổi sáng, ông gặp Nguyễn Văn Thiệu và nói rõ rằng người Việt Nam cho rằng Nguyễn Văn Thiệu phải chịu trách nhiệm về tình hình này; rằng các tướng lĩnh đều cho rằng phòng thủ là tuyệt vọng trừ phi có được một sự trì hoãn được bắt đầu bằng một cuộc thương lượng với “phía bên kia”. Mà để có được điều đó thì ông Thiệu phải ra đi. Đến lúc này, Nguyễn Văn Thiệu vẫn khăng khăng đòi phía Hoa Kỳ đưa không quân can thiệp nhưng ý kiến này đã bị đại sứ Martin bác bỏ thẳng thừng. Martin hứa với Nguyễn Văn Thiệu sẽ bảo đảm cho sự ra đi ấy an toàn, trọn vẹn nếu Thiệu chấp nhận. Buổi chiều, đại sứ Martin gặp đại sứ Cộng hoà Pháp Merillon và đại sứ một số nước đồng minh của Hoa Kỳ để vận động họ ủng hộ giải pháp ngừng chiến để thương lượng. Một cuộc vận động ngoại giao lập tức diễn ra ở một số thủ đô của các nước lớn trên thế giới và đại sứ Martin hy vọng bằng cách này, có thể giúp VNCH có thời gian ổn định tình hình, giữ được phần đất còn lại trong một cuộc mặc cả chính trị.

Tuy nhiên, thời gian không còn nhiều. Và điều oái oăm là chính giới Sài Gòn khi đó lại chọn Trần Văn Hương, người cùng phe với Nguyễn Văn Thiệu vào ghế tổng thống. Mặc dù ngay khi nhậm chức, ông này kêu gọi: “chấp thuận ngừng bắn, lập một hội đồng quốc gia ba thành phần trong đó có sự tham gia của cộng sản”; mặc dù Bộ trưởng thông tin VNCH Phan Hoà Hiệp đã đến Tân Sơn Nhất gặp hai phái đoàn của “phía bên kia” để thông báo lệnh của chính phủ VNCH thả một số tù chính trị, đồng thời cử một người trung gian ra Hà Nội để “trao đổi quan điểm” nhưng VNDCCH đã bác bỏ tất cả những đề nghị đó. Ngày 23 tháng 4, Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam truyền đi một bài xã luận, trong đó nêu rõ rằng đây là sự duy trì tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu mà không có Thiệu; đồng thời nói rõ thời hạn rút các cố vấn Mỹ đã sắp cạn, có thể chỉ còn vài ba ngày, thậm chí là 24 giờ tới. Tiếng nổ của những trái hoả tiễn và đạn pháo 130 mm của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nã vào sân bay Tân Sơn Nhất sáng sớm ngày 24 tháng 4 năm 1975 đã chứng tỏ Hà Nội không nói suông. Tuy nhiên, cả đại sứ Hoa Kỳ Martin và đại sứ Pháp Merillon vẫn bám vào một niềm tin vô vọng là cho đến phút cuối cùng, Bắc Kinh sẽ lên tiếng để chặn tay Hà Nội trước cửa ngõ Sài Gòn, để cho VNCH tiếp tục tồn tại.

WIKIPEDIA
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
[Phần 1]



Chiến dịch Hồ Chí Minh, tên nguyên thuỷ là Chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và cũng là chiến dịch cuối cùng của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Đây cũng là chiến dịch quân sự có thời gian diễn biến ngắn nhất trong Chiến tranh Việt Nam, diễn ra từ ngày 26 tháng 4 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại Sài Gòn và kéo theo các cuộc nổi dậy vũ trang của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tại Đồng bằng sông Cửu Long trong hai ngày 1 và 2 tháng 5. Chiến dịch này dẫn đến kết quả là chấm dứt hoàn toàn sự chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự giữa hai miền Nam – Bắc của Việt Nam sau 21 năm, đưa đến việc thống nhất xã hội, chế độ chính trị, dân cư và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam trên đất liền, vùng lãnh hải, vùng trời và một số hải đảo.

HOÀN CẢNH RA ĐỜI


Nguồn gốc tên gọi Chiến dịch Hồ Chí Minh


Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tán thành đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn địa bàn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược, xin ý kiến Bộ Chính trị và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào Nam chỉ đạo đánh đòn “điểm huyệt” vào hệ thống phòng ngự của Việt Nam Cộng hoà tại Buôn Mê Thuột. Chính ông nhân đà thắng trận Buôn Ma Thuột, trực tiếp ra lệnh Trung tướng Lê Trọng Tấn gấp rút giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày. Chính ông đề xuất và ra quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh mà trong đó Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh; Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh và Trần Văn Trà làm Phó Tư lệnh, chỉ huy 5 cánh quân với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn. Mệnh lệnh nổi tiếng của ông chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh là:

Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng
Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Ngày 8 tháng 4 năm 1975, tại Lộc Ninh, Bộ Chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn Gia Định được thành lập với thành phần: Tư lệnh: Đại tướng Văn Tiến Dũng, Chính uỷ: Phạm Hùng, các Phó Tư lệnh: Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Đinh Đức Thiện, Quyền Tham mưu trưởng: Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, sau đó bổ sung Trung tướng Lê Trọng Tấn làm Phó Tư lệnh và Trung tướng Lê Quang Hoà làm Phó Chính uỷ kiêm Chủ nhiệm Chính trị. Có hai nhân vật lãnh đạo không phải là quân nhân tham gia là các ông Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt.[cần dẫn nguồn] Ông Nguyễn Văn Linh được giao phụ trách công tác phát động quần chúng nổi dậy trong thành phố. Ông Võ Văn Kiệt được giao phụ trách công tác tiếp quản các cơ sở kinh tế, kỹ thuật sau khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm được thành phố. Các thành viên dự hội nghị đã nhất trí đề nghị Bộ Chính trị cho lấy tên gọi “Chiến dịch Hồ Chí Minh” thay cho tên gọi “Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định”. Ngày 14 tháng 4, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam gửi Bức điện số 37/TK cho Bộ Chỉ huy Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định:

Đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh      
Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
[Phần 2]


Tình thế trước cuộc tấn công

Do kết quả của Chiến dịch Phan Rang – Xuân Lộc và các trận tấn công của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại đồng bằng sông Cửu Long, đến ngày 25 tháng 4 năm 1975, Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã mất hầu hết các vị trí then chốt trong tuyến phòng thủ từ xa quanh Sài Gòn. Thành phố lúc này trở thành một ốc đảo chỉ còn giao lưu với bên ngoài bằng đường không. Tuy nhiên, đến ngày 26 tháng 4, các hãng hàng không nước ngoài đã đổi hướng tất cả các chuyến bay quá cảnh Tân Sơn Nhất và huỷ bỏ hầu hết các chuyến bay đến và đi từ Sài Gòn. Đại sứ quán các nước lần lượt đóng cửa, hạ cờ. Theo mô tả của nhà báo Pháp Paul Drayfrus, thành phố này đã gần như điên loạn và đang chứng kiến sự kết thúc của một chế độ.

Ngay khi sắp sửa phải rời đi khỏi Sài Gòn, CIA cũng vẫn không buông tha Việt Nam. Ngày 25 tháng 4, một đài phát thanh bí mật của CIA giả danh Đài Phát thanh Giải phóng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đặt tại Okinawa đã tung ra một tin thất thiệt là có một cuộc đảo chính vừa xảy ra tại Hà Nội và ba sư đoàn Quân Giải phóng đã phải quay lại miền Bắc. Nhưng chính những người của CIA tại Sài Gòn khi đó cũng nhận định rằng đây là một trò bịp tồi và phần lớn người Sài Gòn đều cho rằng đó là một tin ngớ ngẩn và rằng mọi cố gắng nhằm lung lạc ý chí của đối phương ngay trước cửa ngõ Sài Gòn đều là những cố gắng vô ích, làm trò cười cho thiên hạ. Trên thực tế, vào đầu năm 1973 đúng là có ba sư đoàn của Hà Nội bị tổn thất nặng sau chiến cuộc năm 1972 và phải rút ra bắc an dưỡng. Nhưng họ đã quay lại chiến trường vào cuối năm 1974 với đội hình được trang bị đầy đủ.

Do sức ép lớn từ các tướng dưới quyền như Trần Văn Đôn, Cao Văn Viên, Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, Bộ trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Hảo, Tổng thống Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu buộc phải từ chức vào ngày 21 tháng 4 năm 1975. Khi từ chức, Nguyễn Văn Thiệu đã xuất hiện trên truyền hình phát biểu suốt 3 giờ đồng hồ để trách móc việc thoái thác trách nhiệm của chính phủ Mỹ. Ông Thiệu đổ lỗi thất bại là do người Mỹ bằng những lời lẽ nửa tức giận, nửa thách thức: “Mỹ đánh không lại Cộng sản nên bỏ mặc Việt Nam cộng hoà đánh một mình thì làm sao ăn nổi. Có giỏi thì Mỹ vô đây lần nữa…”. Ông Thiệu lên án thẳng Hoa Kỳ là “một đồng minh vô nhân đạo với những hành động vô nhân đạo.”

Cũng trong bài diễn văn từ chức, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố mạnh mẽ rằng ông ta sẽ tiếp tục cầm súng chiến đấu: “Dù mất một tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, quân đội vẫn còn trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kề bên anh em chiến sĩ...”. Nhưng những tuyên bố đó đã không được Nguyễn Văn Thiệu thực hiện. Chỉ 4 ngày sau, Nguyễn Văn Thiệu đã bí mật lên máy bay thoát khỏi Sài Gòn vào đêm ngày 25/4/1975. Cuộc ra đi của Nguyễn Văn Thiệu diễn ra bí mật trong đêm tối, dưới sự sắp đặt của Thomas Polgar – Trưởng chi nhánh CIA ở Sài Gòn.

Trong một nỗ lực cuối cùng để mở được cuộc nói chuyện với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, cho dù kết quả là rất mong manh, ngày 28 tháng 4, hai viện của Quốc hội Việt Nam Cộng hoà đã “mời” Tổng thống Trần Văn Hương từ nhiệm sau một tuần nắm giữ chức vụ và đưa tướng Dương Văn Minh, một người chịu ảnh hưởng của Pháp và là tác giả chủ chốt của cuộc đảo chính lật đổ anh em Diệm – Nhu ngày 3 tháng 11 năm 1963 lên ghế tổng thống. Họ cho rằng với sự giúp đỡ và vận động của Đại sứ Pháp tại Sài Gòn Jean Marie Merillon và người phó của ông ta là Vanussème, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam sẽ chấp nhận thương lượng.

Tướng Minh cho biết “người Pháp cho rằng có một cường quốc nào đó không muốn cho một Việt Nam thống nhất trở thành hùng cường nên họ có thể ngăn chặn thắng lợi của Hà Nội”. Ông ta cũng tin rằng “Hà Nội chưa chắc đã có một bộ máy hành chính để quản lý toàn quốc nên họ có thể sẵn sàng chấp nhận một chế độ quá độ”. Tuy nhiên, đến chiều tối ngày 28 tháng 4 thì tất cả hy vọng vào những lá bài ngoại giao cuối cùng đều tan vỡ khi những loạt đạn 130 mm của trung đoàn pháo binh 45 (Đoàn Tất Thắng - Quân Giải phóng) đặt tại trận địa Nhơn Trạch nã cấp tập vào Sân bay Tân Sơn Nhất ngay sau trận ném bom của phi đội A-37 do Nguyễn Thành Trung dẫn đường. Ba “sứ giả” do tổng thống Dương Văn Minh phái đi đàm phán với đối phương về một giải pháp ngừng bắn đã phải ngủ đêm tại trụ sở của hai phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam trong Ban Liên hiệp quân sự bốn bên tại Trại Davis cạnh sân bay Tân Sơn Nhất.

Cùng lúc đó, tại Hội nghị La Celle Saint Cloud, phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tuyên bố nội các Trần Văn Hương bản chất là nội các Nguyễn Văn Thiệu nhưng không có Nguyễn Văn Thiệu nên họ tiếp tục từ chối đàm phán với Việt Nam Cộng hoà. Họ chỉ đàm phán khi toàn bộ nội các của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu phải ra đi. Trước đó, trong tuyên bố từ chức của mình, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn cương quyết không đàm phán với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Để tiếp tục nối lại đàm phán, Dương Văn Minh cử con trai tới lâu đài La Celle Saint Cloud để thông báo phái đoàn Cộng hoà miền Nam Việt Nam rằng nếu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam chấp nhận chính quyền Dương Văn Minh thì Việt Nam Cộng hoà sẽ ngừng bắn ngay để tiến hành đàm phán nhưng chính quyền Trần Văn Hương lại cử tướng Nguyễn Khánh sang Hoa Kỳ cầu viện. Do đó, phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tiếp tục từ chối đàm phán. Tới 28/4/1975, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố sẵn sàng đàm phán nhưng lúc này Sài Gòn đã hoàn toàn bị bao vây, phía Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tuyên bố dành cho Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà một ngày để di tản. Ngày 30/04/1975, Việt Nam Cộng hoà chính thức đầu hàng vô điều kiện Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
[Phần 3]


BINH LỰC VÀ PHƯƠNG ÁN TÁC CHIẾN CỦA HAI BÊN


QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM

Quần chúng nhân dân
Song song với tổng tấn công của bộ đội chủ lực, Chiến dịch còn được thực hiện với quá trình nổi dậy của quần chúng nhân dân. Quá trình nổi dậy của quần chúng nhân dân đã diễn ra sôi nổi và được chuẩn bị từ sớm. Ngay từ cuối năm 1974, Trung ương Cục và Quân Giải phóng đã có các biện pháp chính trị để chuẩn bị cho quần chúng tiến hành nổi dậy, đặc biệt đã có trên 40.000 người tham gia quá trình nổi dậy với 7.000 người công khai. Các biện pháp đấu tranh bao gồm: ra đường phố làm công tác địch vận, phổ biến lôi kéo, tranh thủ hù doạ đối với lực lượng bảo an tại chỗ của VNCH, thúc đẩy binh sĩ vứt bỏ vũ khí, cởi bỏ trang phục, rút khỏi trụ sở, đồn bốt, về nhà hoặc tháo chạy, ẩn náu... Sau khi Quân Giải phóng tiến vào tiếp quản các đô thị, quần chúng tiến hành dẫn đường hoặc chở bộ đội, bảo vệ nhà máy xí nghiệp, kho bãi, nhà ga bến cảng, thu các giấy tờ, hồ sơ, hạ cờ VNCH kéo cờ Mặt trận, cử đại diện chính quyền cách mạng...

Hướng Bắc

Quân đoàn 1 gồm các Sư đoàn bộ binh 312 - Sư đoàn trưởng Nguyễn Chuông (sư đoàn Chiến Thắng), 320B - Sư đoàn trưởng Lưu Bá Xảo (F390); Trung đoàn pháo binh 45 (Đoàn Tất Thắng); Lữ đoàn tăng thiết giáp 202; Sư đoàn phòng không 367; Lữ đoàn công binh 299; được tăng cường Lữ đoàn pháo binh 38 (Đoàn Bông Lau), Trung đoàn tên lửa phòng không 236 (Đoàn Sông Đà), ba trung đoàn công binh 239, 259, 279; một trung đoàn phòng không hỗn hợp, ba tiểu đoàn pháo binh độc lập rút từ Bộ Tư lệnh pháo binh. Tổng quân số 31.227 người; 778 xe vận tải, 44 xe tăng; 36 khẩu pháo 130 mm, 105 mm và 75 mm; 120 khẩu cao xạ 57 mm và 37 mm; 9 xuồng máy, 2 ca nô, 12 xe công binh chuyên dụng.

Tư lệnh: Thiếu tướng Nguyễn Hoà
Chính uỷ: Thiếu tướng Hoàng Minh Thi

Nhiệm vụ của Quân đoàn 1 là bao vây tiêu diệt đối phương ở Phú Lợi, Bến Cát, Bình Dương, Lai Khê, Tân Uyên; ngăn chặn Sư đoàn 5 Quân lực Việt Nam Cộng hoà rút về nội đô và vô hiệu hoá đơn vị này; tấn công đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà, các bộ tư lệnh binh chủng ở Gò Vấp, Bình Thạnh; tổ chức một lực lượng tấn công hợp điểm với các quân đoàn khác tại Dinh Độc Lập. Do phải hành quân gấp từ miền Bắc vào bằng mọi phương tiện thuỷ, bộ và đường không. Quân đoàn 1 bắt đầu tấn công chậm một ngày so với các đơn vị khác.

Hướng Đông Nam

Quân đoàn 2 ban đầu gồm các Sư đoàn bộ binh 325 – Sư đoàn trưởng Phạm Minh Tâm (Trị Thiên), 304 – Sư đoàn trưởng Nguyễn Ân (đoàn Vinh Quang). Lữ đoàn pháo binh 164; Lữ đoàn tăng thiết giáp 203; Sư đoàn phòng không 673; Lữ đoàn công binh 219; Trung đoàn đặc công 116. Tổng số xe chở hàng, chở người của Quân đoàn 2 lên tới 2.267 chiếc, Trong đó có 54 xe tăng, 35 xe thiết giáp, 223 xe kéo pháo, 87 khẩu pháo 130 mm và 105 mm; 136 pháo cao xạ. Do được phối thuộc Sư đoàn 3 - Sư đoàn trưởng Trần Bá Khuê (Đoàn Sao Vàng) từ Quân khu 5 và một số đơn vị rút từ Quân khu 4, tổng quân số của Quân đoàn lên đến hơn 40.000 người (trước đó là 32.418 người).[27][28]. Sư đoàn 324 (Đoàn Ngự Bình) ở lại bảo vệ Huế –Đà Nẵng.

Tư lệnh: Thiếu tướng Nguyễn Hữu An
Chính uỷ: Thiếu tướng Lê Linh

Quân đoàn 2 được giao nhiệm vụ tiến công trên chính diện rộng 86 km với chiều sâu nhiệm vụ từ 68 đến 70 km.[29] Nhiệm vụ ban đầu của quân đoàn là đánh chiếm căn cứ Nước Trong, chi khu Long Bình, căn cứ Long Bình, chi khu Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ, cảng và bến phà Cát Lái, chi khu Đức Trạch, pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất, đánh chiếm Vũng Tàu, thị xã Bà Rịa, quận 9 và quận 4 Sài Gòn. Tổ chức lực lượng thọc sâu đánh chiếm quận 1 và quận 3, hợp điểm tại Dinh Độc Lập.[30]

Hướng Tây Bắc

Quân đoàn 3 gồm các Sư đoàn bộ binh 316 - Sư đoàn trưởng Đàm Văn Nguỵ (sư đoàn Bông Lau), 320A - Sư đoàn trưởng Bùi Đình Hoè (sư đoàn Đồng Bằng), 10 - Sư đoàn trưởng Đoàn Hồng Sơn (sư đoàn Đắktô); Trung đoàn đặc công 198 (đoàn đặc công hậu cứ); hai Trung đoàn pháo mặt đất 40 và 575 (đoàn Anh Dũng); Trung đoàn xe tăng 273 (đoàn Sơn Lâm); Các Trung đoàn phòng không hỗn hợp 234 (đoàn Tam Đảo), 593 (mới bổ sung) và 232 (chuyển thuộc từ Đoàn 559); hai Trung đoàn công binh 7 (Đoàn Hùng Vương); 575 (chuyển thuộc từ Đoàn 559); trung đoàn thông tin 29; các trung đoàn Gia Định 1 và 2. Tổng quân số 47.400 người, 54 xe tăng, 64 xe bọc thép, gần 100 khẩu pháo 130 mm, 105 mm và hoả tiễn H12, trên 250 khẩu cối từ 61 mm đến 120 mm, 110 pháo phòng không 57 mm và 37 mm, hơn 250 khẩu súng máy phòng không các cỡ 12,4 mm và 14,5 mm.

Tư lệnh: Thiếu tướng Vũ Lăng
Chính uỷ: Đại tá Đặng Vũ Hiệp

Khác với Quân đoàn 2, Quân đoàn 3 phải tấn công trên một chính diện hẹp từ 7 đến 10 km nhưng có chiều sâu nhiệm vụ lên đến 100 km.[32] Nhiệm vụ của quân đoàn trong giai đoạn 1 là sử dụng Sư đoàn 316 cùng binh chủng phối thuộc chặn đánh Sư đoàn 25 Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại Gò Dầu, Trảng Bàng, cắt đường 1B, bao vây, chia cắt không cho Quân lực Việt Nam Cộng hoà điều các đơn vị ở Tây Bắc Sài Gòn lui về Đồng Dù, Củ Chi. Trong giai đoạn 2, Quân đoàn có nhiệm vụ đánh chiếm căn cứ Đồng Dù, sân bay Tân Sơn Nhất, các quận Tân Bình, Phú Nhuận đưa một bộ phận lực lượng thọc sâu, hợp điểm với các đơn vị khác tại Dinh Độc Lập.

Hướng Đông Bắc

Quân đoàn 4 đã sứt mẻ gồm các Sư đoàn 6, 7, 341 (“Sông Lam”) của Quân khu 4 và lữ đoàn bộ binh 52; một tiểu đoàn pháo 130mm; một trung đoàn và một tiểu đoàn phòng không hỗn hợp, ba tiểu đoàn xe tăng - thiết giáp. Sau trận Xuân Lộc, quân số của quân đoàn còn khoảng 30.000 người.

Tư lệnh: Thiếu tướng Hoàng Cầm
Chính uỷ: Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện

Nhiệm vụ của quân đoàn là đánh chiếm khu vực Biên Hoà - Hố Nai (gồm cả Sở chỉ huy Không lực Việt Nam Cộng hoà và sân bay Biên Hoà), tiến về Sài Gòn chiếm các quận 1, 2, 3, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hoà, Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hoà, Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà, Đài phát thanh Sài Gòn. Cũng như Quân đoàn 1, đến 17 giờ chiều 27 tháng 4, Quân đoàn 4 mới chuẩn bị xong bàn đạp tiến công và bắt đầu nổ súng chậm hơn một ngày.

Hướng Tây Nam

Đoàn 232 gồm các Sư đoàn 5, 9 chủ lực Miền, Sư đoàn Phước Long (tên ban đầu là đoàn C30B); sáu trung đoàn độc lập 16, 88, 24, trung đoàn 271, 172 và 27B; tiểu đoàn 26 xe tăng (17 xe T-54), một trung đoàn đặc công, tiểu đoàn xe tăng 24 (18 xe PT-85), tiểu đoàn 23 xe bọc thép (22 xe BTR-60 và 8 xe M-113); 5 đại đội pháo binh gồm 27 khẩu từ 85 mm đến 130 mm, bốn khẩu cối 160 mm và một giàn hoả tiễn H12; trung đoàn phòng không hỗn hợp 595, một tiểu đoàn pháo phòng không 23 mm và một tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7 mm.  Sau khi được tăng cường sư đoàn 8 (quân khu 8), tổng quân số của Đoàn 232 lên đến khoảng 42.000 người.

Đoàn 232 do Thiếu tướng Nguyễn Minh Châu làm tư lệnh, Đại tá Trần Văn Phác làm chính uỷ.

Tư lệnh cánh quân phía tây nam: Trung tướng Lê Đức Anh
Chính uỷ: Thiếu tướng Lê Văn Tưởng

Nhiệm vụ của đoàn là cắt đường số 4 (Bến Lức - ngã ba Trung Lương), chiếm Tân An, Mỹ Tho, chia cắt Sài Gòn và miền Tây Nam Bộ, thọc sâu đánh chiếm Bộ tư lệnh Biệt khu thủ đô, cầu Nhị Thiên Đường, Tổng Nha cảnh sát, các quận 5, 6, 7, 8, 10, 11. Ngoài ra, đoàn 232 còn có nhiệm vụ đánh chiếm các tỉnh lỵ Long An, Kiến Tường; chốt chặn đường số 4 không cho Quân lực Việt Nam Cộng hoà ở Sài Gòn rút về đồng bằng sông Cửu Long.

Mặc dù Sài Gòn - Gia Định là một thành phố lớn, rộng trên dưới 1000 km vuông, vào thời điểm tháng 4 năm 1975 có hơn 3,5 triệu dân nhưng Bộ Tư lệnh chiến dịch đã chọn 5 mục tiêu quan trọng nhất cần đánh chiếm trong thời gian ngắn nhất: Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà, Bộ Tư lệnh biệt khu thủ đô, Tổng nha Cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất và Dinh Độc Lập.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
[Phần 4]


QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ

Đến thời điểm mở chiến dịch, Quân lực Việt Nam Cộng hoà chỉ còn trong tay hai quân đoàn (III và IV), trong đó Quân đoàn III đã bị tổn thất đáng kể trong Chiến dịch Phan Rang - Xuân Lộc và các trận đánh ở vùng ven đô.

Quân đoàn III và Biệt khu Thủ đô

Quân số 245.000 người (bao gồm cả tàn binh từ Quân đoàn I và Quân đoàn II đã bị đánh tan nhập vào), 406 khẩu pháo, 624 xe tăng và xe thiết giáp, hơn 800 máy bay, 852 tàu các loại và xuồng chiến đấu.

Tư lệnh Quân đoàn III: Trung tướng Nguyễn Văn Toàn
Tư lệnh Biệt khu Thủ đô: Thiếu tướng Lâm Văn Phát

Các tuyến phòng thủ gồm có:

Tuyến ngoài:

Sư đoàn 22 bộ binh (mới tái lập) ở Long An, Bến Lức, ngã ba Trung Lương, sở chỉ huy đặt tại Long An;
Sư đoàn 25 bộ binh giữ Đồng Dù, Trảng Bàng, Củ Chi, Hậu Nghĩa, sở chỉ huy đặt tại căn cứ Đồng Dù;
Sư đoàn 5 bộ binh giữ Lai Khê, Bến Cát, Bình Dương, sở chỉ huy đặt tại Lai Khê;
Sư đoàn Thuỷ quân lục chiến (chỉ còn 2 lữ đoàn) giữ Long Bình;
Sư đoàn 18 (chỉ còn 2 chiến đoàn) giữ Bàu Cá, Trảng Bom, Suối Đĩa;
Sư đoàn 5 không quân đóng tại Tân Sơn Nhất;
Lữ đoàn 3 thiết giáp giữ Biên Hoà;
Lữ đoàn 1 dù giữ Bà Rịa - Vũng Tàu

Tuyến trong:

Ba liên đoàn biệt động quân được triển khai tại Bình Chánh, Hóc Môn, Bình Triệu.

Bốn Khu chiến được thành lập sau ngày 14 tháng 4 gồm:
- Liên đoàn đoàn 9 biệt động quân, 2 liên đoàn công binh và số quân đang huấn luyện tại trại Quang Trung giữ Khu chiến Bắc từ Hóc Môn qua Cầu Bông đến sân bay Tân Sơn Nhất.
- Các liên đoàn biệt động quân 7, 8 giữ Khu chiến Tây từ Vĩnh Lộc qua Tân Hiệp, Bà Hom đến Bình Chánh.
- Liên đoàn bảo an 239 và một liên đoàn phòng vệ dân sự được vũ trang giữ Khu chiến Nam từ Nhà Bè đến Nhơn Trạch.
- Lữ đoàn dù 4, Liên đoàn bảo an 391 và học viên Quân trường Thủ Đức giữ Khu chiến Đông từ Gò Vấp, Quận 9 đến Thủ Đức.

Năm liên khu phòng thủ nội đô gồm: Liên khu 1 (các quận 1, 3), Liên khu 2 (các quận 5, 6), Liên khu 3 (các quận 2, 4), Liên khu 4 (các quận 7, 8), Liên khu 5 (các quận 10 và 11). Các ổ đề kháng cũng được tổ chức tại Bộ Tư lệnh biệt khu thủ đô, Bộ Tổng tham mưu (do Liên đoàn biệt kích dù 81 phòng thủ), Tổng nha Cảnh sát, Căn cứ không quân Tân Sơn Nhất. Bản thân Dinh Độc Lập cũng được bố trí làm một trung tâm đề kháng với một lữ đoàn cảnh vệ quốc gia có xe tăng và xe bọc thép tăng cường.

Quân đoàn IV

Vùng đồng bằng sông Cửu Long do Quân khu IV - Quân đoàn IV Quân lực Việt Nam Cộng hoà vẫn còn nguyên vẹn, có 175.000 quân được biên ché thành 3 sư đoàn bộ binh 7, 9, 21, một lữ đoàn bộ binh độc lập, sư đoàn 4 không quân, ba trung đoàn thiết kỵ, hai hải đoàn tuần duyên, ba giang đoàn; được trang bị 493 xe tăng, xe thiết giáp, 366 khẩu pháo, 409 máy bay (trong đó có 118 máy bay chiến đấu), 579 tàu, xuồng chiến đấu các loại. Các lực lượng này được bố trí trong các cụm đề kháng quanh các thành phố lớn, thị xã, các trục đường giao thông lớn trong đó có hai trọng điểm là Thành phố Cần Thơ và đường số 4.

Tư lệnh: Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
[Phần 5]


CÁC DIỄN BIẾN TẠI KHU VỰC SÀI GÒN – GIA ĐỊNH


ĐỢT 1


7 giờ sáng 26 tháng 4, một số đơn vị thám báo của Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại cụm căn cứ Nước Trong – Long Thành đã có vài cuộc chạm súng nhỏ với các đơn vị trinh sát của Sư đoàn 304. Quân đoàn III – Quân lực Việt Nam Cộng hoà tăng phái cho cụm quân ở Nước Trong – Long Thành lữ đoàn Thuỷ quân lục chiến 468. Từ 7 giờ 30 phút đến 16 giờ 30 phút, tướng Nguyễn Văn Toàn lệnh cho sư đoàn 5 không quân đánh phá tuyến chuẩn bị của Quân đoàn 2 nhưng không gây được thiệt hại đáng kể cho đối phương và bị bắn rơi bốn chiếc A-37, một chiếc UH-1A.

17 giờ ngày 26 tháng 4, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu với tiếng gầm thét của cuộc pháo kích cấp tập từ hơn 20 tiểu đoàn pháo binh thuộc các Quân đoàn 2, 3 và 4 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào các căn cứ của Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại Nhơn Trạch, Hố Nai, Biên Hoà, Nước Trong, Long Thành, Đức Thạnh, Bà Rịa, Đồng Dù, Trảng Bàng, Gò Dầu. Trận pháo kích kéo dài gần 1 giờ liền đã làm rung chuyển nội đô Sài Gòn. Pháo binh Quân lực Việt Nam Cộng hoà phản ứng yếu ớt và nhanh chóng bị hoả lực của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam dập tắt.

Trên hướng Đông, Quân đoàn 2 sử dụng sư đoàn 304 mở màn cuộc tấn công vào cụm Long Thành - Nước Trong, đánh bật được lữ đoàn Thuỷ quân lục chiến 468 ra rừng cao su, bắn cháy gần 20 xe tăng, xe bọc thép và chỉ bị tổn thất một xe tăng. Đến đêm 26 tháng 4, sư đoàn 304 chỉ chiếm được trường thiết giáp, chưa giải quyết được khu vực trường bộ binh và ngã ba đường 15 với các chốt công sự kiên cố vẫn ở trong tay Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Tại mũi thứ yếu, sư đoàn 3 Sao Vàng đã chiếm được các khu vực Bình Giã, Ngãi Giao và Núi Đất sau 2 giờ giao chiến. 17 giờ chiều 27 tháng 4, trung đoàn 141 của sư đoàn này và đại đội xe tăng 4 có pháo binh yểm hộ đã đánh chiếm thị xã Bà Rịa và huyện Xuyên Mộc. Quân lực Việt Nam Cộng hoà chốt giữ tại cầu Cỏ May đã phá cầu nhưng không chặn được mũi vu hồi sâu của sư đoàn 3 Sao Vàng và phải rút chạy. 16 giờ ngày 29 tháng 4, sư đoàn 3 chiếm thị xã Vũng Tàu. Các phân đội Z23, Z22 lữ đoàn 316 và tiểu đoàn 81 (trung đoàn đặc công cơ giới) chiếm 2 đầu cầu Rạch Chiếc nhưng bị Quân lực Việt Nam Cộng hoà phản kích nên có 30 người hi sinh. Các lực lượng địa phương giải phóng các huyện Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc và các mảng nông thôn 2 bên quốc lộ 15, 25, 19, 1 và 2.

Sáng 27 tháng 4, sư đoàn 325 từ mũi thứ yếu chuyển thành mũi chủ yếu đánh vu hồi vào sườn trái cụm quân Việt Nam Cộng hoà tại Nước Trong - Long Thành, phối hợp với sư đoàn 304 tấn công từ hướng đối diện. Sư đoàn 5 không quân Việt Nam Cộng hoà điều động hơn 114 phi vụ oanh kích vào đội hình Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nhưng không cản được đường tiến của lữ đoàn xe tăng 203 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và bị bắn rơi 2 chiếc F-5, 4 chiếc A-37, 3 chiếc A-1 và 1 chiếc HU-1A. 16 giờ 30 phút chiều 27 tháng 4, Sư đoàn 325 đánh chiếm Long Thành, bắt hơn 500 tù binh. Sang ngày 28 tháng 4, căn cứ Nhơn Trạch bị sư đoàn 304 đánh chiếm. Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 cho triển khai ngay Lữ đoàn pháo binh 164 tại đây để pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất. Tuyến phòng thủ hướng Đông Nam Sài Gòn của Quân đoàn III - Quân lực Việt Nam Cộng hoà bị vỡ một mảng lớn.

Trên hướng Đông Bắc 4 giờ 7 phút sáng 27 tháng 4, Quân đoàn 4 gồm sư đoàn 341 và sư đoàn 6 tấn công Trảng Bom, Suối Đỉa và Long Đạt, tướng Lê Minh Đảo điều chiến đoàn 52 có 8 xe tăng yểm hộ đánh vào sườn đội hình tấn công của sư đoàn 7 nhưng lại bị sư đoàn 341 tấn công từ bên sườn, mất 4 xe tăng bị bắn cháy. 8 giờ 30 phút sáng 27 tháng 4, yếu khu quân sự Trảng Bom bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh chiếm, gần 500 sĩ quan, binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hoà bị bắt làm tù binh. 9 giờ sáng 27 tháng 4, số quân còn lại của sư đoàn 18 và một chi đoàn của lữ đoàn 3 thiết giáp Quân lực Việt Nam Cộng hoà rút từ Trảng Bom về Suối Đĩa đã bị phục kích hai bên đường, hơn 2000 quân và gần 100 xe các loại bị sư đoàn 341 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiêu diệt và bắt giữ. Trên hướng thọc sâu, Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4) phát triển đến Hố Nai thì phải dừng lại để phối hợp với sư đoàn 341 và sư đoàn 6 thực hiện đòn tấn công tổng hợp vào các lực lượng của Lữ đoàn 3 thiết giáp và lữ đoàn dù 4 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Đến quá nửa đêm 28 tháng 4, do bị thệt hại nặng, Lữ đoàn 3 xe tăng và lữ đoàn 4 dù phải lùi về Gò Vấp. Trung đoàn đặc công 113 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm Cầu Gềnh, Rạch Cát nhưng không giữ được, chưa chiếm được Cầu Mới. Đoàn Pháo binh 75 đặt trận địa tại Hiếu Liêm từ ngày 14 tháng 4 liên tục khống chế tê liệt sân bay Biên Hoà.

Trên hướng Tây Bắc Từ chiều 26 tháng 4, sư đoàn 316 (Quân đoàn 3 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) và lực lượng vũ trang Tây Ninh đã liên tiếp đánh chiếm một loạt đồn bốt của Quân lực Việt Nam Cộng hoà dọc theo quốc lộ số 1 và đường 22, chia cắt sư đoàn 25 Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại Gò Dầu - Trảng Bàng với Sài Gòn và chặn nốt cả đường rút của sư đoàn này về Đồng Dù, Củ Chi. Ngày 27 tháng 4, sư đoàn 316 tiếp tục đẩy lùi cuộc phản kích.Trong các trận đấu pháo từ ngày 25 đến ngày 28 tháng 4 trên hướng này, 39 khẩu pháo các cỡ của Quân đoàn 3 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phá huỷ 33 khẩu pháo các cỡ 155 mm và 105 mm của Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại Đồng Dù, Phước Mỹ, Đồng Chùa, Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ, Bến Kéo, Khiêm Hạnh, phá huỷ 11 trận địa pháo, gây thiệt hại năng cho 7 trận địa pháo khác của Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Trong đội hình Quân đoàn 3, sư đoàn 10, trung đoàn xe tăng 273 và lực lượng công binh của Quân đoàn đã chuẩn bị xong các phương tiện vượt sông Sài Gòn. Sư đoàn 320A đã tiềm nhập vào khu vực Củ Chi, áp sát căn cứ Đồng Dù.

Trên hướng Nam và Tây Nam 22 giờ ngày 26 tháng 4, Sư đoàn bộ binh 5 mở đầu chiến dịch trên hướng này bằng đòn đánh chia cắt đường số 4 tại bốn điểm Rạch Chanh, ngã ba Nhị Thành, ấp Bình Yên, Phú Mỹ và áp sát thị xã Tân An, chi khu Thủ Thừa. Đến ngày 27 tháng 4, sư đoàn 5 đã cắt hẳn đường số 4 tại hai đoạn từ Bắc Tân An dến Bến Lức và từ Nam Tân An đến Tân Hiệp.[53] Sư đoàn 303 - Phước Long đánh chiếm tiểu khu Hậu Nghĩa và các chi khu Đức Hoà, Đức Huệ. Trung đoàn 27 đặc công tập kích các chốt Bà Hom, Vĩnh Lộc, căn cứ ra đa Phú Lâm, mở hành lang cho sư đoàn 9 đột kích trên mũi tiến công chủ yếu. Sư đoàn 8 (Quân khu 8) tấn công các vị trí của sư đoàn 22 dọc hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, đưa một lực lượng thọc sâu tấn công thành phố Mỹ Tho, cắt đứt hoàn toàn đường số 4, cô lập Sài Gòn với đồng bằng Sông Cửu Long. Mặc dù tỉnh trưởng Long An gọi điện cho tướng Nguyễn Khoa Nam yêu cầu cho dùng thuốc nổ phá huỷ hai cầu Tân An và Bến Lức nhưng tường Nam không đồng ý do các cầu này được dùng cho phương án dự phòng để rút Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà từ Sài Gòn về Cần Thơ. Trên đường biển, đô đốc Chung Tấn Cang cũng dành riêng một chiến hạm để di tản chính phủ Việt Nam Cộng hoà về Cần Thơ. Cả tướng Lê Văn Hưng và tướng Lê Minh Đảo, những “người hùng Xuân Lộc” một thời cũng đặt hy vọng vào việc biến Quân khu IV thành căn cứ để kéo dài cuộc chiến thêm một thời gian. Thế nhưng sự xuất hiện đột ngột của một đơn vị mới tương đương quân đoàn (Đoàn 232) của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại đồng bằng sông Cửu Long đã đặt những hy vọng và kế hoạch nói trên trước nguy cơ phá sản.

WIKIPEDIA
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [27] [28] [29] [30] [31] [32] [33] ... ›Trang sau »Trang cuối