Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ  98

ĐẶNG DUNG, CẢNH DỊ DÙNG BINH
BẮT NHÀ MINH TRẢ GIÁ ĐẮT


Như đã nêu ở những kỳ trước đây, cuộc chiến dai dẳng giữa nước Minh và dân tộc Việt đầu thế kỷ 15 không chỉ là nỗi bất hạnh lớn cho nhân dân ta, mà còn đem lại những tổn thất to lớn cho chính bên gây chiến chính là nước Minh. Bất chấp những tổn thất, vua Minh Thành Tổ (hay còn gọi là Minh Thái Tông) Chu Đệ vẫn liên tiếp điều quân tiếp viện để duy trì nền đô hộ. Vì sao vua nước Minh lại không thể từ bỏ khi mà nhân tâm bất phục, lợi ích từ việc đô hộ không bù nổi thiệt hại và còn khiến vấn đề Đại Việt trở thành mối lo lâu dài tiềm ẩn nguy cơ cho cả đời vua kế nhiệm ? Ắt hẳn đó không đơn thuần đến từ lợi ích. Có một thứ còn lớn hơn mà Chu Đệ rất sợ mất đi, đó chính là uy danh. Chính chữ Danh đã khiến vị vua này bất chấp hy sinh tính mạng quân tướng của mình và sẵn sàng tiêu diệt cả giống nòi người Việt nếu cần. Từ bỏ Đại Việt để rút quân về nước, đối với Chu Đệ chính là một sự thừa nhận rằng hắn đã sai lầm và thất bại. Tên bạo chúa với tính cách cố chấp, ngông cuồng không bao giờ dám đối diện với điều đó.

Tháng 4.1411, trong lúc tại nước Minh, đội quân tăng viện dưới trướng Trương Phụ đang ráo riết chuẩn bị mọi thứ để tiến sang nước ta, Chu Đệ cho ban thưởng hậu hĩnh cho các nguỵ quan và xuống chiếu khích lệ tinh thần bọn tay sai bằng những lời có cánh: “Các ngươi tài năng khôi kiệt, tư chất đôn hậu, sáng suốt nhìn xa, trước đã thành tâm gắng sức, tận trung với triều đình, nghĩ tới công lao của các ngươi, đặc ân thăng cho chức vụ vinh hiển. Nay nghe các ngươi biết làm tròn nghĩa vụ, dốc sức lập công, bắt giết bọn phản nghịch, giữ vững đất đai, nghĩ đến lòng trung thành ấy, xiết nỗi vui mừng khen ngợi. Hiện nay, bọn giặc còn sót chưa dẹp yên hết, các ngươi hãy lập thêm nhiều công, ra sức quét sạch bọn chúng để tiếp nối công tích trước đây. Ta đặc cách sai người sang uý lạo ban thưởng. Các ngươi hãy kính cẩn phục tùng mệnh lệnh ân sủng này”. (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)

Qua những việc trên mà Chu Đệ đã làm cho thấy, hắn đã cùng lúc thực hiện cả hai chính sách lớn. Đó là chính sách dùng người Việt đánh người Việt để giúp duy trì sự kiểm soát trên lãnh thổ chiếm đóng, kế đến là chính sách sử dụng quân đội chính quy đông mạnh từ nước Minh tiến sang để tấn công dứt điểm nhà Hậu Trần và các phong trào khởi nghĩa khác.

Tháng 5.1411, Trương Phụ đem quân tiến vào địa phận nước ta, vào thành Đông Quan hội quân với Mộc Thạnh. Đến đây, Trương Phụ lại thay Mộc Thạnh nắm quyền chủ soái, còn Mộc Thạnh làm phó soái. Quân Minh đêm này cho người dò la tin tức và bàn bạc kế hoạch tấn công.Quân Minh lần này cũng sử dụng lực lượng lớn thuỷ quân. Trong các kế hoạch hành quân, giặc chủ yếu di chuyển bằng thuyền dọc các con sông. Công việc chuẩn bị của quân Minh lần này rất công phu.Các lực lượng nguỵ quan, nguỵ binh được lệnh đóng chiến thuyền, làm đồn điền cung cấp quân lương cho đạo quân viễn chinh nước Minh. Từ giữ năm 1411 cho đến mùa hạ năm 1412, quan tướng nước Minh ra sức bắt nhân dân vùng Kinh lộ phục dịch, góp lương thảo để nuôi quân vô cùng khổ sở.

Điều này hoàn toàn trái ngược với những lời hứa trong các chiếu chỉ của vua Minh chỉ mới cách đó không lâu. Hoàn toàn không có sự tốt đẹp nào mà chính quyền đô hộ dành cho nhân dân ta, chỉ có thực tế là những việc bắt giết, đàn áp, bóc lột thậm tệ. Sách Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thì Sĩ bình luận về sự trái ngược trong lời lẽ của vua Minh và hành động của quan tướng nước Minh đối với dân ta như sau: “Người Minh thống trị nước ta, tự nghĩ có thể lấy oai lực mà áp chế được. Nhưng từ tháng 5 năm Đinh Hợi bắt được Hồ (Quý Ly) rồi, tháng 10 vua Giản Định lại lên ngôi, nối đến là vua Trùng Quang. Trong 5 - 6 năm, chiến tranh không thôi, mới biết là khó bình được. Bấy giờ mới cầm quyền ban chiếu sắc, nghĩ cách uý dụ dân. Nhưng mà Trương Phụ đi đến đâu, dữ hơn hổ cái. Hoàng Phúc ra mệnh lệnh rối như lông lươn. Vua Minh ở xa cách, không biết dân thuộc quốc khốn khổ đến thế, bảo sao mà dân chả nhớ nước cũ, mà coi người Minh là cừu thù”.

Lời bàn của Ngô Thì Sĩ quả xác đáng với bối cảnh lúc bấy giờ. Nhưng riêng việc vua Minh không biết rằng dân ta khốn khổ thì không hẳn là đúng. Việc nhân dân ta có khốn khổ hay không, kỳ thực đó chỉ là mối quan tâm thứ yếu đối với Chu Đệ. Cái hắn quan tâm chính là nhân dân ta có phục tùng hay không.

Việc tập trung nguồn lực của Trương Phụ cũng không hề dễ dàng mà bị chậm tiến độ do các sự chống đối của nhân dân. Trước khi Trương Phụ kéo quân sang, tại các vùng trung du, rừng núi hiểm trở vẫn còn tồn tại những đội nghĩa quân tự phát thường xuyên là mối đe doạ với quân đồn trú nước Minh. Đến khi Trương Phụ sang, bóc lột nhân dân tàn tệ. Mọi người vì thế mà căm phẫn, dù bị kìm kẹp gắt gao nhưng vẫn chực chờ cơ hội vùng lên.
Tháng 7.1411, Trương Phụ mở chiến dịch lớn tiến đánh nhà Hậu Trần. Từ Đông Quan, quân Minh chia làm hai đạo thuỷ bộ. Đạo thuỷ binh là lực lượng chính dưới quyền chỉ huy của Trương Phụ. Mộc Thạnh chỉ huy cánh bộ binh. Mục tiêu của hai cánh quân Minh là tấn công đánh lấn nhanh về phía nam, giành quyền kiểm soát vùng Thanh Hoá rồi từ đó làm bàn đạp đánh xuống Nghệ An, bắt vua Trùng Quang đế.

Trương Phụ bị quân Hậu Trần dưới sự chỉ huy của hai tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị đánh cầm chân ở Trường Yên. Quân Minh vừa vất vả tháo dỡ đá mà quân ta đã lấp sông, nhổ cọc khơi nguồn vừa phải chống đỡ với các đội quân mai phục, tập kích đánh tỉa. Trương Phụ tiến rất chậm, tổn thất một lực lượng đáng kể. Đến cửa Thần Phù, Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị lại tung quân đánh một trận nữa, cố gắng tiêu hao lực lượng giặc trước khi cho quân rút lui về Thanh Hoá bảo toàn lực lượng, lập trận địa mới. Cánh quân bộ của Mộc Thạnh thì bị trúng mai phục của Nguyễn Suý ở đèo Tam Điệp. Quân Minh tổn thất không nhỏ, nhưng vẫn đủ lực lượng vượt qua được. Nguyễn Suý sau đó cũng lui về Thanh Hoá hội quân với các tướng khác.

Quân Minh tiến vào Thanh Hoá vào tháng 8.1411. Hai cánh quân của giặc tập kết, dồn sức tổng lực đánh vào cứ điểm phòng thủ của quân Hậu Trần tại sông Nguyệt Thường (hạ lưu sông Mã). Tại đây, các tướng Hậu Trần là Nguyễn Suý, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Hồ Cụ … cũng gom hết quân để cùng nhau phòng thủ. Ban đầu, Trương Phụ dùng cánh đánh vỗ mặt, bị nghĩa quân dựa vào phòng tuyến chống trả quyết liệt. Hai bên đánh nhau liên tiếp mấy ngày trời bất phân thắng bại. Sau đó, Trương Phụ mới theo phép “đông hơn hai lần thì phân ra”, lệnh cho Đô đốc Chu Quảng, Đô chỉ huy Trương Thắng, Du Quảng cứ dẫn chiến thuyền theo dòng sông mà tiến đánh, bất chấp chướng ngại vật và thiệt hại từ cung tên, súng đạn của quân ta. Mộc Thạnh dẫn quân kỵ bộ tấn công mạnh vào một hướng khác. Còn Trương Phụ dẫn quân men theo đường rừng, đi vòng đánh vào mặt sau trận địa của quân Hậu Trần.

Quân ta đang cố sức đánh trả mặt trước, lại bị Trương Phụ bất ngờ tấn công từ mặt sau, thế trận bỗng chốc trở nên bất lợi. Thấy quân Minh ba mặt giáp công, các tướng cùng nhau gấp rút hạ lệnh rút quân, nhanh chóng thoát khỏi thế bị bao vây. Rốt cuộc quân Minh phá được tuyến phòng ngự Nguyệt Trường, với một cái giá rất đắt. Những cánh nghi binh của quân Minh bị quân phòng thủ của ta gây thiệt hại nặng,  xác giặc nằm la liệt khắp chiến trường, trôi lềnh bềnh dưới sông. Quân Hậu Trần trong trận tổn thất hơn 400 quân, mất nhiều chiến thuyền. Các tướng Hậu Trần là Đặng Tôn Mục, Lê Đức Di, Nguyễn Trung bị giặc bắt.

Thắng trận tại Nguyệt Trường, nhưng Trương Phụ chẳng thể tiếp tục cuộc tấn công. Bởi vì khi quân Minh rời Đông Quan tiến xuống phía nam, thì hào kiệt vùng Kinh lộ (trung tâm đồng bằng sông Hồng) đã thừa cơ vùng lên đánh phá khắp nơi. Lê Nhị, Phạm Khảng ở Thanh Oai, uy hiếp Đông Quan từ mặt đông nam. Nghĩa quân Ông Lão ở Thái Nguyên, trước bị quân Minh bức bách, nay lại có dịp hoạt động mạnh trở lại. Ông Lão lãnh đạo nghĩa quân tiến đánh Cổ Lũng (Lạng Sơn), Động Hỷ, Tư Nông (Thái Nguyên)… uy hiếp Đông Quan từ hướng bắc. Quan tướng Minh ở thành Đông Quan phải biên thư cáo gấp. Trương Phụ không thể dứt điểm được nhà Hậu Trần trong một sớm một chiều, mà Đông Quan lại đang nguy cấp. Sau khi cân nhắc, hắn phải cùng Mộc Thạnh đem đại quân rút nhanh về cứu thành Đông Quan. Thế trận bỗng chốc đảo chiều. Rõ ràng chiến cuộc tại Đại Việt không chỉ có quân Minh và nhà Hậu Trần. Quân giặc thực sự đã phải đương đầu với cả một dân tộc.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-DqwBWO2p6hM/XSsuc0BP2XI/AAAAAAACIh0/iMSEdorUqqonD35BdlOigmprswIeLJWgQCLcBGAs/s640/98.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 99

QUÂN MINH SA LẦY
VUA TRẦN SAI 3 ÔNG TƯỚNG RA TRẬN


Nửa cuối năm 1411, Trương Phụ phải bỏ dở giữa chừng chiến dịch đánh diệt nhà Hậu Trần để đem quân về cứu thành Đông Quan đang bị các toán quân khởi nghĩa uy hiếp. Điều này đã giúp nhà Hậu Trần được giải vây, nhưng gánh nặng là dồn sang các lực lượng khởi nghĩa ở phía bắc. Bấy giờ Lê Nhị xưng là Long Hổ tướng quân Đại đô đốc, lãnh đạo quân dân mở chiến dịch công phá thành Đông Quan. Lê Nhịvới đạo quân 5.000 người tiến đến ngay sát cạnh Đông Quan thì đã bị một lực lượng quân Minh áp đảo tuyệt đối dưới sự chỉ huy trực tiếp của Trương Phụ từ phía nam trở về tiến đánh dữ dội. Nghĩa quân đã chiến đấu rất anh dũng nhưng không chống nổi do tương quan quá chênh lệch.

Hơn 1.500 nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận chiến, một số tan rã hàng ngũ. Lê Nhị trúng tên tử trận. Tướng dưới trướng ông là Phạm Khảng cùng số tàn quân còn lại kịp rút lui, kéo nhau vào rừng núi lẩn trốn. Đánh tan quân của Lê Nhị rồi, Trương Phụ sai tướng đánh thốc lên phía bắc thành Đông Quan, hòng tiêu diệt nghĩa quân Ông Lão. Liệu sức không thể đối đầu ngay với giặc, Ông Lão cho thu quân rút vào rừng sâu, chia nhỏ lực lượng chực chờ quân Minh rút đi thì lại đánh phá các đồn trại của bọn nguỵ quan. Các hoạt động này khiến quân Minh mất rất nhiều thời gian đánh dẹp.

Cũng trong năm 1411, hàng loạt cuộc khởi nghĩa khác trên khắp vùng miền bắc đã khiến quân Minh vô cùng vất vả đối phó. Nhà Hậu Trần cũng hành động để phối hợp với các thủ lĩnh nghĩa quân. Đặng Dung, Nguyễn Suý cùng các tướng Hậu Trần khác là Tôn Nhân, Trần Lỗi đem thuỷ quân vượt biển ra bắc đánh vào Vân Đồn, Hải Đông để cướp lương thực, hỗ trợ và cổ vũ nhân dân vùng đồng bằng sông Hồng càng nô nức giết giặc.Thành Đông Quan gần như lọt thỏm giữa muôn trùng vây các cuộc khởi nghĩa. Mặc dù các toán quân khởi nghĩa lần lượt bị đàn áp do rời rạc thiếu đồng bộ, nhưng cũng đã khiến cho hàng ngàn quân Minh bỏ thây. Và nhất là, khiến cho mục tiêu sớm bình định Đại Việt của vua Minh thất bại.

Trương Phụ càng đánh nhiều, thắng nhiều thì càng khiến cho sự chống đối càng thêm dữ dội. Quân Minh không có năng lực để diệt chủng toàn bộ nhân dân Đại Việt cũng như hoàn toàn tiêu diệt các lực lượng nghĩa quân, nên phải duy trì lực lượng nguỵ quân, nguỵ quan để chia sẻ gánh nặng với quân viễn chinh người Minh và khiến người Việt bị chia rẽ. Nhưng rồi chính trong lực lượng tay sai đó cũng xuất hiện những người chống đối, vì rằng nhiều người trong số họ cũng bị lừa dối và ép buộc. Sách Bình Định Giao Nam Lục của người Minh phải viết: “Vì rằng trong những quân vệ châu huyện mới đặt, người Giao Châu nhiều, xưa nay vốn ở ngoài vòng thanh giáo (!?), ưa thích phóng túng, không chịu nổi sự sách nhiễu của quan lại, tướng sĩ. Họ thường nhớ tục cũ, mỗi khi nghe giặc nổi lên là cùng hưởng ứng, tướng giặc đến đâu là được chúng cung ứng, giấu giếm. Cho nên giặc tan rồi lại hợp…”

Đầu năm 1412, tại Thái Nguyên, viên phụ đạo là Nguyễn Nhuế khởi binh đánh phá quân Minh. Tình hình nghiêm trọng buộc Trương Phụ phải đích thân dẫn quân đi đánh mới dẹp được. Để có được một vùng Kinh lộ tạm yên ổn làm bàn đạp tiến về phía nam, Trương Phụ phải mất hơn nửa năm trời. Quãng thời gian này là ngắn hay dài? Chúng ta cần biết rằng, thời trước quân Tống chỉ bị cầm chân ở Như Nguyệt 2 tháng trời mà cạn kiệt lương thực, phải rơi vào cảnh khốn đốn. Quân Nguyên Mông chưa bao ở nước ta được tới nửa năm, lại phải thường xuyên cướp bóc vơ vét lương thực trong dân mà cũng lâm vào cảnh đói khát. Vậy nên, việc quân Minh loay hoay phá vòng vây quanh Đông Quan là một sự sa lầy trầm trọng. Chiến sự liên miên bào mòn quốc lực của nước Minh, và càng khiến quân Minh tăng cường vơ vét bóc lột nhân dân ta ở vùng chúng chiếm đóng. Chiến tranh là một cái vòng lẩn quẩn điên rồ, nơi mà những kẻ tham tàn ném quân dân cả hai bên vào chỗ khổ sở, chết chóc.

Tuy nhiên, dựa vào việc được cung cấp nhân lực, vật lực liên tục từ nước Minh và việc lập đồn điền cho nguỵ quân sản xuất lương thực, quân Minh đã giải quyết được khó khăn về hậu cần. Trương Phụ sai quân tấn công đội thuỷ quân của Nguyễn Suý đang hoạt động ở ven biển vùng Hải Đông (Quảng Ninh, Hải Phòng ngày nay), giành được thắng lợi. Quân dưới trướng Nguyễn Suý bị hao tổn đến quá nửa, các tướng phải cho lui quân về Nghệ An. Không có sự hậu thuẫn của quân Hậu Trần, phong trào khởi nghĩa cũng tạm thời lắng xuống. Đến giữa năm 1412, Trương Phụ đã bắt đầu mở chiến dịch mới tiến về phía nam, tiếp tục công việc đàn áp nhà Hậu Trần, chỗ dựa của toàn bộ phong trào kháng Minh thời bấy giờ.

Tháng 7.1412, Trương Phụ và Mộc Thạnh đem đại binh từ Đông Quan vào đánh Nghệ An, với mục tiêu là nhanh chóng tiêu diệt nhà Hậu Trần. Quân Minh vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của quân Hậu Trần tại vùng Trường Yên (Ninh Bình). Tại đây, vua Trùng Quang sai ba tướng giỏi nhất của mình là Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Suý đón đánh. Về sau, phò mã Hồ Bối cũng được lệnh đem quân tăng cường. Tuy nhiên, lực lượng quân Hậu Trần vẫn ít hơn quân Minh rất nhiều. Chẳng những vậy, cả quân lẫn tướng giặc đều tinh nhuệ, nhiều tên dày dặn kinh nghiệm. Quân ta dùng kế chia quân đánh tỉa, cốt làm chậm nhịp tiến quân của giặc. Trương Phụ phải mất nhiều thời gian ở Trường Yên. Dù vậy, là một tướng lão luyện, Phụ vẫn giữ được phần đông lực lượng trước sự đánh phá của quân Hậu Trần, lầm lũi từng bước một tiến dần về phương nam.

Đầu tháng 9.1412, quân Minh và quân Hậu Trần đánh nhau một trận lớn. Nguyễn Suý, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị cùng nhau chia quân bày trận ở Mô Độ - huyện Yên Mô. Quân Hậu Trần tập trung lực lượng chặn cửa biển Thần Phù, nơi sông Đáy đổ ra biển. Thuỷ quân ta có khoảng 400 chiến thuyền, bộ binh có vài ngàn quân mai phục trên bờ chờ đánh bộ binh của giặc. Cửa biển Thần Phù là vị trí mà quân Minh phải đi qua để vượt biển tiến đánh Nghệ An, nơi mà Trùng Quang đế đóng đại doanh.

Do vị trí chiến lược quan trọng mà binh thuyền do ba tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Suý nắm giữ cũng là lực lượng mạnh nhất mà Trùng Quang đế có thể điều động được vào lúc đó. Dẫu rằng lực lượng này vẫn thua kém quân của Trương Phụ, Mộc Thạnh, nhưng nhà Hậu Trần cố gắng trông cậy vào địa lợi. Nơi mà quân ta lựa chọn để đặt trận địa đón đánh giặc là nơi đường hẹp lầy lội, nhằm hạn chế tối đa sức mạnh kỵ binh của giặc.Ngày 6.9.1412, Trương Phụ đem binh thuyền tiến đển cửa biển, cùng quân Hậu Trần giao chiến một trận đẫm máu.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-k5ZnkkMoYK0/XUd3ttI5t8I/AAAAAAACIko/2O4i86K4F0UCjG-Ffg7MzaevdMbnc6GmwCLcBGAs/s640/99.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 100

NHÀ MINH NỂ SỢ ĐẶNG DUNG
NẾU CÒN ĐẶNG TẤT GIẶC SẼ TAN


Trận Mô Độ là một trong những trận đánh lớn nhất trong giai đoạn nhà Hậu Trần chống quân Minh. Vua Trùng Quang coi vùng Trường Yên như một tuyến phòng thủ từ xa để bảo vệ căn cứ địa, nên đã điều động những lực lượng ưu tú nhất mà mình có để chiến đấu tại vùng này. Về phần các tướng lĩnh Hậu Trần, việc lựa chọn quyết chiến tại vùng cửa biển, địa hình phức tạp giúp cho quân HậuTrần có thể hạn chế tối đa sở trường của giặc. Thế nhưng quân Minh là một đạo quân khá toàn diện về các binh chủng. Mặc dù kỵ bộ vẫn là sở trường của quân Minh cũng như các quân đội phương bắc, thuỷ quân của giặc cũng khá tinh nhuệ, và nhất là được trang bị các thuyền chiến tốt, có lợi thế về quân số so với quân ta.
1.
Diễn biến trận Mô Độ

Ngày 6.9.1412, sau những ngày dài vừa hành quân vừa quần nhau với quân Hậu Trần, quân Minh dưới sự chỉ huy của Trương Phụ, Mộc Thạnh, Phương Chính… tiến đến dọc sông Đáy, nhằm hướng cửa biển Thần Phù, thuộc Mô Độ, Yên Mô, Trường Yên để ra biển. Quân Hậu Trần với lực lượng gồm 400 chiến thuyền, dưới quyền chỉ huy của các tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Suý, Hồ Bối… đã bày sẵn thuỷ trận trên sông đón đánh. Nhác trông thấy thuyền của quân ta, Trương Phụ với lực lượng mạnh trong tay, không ngần ngại sai Đô chỉ huy Phương Chính dẫn đội thuyền tiên phong hàng trăm chiếc hùng hổ xáp lại, còn Phụ thì tiến sau với đội thuyền chủ lực. Kỵ binh quân Minh vốn vẫn hành quân ven bờ để hộ tống hạm đội chủ lực, nay không thể theo kịp vì địa hình địa vật phức tạp trên đường ra cửa biển. Dù vậy, Trương Phụ vẫn tự tin với hạm đội của mình.

Bấy giờ gió bắc đang thổi, thuyền giặc có lợi về hướng gió. Thời kỳ này, các chiến thuyền vẫn dùng buồm để tận dụng gió làm tăng tốc độ của thuyền bên cạnh các tay chèo. Quân Hậu Trần không vội giao tranh, mà cũng xuôi theo chiều gió chèo ngược ra hướng cửa biển. Hai đoàn thuyền lướt nhanh rượt đuổi nhau. Quân Hậu Trần vừa ra đến cửa biển thì theo kế sách tản ra thành ba đội. Trong thời khắc đó, phần lớn hạm đội quân Minh vẫn còn ở trong sông, không gian chật hẹp hơn nên không thể dàn trận hết được, mà đội hình các thuyền vẫn đang nối đuôi nhau thành những hàng dài. Đó là tính toán rất lợi hại của tướng lĩnh Hậu Trần. Lúc này, quân Hậu Trần đã hình thành thế trận lấy ít vây nhiều. Chỉ có như vậy, quân Hậu Trần mới có cơ hội đánh thắng quân Minh vượt trội hơn cả về trang bị lẫn quân số, lại đang ở thế thượng phong (từ trên gió đánh xuống).

Khi thế trận đã hình thành như dự kiến, Đặng Dung hạ lệnh toàn quân quay thuyền lại đánh. Thuỷ quân Hậu Trần rất tinh nhuệ, cùng quân Minh đánh nhau dữ dội. Khắp vùng biển vang rền tiếng súng từ hai phía. Cuộc đấu pháo giữa các thuyền xen lẫn với những màn giáp chiến. Thuỷ quân ta dùng câu liêm móc vào thuyền giặc, nhảy lên thuyền đánh xáp là cà. Gươm giáo tua tủa vang động khắp chiến trường. Nguyễn Suý đốc suất một nhánh quân chiếm lĩnh chỗ đất ven bờ, từ trên bộ bắn tên và đạn pháo hỗ trợ cho thuỷ quân ta diệt giặc. Quân ta khiến đội thuyền tiên phong của Phương Chính bị thiệt hại nặng nề. Trương Phụ phải tự mình lên tuyến đầu, đốc thúc quân lính liều chết mà xông lên. Quân Minh cũng chia làm ba mặt, cố sức đánh thốc ra biển. Thuyền giặc to lớn, nhân hướng gió thuận chèo nhanh đâm thẳng vào thuyền của quân ta, hễ chiếc trước chìm vỡ thì chiếc sau lại xông tới.
Bấy giờ bên quân Hậu Trần thì dựa vào địa lợi, bên quân Minh dựa nhờ vào thiên thời.

Đồng bình chương sự Đặng Dung là vị tướng dũng mãnh nhất trong quân Hậu Trần, không quản gian lao cùng các binh sĩ chiến đấu với giặc ngay ở tuyến đầu, xông pha giữa trận, ai chống là chết. Thấy chủ tướng gan dạ như thế, nhuệ khí của quân Hậu Trần càng dâng cao, khiến cho quân Minh khốn đốn, trận thế bắt đầu rối loạn. Trương Phụ cũng chẳng phải dạng vừa, quyết không để Đặng Dung mặc sức tung hoành. Chủ tướng quân Minh thấy thế quân mình chùn xuống, cũng dẫn các cận vệ, thuộc tướng bên cạnh xông lên trước, mặt giáp mặt với cánh quân của Đặng Dung, hai bên đều liều chết đánh nhau bất phân thắng bại.

Trong khi cánh quân của Đặng Dung chiến đấu vô cùng dũng cảm thì bước ngoặc quyết định của trận chiến lại đến từ hướng khác. Các tướng Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Suý, Hồ Bối cầm cự với quân Minh hồi lâu, bị giặc công kích dữ dội. Trương Phụ sai một cánh quân đổ bộ đi xuyên qua rừng nứa, nửa đêm đánh vào khối quân của Nguyễn Suý. Vì thiếu phòng bị, Nguyễn Suý không chống nổi, đơn phương hạ lệnh cho quân mình xuống thuyền rút lui khỏi trận. Đây là một quyết định làm thay đổi toàn bộ cục diện trận chiến. Nguyễn Cảnh Dị thấy cánh quân Nguyễn Suý rút, cũng cho quân rút theo. Vòng vây mà quân Hậu Trần đã dày công toan tính bỗng chốc bị thủng hai mảnh lớn. Thuyền quân Minh từ trong sông thừa thế tràn ra khắp mặt biển, hình thành thế bao vây ngược lại.

Bấy giờ đội thuyền dưới trướng phò mã Hồ Bối còn đang chiến đấu ở gần trong nội thuỷ, phút chốc bị thuyền quân Minh dày đặc vây quanh, che cả lối thoát ra biển. Thấy thế không thể thủ thắng nổi nữa, Hồ Bối nhanh trí lệnh cho quân mình bỏ thuyền lên bờ, rút lui theo đường rừng. Quân Minh không đuổi theo các hướng quân Hậu Trần rút lui mà dồn hết lực lượng nhắm vào khối quân của Đặng Dung mà đánh diệt. Đặng Dung cùng các chiến sĩ dưới trướng bị đồng đội bỏ rơi lại, đơn độc chiến đấu giữa muôn trùng vây quân Minh.

Giữa tình cảnh thập tử nhất sinh, Đặng Dung cùng thuộc hạ chỉ còn cách liều chết mở một con đường máu phá đột phá vòng vây, thoát ra biển để rút về phương nam theo đồng đội. May thay, vòng vây của quân Minh vẫn chưa thể khép kín ngay được mà vẫn còn những khoảng trống phía ngoài mặt biển. Đặng Dung cùng quân sĩ tả xung hữu đột, rốt cuộc cũng thoát được ra biển mà rút về nam. Trương Phụ đắc thắng thúc quân giương buồm đuổi theo truy kích sát rạt, dùng câu liêm móc các thuyền quân ta lại để đánh giết. Đặng Dung phải dùng thuyền nhẹ chèo nhanh để thoát. Quân sĩ dưới trướng Dung vốn đã mệt mỏi vì trận chiến, vừa xả thân đánh chặn cho chủ tướng vừa rút theo sau. Nhiều người ngã xuống dọc đường rút khỏi trận địa, tình cảnh vừa bi vừa hùng. Sau hồi truy đuổi, Trương Phụ hạ lệnh thu quân để tổ chức lại lực lượng trước khi tiếp tục cuộc tiến công vào Thanh Hoá, Nghệ An.
2.
Kết quả và nhận định

Trận này diễn ra từ sáng sớm ngày 6.9 đến tận trưa ngày 7.9.1412, đánh liên tục không ngừng nghỉ. Quân Hậu Trần bị thiệt hại hàng ngàn quân, nhiều thuyền bị đắm và bị giặc cướp. Minh Thực Lục chép rằng có hơn 1.000 quân và 75 tướng Hậu Trần bị bắt trong trận. Trong số đó có những tướng lĩnh cao cấp là Dực vệ Đại tướng quân Trần Lỗi, Long hổ Tướng quân Đặng Nhữ Hý, tướng Lê Mục, tướng Nguyễn Lâm… Về thiệt hại của quân Minh không có sách sử nào thống kê cụ thể, nhưng qua diễn biến gay cấn có lẽ cũng không dưới con số hàng ngàn. Một điều may mắn cho nhà Hậu Trần là phần nhiều quân ta vẫn thoát khỏi trận địa sau cuộc ác chiến, khiến cho kế hoạch đánh nhanh diệt gọn chủ lực nhà Hậu Trần của Trương Phụ không thực hiện được.

Trận Mô Độ có thể nói là một trận đánh mà quân Hậu Trần thể hiện cả những mặt ưu việt nhất cũng như những điểm yếu cố hữu của mình. Có thể thấy rằng, quân ta có tinh thần và kỷ luật rất cao, kỹ năng chiến đấu rất tốt. Đến cả sử nước Minh cũng phải công nhận “khí thế giặc rất tinh nhuệ”. Dù vậy, điểm yếu của quân Hậu Trần là họ không có một nền tảng cơ bản trong hiệp đồng tác chiến, thiếu các phương án dự phòng nên khi phối hợp với nhau trên chiến trường thì các tướng hành động không thống nhất. Trong khi người này đang quyết tử chiến, thì người kia lại muốn rút lui bảo toàn lực lượng. Khi lâm trận, các cánh quân cách nhau ngoài khoảng nghe thấy tiếng chiêng trống là hầu như mạnh tướng nào nấy đánh.

Sâu xa hơn, quân đội Hậu Trần bấy giờ thiếu một vị tổng chỉ huy có uy tín vượt trội để điều hành toàn bộ các tướng quân khác. Trong sách sử thường ghi chép về quân của Trùng Quang khi đánh lớn thường được chỉ huy bởi ba bốn tướng soái. Nghe qua có vẻ đông đúc, nhưng kỳ thực là thiếu chỉ huy chung nhất. Các tướng chỉ huy như một hội đồng, có lợi khi thảo luận kế hoạch nhưng thiếu đi sự linh hoạt trong tác chiến. Điều này khác với thời mà Đặng Tất còn tại thế. Lúc đó, ông là người có uy tín để chỉ huy toàn bộ quân tướng, giống như Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt thưở trước. Quân Hậu Trần lúc đó muôn người như một, hành động nhất quán như tay chân trong cơ thể. Đó là điều mà quân Hậu Trần dưới thời vua Trùng Quang không có được.

Quân Minh sau khi thắng trận, tràn vào Thanh Hoá như thác lũ. Trương Phụ đi đến đâu là đánh giết tàn bạo. Quân Hậu Trần thì rút về Diễn Châu, Nghệ An sốc lại lực lượng, quyết tâm chiến đấu đến cùng với giặc dữ.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-2sUHGVOgCPI/XVoLsd0ceYI/AAAAAAACIm4/30j9llVIP9UDlXVxHO2aPqb0YBPukfkkwCLcBGAs/s640/100.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 101

NHÀ MINH ĐỔI TƯỚNG THÊM TỘI ÁC
VUA TRẦN NAM TIẾN TÍNH KÊ LÂU DÀI


Sau khi bại trận tại Mô Độ, nhà Hậu Trần đã mất đi một chốt chặn thuỷ quân nước Minh tiến xuống theo đường biển, cửa ngõ tiến vào Thanh Hoá cũng mở toang trước mắt quân Minh. Nhiều nơi ở phía bắc Thanh Hoá rơi vào tay giặc mà hầu như không có sự kháng cự nào đáng kể. Quân Hậu Trần tập trung về giữ Nghệ An là đất căn bản của nhà Hậu Trần lúc bấy giờ, nơi mà Trùng Quang đế đóng hành doanh.

Quân Minh tuy thắng trận nhưng cũng chưa dễ dàng tung ra đòn kết liễu. Để có được chiến thắng tại Mô Độ, giặc đã chịu những tổn thất không nhỏ về nhân mạng và thuyền bè. Đến khi tiến quân vào Thanh Hoá thì nhân dân rủ nhau trốn tránh, bất hợp tác, và kháng cự quyết liệt khiến quân Minh mất đi đáng kể nguồn hậu cần tại chỗ từ việc cướp bóc, trưng thu lương thực trong dân. Trong khi đó thì ở Nghệ An, quân Hậu Trần đã kịp tổ chức tuyến phòng thủ mới. Trước tình hình đó, Trương Phụ đã lệnh cho nguỵ quan các xứ Tam Giang, Tuyên Hoá điều động nguỵ quân, dân chúng đóng thêm chiến thuyền để bù đắp vào thiệt hại trước đó và tăng cường thêm sức mạnh thuỷ quân. Có lẽ sau trận chiến tại Mô Độ, Trương Phụ càng nhận thức rõ sự tinh nhuệ của thuỷ quân nhà Hậu Trần.

Chiến sự tại Đại Việt lúc này ưu thế đang nghiêng về quân Minh dưới sự chỉ huy của Trương Phụ, nhà Hậu Trần chỉ còn đủ sức giữ lấy phần đất từ Nghệ An trở vào nam. Thế nhưng quân Minh vẫn chưa đủ điều kiện để diệt được nhà Hậu Trần. Trương Phụ càng dẫn quân tiến sâu về phía nam, việc tiếp tế lương thực cho đạo quân đông đúc của hắn càng trở nên khó khăn. Thêm nữa, nguy cơ vùng Kinh lộ thừa lúc quân Minh đi đánh xa mà vùng lên vẫn luôn hiện hữu. Tình hình này khiến cho vua Minh là Chu Đệ nóng lòng. Vì vậy, hắn đã quyết định gửi thêm quân tiếp viện và nhiều quân lương để sớm kết thúc cuộc chiến, hoàn toàn khuất phục dân tộc Việt.

Đầu mùa thu 1412, tướng Minh là Hàn Quang, chức Hữu quân đô đốc đồng tri nhận lệnh vua Minh mang ấn “Chinh Nam tướng quân”, đem 1 vạn hộc lương và viện binh sang tăng cường cho Trương Phụ. Hàn Quang được phong chức Tổng binh, là chức quan mà Minh triều phong cho những tướng soái cầm quân đi đánh xa. Chức Tổng binh cũng là chức mà Trương Phụ trước đó đã được phong. Điều này cho thấy rằng những diễn biến chiến sự ở Đại Việt đã khiến cho vua Minh không hài lòng về Trương Phụ. Dù vậy, mọi diễn biến về sau cho thấy trên thực tế Trương Phụ vẫn là tướng soái chỉ huy chung nhất của quân Minh ở chiến trường Đại Việt.

Đồng thời với việc tăng cường quân tiếp viện và lương thực cho việc đàn áp, Chu Đệ tiếp tục dùng chính sách chiêu dụ. Vua Minh xuống chiếu “dạy dỗ” những nguỵ quan và ru ngủ quân dân, kỳ lão nước ta :

“Trẫm vâng mệnh trời, thống trị thiên hạ, chỉ mong cho dân thiên hạ được yên ổn, Giao Chỉ ở xa tận ven biển, xưa là đất của Trung Quốc, nay đã lại như cũ, binh lính và dân chúng theo về giáo hoá đến nay đã mấy năm rồi, đã đặt mục, bá, thú, lệnh và quân, vệ, ty, chọn dùng những người trung lương, hiền năng để vỗ trị. Trẫm sớm khuya nghĩ đến, còn lo rằng đất xa dân đông, giáo hoá có chỗ không thấu tới, không được thấm ơn trạch yêu thương, nuôi nấng của nhà nước.

Nay bọn các ngươi đều là bề tôi trung lươmg, phải thể lòng kính trời thương dân của trẫm, hưng lợi trừ hại cho dân, thuận theo lòng yêu ghét của dân mà trừ bỏ mối gian tệ cho dân. Dạy dân cày ruộng, trồng dâu, khiến cho không trái thời vụ thì áo mặc, cơm ăn có chỗ trông cậy. Dạy dân bằng hiếu, để, trung, tín, khuyên dân điều lễ nghĩa, liêm sĩ, thì phong tục sẽ tốt lành. Khi tang ma, hoạn nạn thì thương xót giúp đỡ lẫn nhau. Lúc khốn cùng long đong thì chu cấp phù trì cho nhau. Người già phải dạy con trẻ, kẻ dưới phải kính bề trên, ai nấy phải thuận theo bản tính, không được làm trái với lễ. Chớ có làm trộm cướp, chớ có đi lừa dối, chớ múa may văn chương mà đùa với luật pháp, chớ theo ý riêng mà bỏ lẽ công, muốn cho dân chúng an cư lạc nhgiệp, mãi mãi là dân trời vô sự, để cùng vui thời thịnh trị thái bình, thì bọn các người phải thận trọng với chức vị của mình, làm tròn công việc của mình, theo được đức y thay trời nuôi dân của trẫm, để có thể sánh vai với những bậc thuần lương đời xưa, tên tuổi chiếu sáng sử xanh, thế chẳng tốt đẹp lắm sao !” (!?) (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)

Về mặt văn chương và ý tứ của vua Minh, có thể nói là một văn bản đầy lời lẽ tốt đẹp. Thế nhưng trên thực tế đây vẫn chỉ là một thủ đoạn chính trị quen thuộc. Và trước những hành động thực tế hoàn toàn trái ngược với những tờ chiếu dụ, cũng chẳng mấy người nước ta tin vào lời của vua Minh. Một số kẻ đã rắp tâm làm tay sai cho giặc thì chẳng qua để mưu cầu danh lợi. Một số khác, phải luồn cúi trước cửa quân nước Minh cũng chỉ để giữ thân cầu sống, tìm kiếm sự yên ổn chứ chẳng ai thiết tha gì với những lời rao giảng về nhân nghĩa giả trá của giặc.

Lại nói Hàn Quang khi đem quân tiến sang Đại Việt, đã đóng đại quân ở thành Đông Quan để giữ vững mặt sau cho Trương Phụ có thể dốc toàn lực tấn công nhà Hậu Trần. Được sự hậu thuẫn của quân tiếp viện ở tuyến sau, tháng 10.1412 Trương Phụ cất quân vào đánh Nghệ An, Diễn Châu. Đúng với bản chất giả trá tàn bạo, trong khi những văn bản chiêu an của vua Minh còn chưa ráo mực thì quân Minh dưới trướng Trương Phụ đi đến đâu là tàn sát, cướp bóc man rợ đến đó. Việc cướp giết của giặc vừa để trả thù nhân dân các xứ Thanh Nghệ đã đóng góp nhiều cho nhà Hậu Trần, vừa để khủng bố tinh thần quân dân cả nước.

Vua Trùng Quang nhận thấy lực lượng quá chênh lệch nên phải cùng các tướng bỏ Nghệ An, đem đại quân tiếp tục vượt biển lui về nam. Thiếu bảo Phan Quý Hữu cùng một số tướng lĩnh được giao nhiệm vụ lưu thủ Nghệ An để cầm chân Trương Phụ. Quân Minh tiến đánh Phan Quý Hữu ở sông Ác, huyện Thổ Hoàng, phủ Nghệ An (tức sông Ngàn Sâu, Hương Khê, Hà Tĩnh ngày nay). Phan Quý Hữu không đánh nổi quân Minh, rút lên núi Khả Lôi cố thủ. Trương Phụ đem quân bao vây núi. Phan Quý Hữu có quân tinh nhuệ trong tay nhưng không có lòng quyết chiến, sai con là Phan Liêu đến gặp Trương Phụ xin hàng. Phụ chấp thuận, cho Phan Quý Hữu làm Tri phủ Nghệ An, Phó sứ ty Án sát Giao Chỉ.

Trước đây, Phan Quý Hữu cùng Đặng Tất đều làm quan nhà Hồ, thế lực có thể gọi là tương đương nhau. Đến khi nhà Hồ sụp đổ, cả hai họ Đặng và họ Phan đều phải theo hàng quân Minh. Sau đó Đặng Tất phò vua Giản Định, chiêu hàng được Phan Quý Hữu về với nhà Hậu Trần. Quý Hữu tuy hàng Hậu Trần, cũng chỉ là làm tròn vai để mong được yên ổn. Vua Trùng Quang phong chức cao, chẳng qua vì nể nang thế lực Phan gia. Chính vì có lý lịch hay trở cờ như thế nên thật dễ hiểu với hành động đầu hàng của Phan Quý Hữu.

Vì nhà vua đã bỏ Nghệ An vào nam và tướng có quân đông mạnh nhất là Phan Quý Hữu đã hàng, nên các tướng quân còn lại của nhà Hậu Trần càng dễ dàng dao động. Một loạt tướng lĩnh theo gót Phan Quý Hữu đầu hàng Trương Phụ gồm có Trần Mẫn, Nguyễn Sĩ Cần, Trần Toàn Úc, Trần Toàn Mẫn, Trần Lập, Nguyễn Sảng, Nguyễn Yểm, Nguyễn Điệu… Điều này cho thấy tình cảnh bi đát của nhà Hậu Trần. Và nó cũng thể hiện được rằng nhà Hậu Trần được xây dựng từ những nền tảng không vững chắc. Các thế lực quân phiệt địa phương có sự tự trị rất cao. Một khi nhà vua không còn đủ sức để chế ngự, thì không có gì đảm bảo cho lòng trung thành của các đầu mục. Mất đi vùng đứng chân quan trọng là hai xứ Thanh – Nghệ, vua Trùng Quang đế chỉ còn lại các xứ phương nam là Tân Bình, Thuận Châu, Hoá Châu. Các nơi này xét về nhân lực, vật lực đều rất khiêm tốn không đủ sức để cho nhà Hậu Trần dựa vào mà tiếp tục cuộc chiến dai dẳng với quy mô khá lớn. Tuy nhiên bất chấp những điều đó, Trùng Quang đế cùng một số tướng lĩnh kiên cường và những chiến binh dũng cảm vẫn kiên quyết chiến đấu đến cùng với quân Minh. Nhà Hậu Trần vẫn chưa dừng lại hành trình viết lên những trang sử bi tráng của mình.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-zNulwTpnwCE/XWza76t_nEI/AAAAAAACI0Y/okzxEDnQMRQAU3UUDbGxsreZ4z4YmhfrwCLcBGAs/s640/101.png

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 102

BỊ NGUYỄN BIỂU NHỤC MẠ
TƯỚNG MINH HÀNH XỬ ĐÁNG KHINH BỈ


Cuối năm 1412, tình thế của nhà Hậu Trần đã như ngọn lửa dần tàn trước sức tấn công dồn dập của quân Minh. Vua Trùng Quang đế đã để mất các xứ Thanh Hoá, Nghệ An, Diễn Châu vốn là đất căn bản cung cấp nhiều nhân tài, vật lực cho cuộc kháng chiến. Hoá Châu tuy cũng là một hậu phương đã đóng góp rất đáng kể cho nhà Hậu Trần thưở ban đầu, nhưng bấy giờ lại quá nhỏ bé so với nhu cầu của một cuộc chiến quy mô lớn và dai dẳng.
Trương Phụ lúc này đang đắc thắng, đã ráo riết chuẩn bị mở cuộc tấn công quyết định vào đất Hoá Châu, một trận mà tận diệt quân Hậu Trần. Nhưng đang lúc chuẩn bị thì một lần nữa hắn lại phải nhận hung tin. Tại xứ Lạng Sơn, một cuộc khởi nghĩa lớn đã nổ ra dưới sự lãnh đạo của Nông Văn Lịch. Quân khởi nghĩa đã nắm quyền kiểm soát một địa bàn quan trọng nằm trên tuyến đường tiếp tế của quân Minh từ trong nước sang nước ta. Việc này rất hệ trọng đối với quân viễn chinh của Trương Phụ. Quân Minh tiến vào Nghệ An, đã là khá xa những nguồn tiếp tế chính. Một khi đem quân vào Hoá Châu, việc tiếp tế sẽ càng tốn kém, khó khăn hơn nữa và quân Minh cũng chẳng thể dễ dàng chiến thắng. Nguy cơ bị cầm chân và thiếu lương thực đang hiện hữu đối với đoàn quân của Trương Phụ.

Vì lẽ đó, Trương Phụ một lần nữa buộc phải dẫn quân quay trở về bắc để dập tắt những sự kháng cự. Mặc dù lúc này tại thành Đông Quan đã có quân của Hàn Quang đóng giữ để đàn áp phong trào khởi nghĩa ở đồng bằng sông Hồng và phụ cận, nhưng điều đó cũng chỉ đủ cho quân Minh đảm bảo trị an ở những nơi gần thành Đông Quan mà thôi. Quân dân ta vẫn tạo một sức ép rất lớn lên quân Minh đồn trú và các lực lượng nguỵ quyền trên khắp lãnh thổ. Nông Văn Lịch với lối đánh xuất quỷ nhập thần, đã nhiều phen tập kích bắt giết nhiều quân Minh trên tuyến đường Lạng Sơn – Đông Quan.

Bấy giờ tên tay sai Mạc Thuý – người trước kia rất tích cực đón rước giặc Minh vào diệt nhà Hồ và giúp cho giặc đặt nền cai trị lên nước ta, đã được Minh triều phong cho chức Tham chính. Cuối năm 1412, Mạc Thuý theo lệnh giặc dẫn quân lên đánh Nông Văn Lịch. Nghĩa quân chiếm lấy chỗ hiểm mai phục chờ sẵn. Mạc Thuý đem quân tiến sâu vào núi, Nông Văn Lịch chỉ huy quân dùng cung tên tẩm thuốc độc chống trả mãnh liệt. Quân giặc bị thiệt hại nặng nề, Mạc Thuý trúng tên thuốc độc chết ngay tại trận. Tên đầu sỏ phản dân hại nước rốt cuộc đã phải đền tội, chẳng những vậy còn bị sử sách bêu tên, nhân dân nguyền rủa đến muôn đời.

Đã có lúc Nông Văn Lịch nổi lên như một nhân vật kiệt xuất nhất trong đám anh hùng hào kiệt các xứ phía bắc. Tiếc thay, vị thủ lĩnh này tuy có tài năng quân sự nhưng lại không đoan chính trong lối sống. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép rằng vì Nông Văn Lịch quan hệ bất chính với vợ của thuộc cấp, nên bị binh sĩ dưới quyền làm phản giết chết. Cuộc khởi nghĩa vì thế cũng rơi vào thoái trào.

Ngoài cuộc khởi nghĩa Nông Văn Lịch, còn có cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Liễu ở Hà Nam cũng là phong trào khá lớn khiến cho quân Minh nhiều phen khốn đốn. Nguyễn Liễu nổi lên ở Lý Nhân (Hà Nam), sau mấy năm trời chiến đấu đã thu hút được một lực lượng lớn hoạt động ở khắp các vùng Lý Nhân, Lục Na (Bắc Giang), Vũ Lễ (Thái Nguyên)… tạo thành một thế vòng cung ngăn chặn đường đi lại của quân Minh từ Đông Quan toả đi các hướng. Quân Minh nhiều lần đánh dẹp không được bèn tìm cách mua chuộc. Tham nghị Nguyễn Huân vờ kết thông gia. Liễu không đề phòng, tự thân đi đến chỗ Nguyễn Huân và bị giặc bắt giết. Trong năm 1412 - 1413, vẫn còn những cuộc khởi nghĩa khác mà quân Minh chưa thể đàn áp nổi. Trong số đó có Lưu Phụng khởi nghĩa ở Quảng Oai, Giáp Giang ở Lạng Sơn, Phạm Khang ở Phù Lưu (thuộc Hà Nội ngày ngay), Trần Nguyên Hiến ở Tam Đái (Vĩnh Phú) …

Các cuộc khởi nghĩa ở đồng bằng sông Hồng và trung du phía bắc đã một lần nữa giúp giải toả áp lực cho nhà Hậu Trần. Lúc này, quân Hậu Trần đã bị hao tổn rất nhiều sau liên tiếp những trận chiến lớn nhỏ với quân Minh, lại bị thiếu thốn lương thực vì để mất đất đứng chân Thanh Nghệ. Tận dụng thời cơ Trương Phụ phải đem quân về bắc khai bảo vệ nguồn hậu cần, vua Trùng Quang cùng các tướng sĩ từ Hoá Châu đã đem quân trở lại đánh chiếm phần lớn Nghệ An, Diễn Châu một cách nhanh chóng. Biết rằng không thể ngồi yên một chỗ để chờ Trương Phụ đem quân trở lại đánh, Trùng Quang đế quyết định chủ động đem thuỷ quân tấn công ra bắc.

Đầu năm 1413, Trùng Quang đế cùng các tướng Nguyễn Suý, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung dẫn thuỷ quân vượt biển đánh vào Vân Đồn, Hải Đông để cướp phá lương thực của quân Minh ở trong các đồn trại và  đánh cướp các thuyền buôn của giặc bấy giờ đang chở thóc lúa từ nước ta về bán ở trong nước Minh. Cuộc hành quân này rất gian khổ, kéo dài từ tháng giêng đến tháng ba Âm lịch năm 1413, đã giúp cho quân Hậu Trần giải quyết được vấn đề lương thực. Thế nhưng tình cảnh bấy giờ chẳng mấy khả quan. Vua Trùng Quang đế chỉ còn lại ba bốn phần mười quân lực so với lúc cực thịnh của quân Hậu Trần.

Khoảng tháng 5.1413, Trương Phụ lại dẫn quân trở vào đánh Nghệ An. Vua Trùng Quang binh ít không địch nổi, lại phải bôn ba vào lại Hoá Châu thủ hiểm. Trương Phụ xét thực lực chưa thể tấn công ngay vào Hoá Châu, lại cho dừng quân chuẩn bị khí cụ, thuyền bè, lương thực. Trùng Quang đế vào Hoá Châu rồi, sai Nguyễn Biểu làm sứ giả đến doanh của Trương Phụ xin đem lễ vật sang Minh cầu phong. Việc này là kế hoãn binh của Trùng Quang đế, nhưng rõ là rất vụng về bởi Trương Phụ là tên tướng không thể nói chuyện bằng lý lẽ được. Nhận lệnh của vua, Nguyễn Biểu chẳng từ nan để đi vào tử địa. Biểu đem lễ vật đến Nghệ An, Trương Phụ đã dùng thủ đoạn man rợ để làm nhục chí sứ giả nhà Hậu Trần. Phụ sai quân lấy đầu người nấu làm cỗ tiệc để “thiết đãi” sứ giả. Ắt hẳn đó là đầu của tử sĩ hay người dân vô tội nào đó đã không may bị giặc dày vò. Nguyễn Biểu cố giữ khí thế, tỏ ra không sợ hãi, vừa ăn tiệc đầu người vừa làm thơ ứng khẩu, còn nói to: “Chẳng mấy khi được ăn cỗ đầu người bắc”. Câu đó ngầm nói lên lòng căm thù và không sợ hãi trước giặc mạnh.

Khi vào tiếp sứ, Nguyễn Biểu đem chuyện cầu phong ra bàn nhưng Trương Phụ đều bác bỏ. Thấy Nguyễn Biểu ứng đối trôi chảy, Phụ vừa phục tài vừa e ngại, nên giữ không cho Nguyễn Biểu ra về. Nguyễn Biểu không kìm được cơn giận dữ, mắng chửi Trương Phụ thậm tệ: “Trong bụng toan tính việc đánh chiếm nước người ta, ngoài mặt lại phô trương là quân nhân nghĩa, trước nói lập con cháu họ Trần, bây giờ lại đặt quận huyện, không những cướp bóc của cải, lại còn giết hại nhân dân, mày thật là thằng giặc bạo ngược” (theo Cương Mục).

Trương Phụ nghe xong nổi giận đùng đùng, sai lính đem Nguyễn Biểu đem trói dưới chân cầu Lam Kiều cho nước thuỷ triều dìm chết. Việc Nguyễn Biểu đi sứ là giai thoại khá nổi tiếng trong sử Việt. Người ta không trách Nguyễn Biểu không làm nên công trạng mà chỉ nể phục khí khái và thương tiếc cho số mệnh của ông. Trùng Quang đế lấy một Nho sĩ vào trại giặc lúc đang thất thế để mong đàm phán thật là hạ sách, phỏng có ích gì !? Nguyễn Biểu đi sứ, cố giữ tròn khí tiết, không sợ bị giặc giết. Thương thay!

Tháng 6.1413, Trương Phụ muốn đánh dẹp triệt để nhà Hậu Trần nhưng vẫn ngán ngại Hoá Châu hiểm trở và ở xa. Phụ hỏi Phan Liêu là con của Phan Quý Hữu về nội tình nhà Hậu Trần. Liêu đem hết chuyện tướng tá Hậu Trần ai hay ai dở, núi sông Hoá Châu chỗ nào hiểm chỗ nào bằng, binh lực mạnh yếu thế nào nói hết cho Trương Phụ biết. Bấy giờ Trương Phụ mới hạ quyết tâm đánh vào Hoá Châu, cho họp các tướng lại để bàn kế sách.
Mộc Thạnh nói : “Hoá Châu núi cao biển rộng, chưa dễ lấy được”.

Phụ nói:
“Tôi sống được cũng là vì Hoá Châu, có làm ma cũng là vì Hoá Châu. Hoá Châu mà chưa dẹp được, tôi còn mặt mũi nào trông thấy chúa thượng nữa !”.

Trương Phụ cố chết lo tròn đạo trung thần, mà không nghĩ đến hoạ phúc của muôn dân. Bàn định xong xuôi, quân Minh hăm hở tiến đánh Hoá Châu…

Quốc Huy
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 103

ĐẶNG DUNG DÙNG TƯỢNG BINH
ĐẠI PHÁ THUỶ QUÂN MINH


Tháng 8.1413, Trương Phụ đem binh hùng tướng mạnh nước Minh vào đánh Hoá Châu (Thừa Thiên Huế ngày nay) nơi cùng trời cuối đất của nước Đại Việt thời bấy giờ, nơi là vua Trùng Quang đế đã cùng các tướng sĩ trung kiên của mình quyết tâm thủ hiểm mà chiến đấu đến cùng.

Quân Minh từ Nghệ An đi thuyền vượt biển đánh vào cửa biển Nhật Lệ, cửa ngõ tiến vào đất Hoá Châu. Quân Hậu Trần lúc này chỉ còn quân số ít hơn quân Minh gấp mấy lần, lại ít lương thảo, khí giới. Trước tình hình đó, quân ta áp dụng chiến lược kéo giãn thời gian, vừa đánh vừa lùi dần để mong có thể đưa quân Minh vào thế dằn do kéo dài, gây khó khăn cho tiếp tế của giặc và khiến chúng mệt mỏi. Các tướng Hậu Trần thiết lập một loạt phòng tuyến che chắn cho thành Hoá Châu gồm phòng tuyến cửa Nhật Lệ, phòng tuyến sông Trà Bát, sông Trà Kệ… Trương Phụ thúc thuỷ quân đánh mạnh, quân ta vừa đánh cầm chừng vừa lùi dần. Sau một thời gian giao chiến, quân Minh đã kéo đến trước thành Hoá Châu mà bày trận công thành. Quân Hậu Trần chỉ cầm cự một thời gian ngắn trước khi rút quân khỏi thành. Quân Minh nhanh chóng chiếm được thành Hoá Châu, nhưng quân Hậu Trần đã thoát hiểm trong cuộc vây ráp của giặc bằng một cuộc hành quân khéo léo. Vua Trùng Quang đế được các tướng hộ tống theo đường biển dong thuyền ngược lên phía bắc, đổ bộ vào đất Thuận Châu (Quảng Trị ngày nay) , dựa vào thế núi rừng để ém quân và nghe ngóng chờ đợi quân Minh sơ hở.

Tháng 10.1413, Trương Phụ đã chiếm được Hoá Châu nhưng vẫn chưa bắt được vua Trùng Quang như dự tính. Đến khi hay tin quân Hậu Trần đã xâm nhập trở lại đất Thuận Châu, bèn lập tức điều quân đi ngược ra phía bắc, tấn công Thuận Châu. Nhà Hậu Trần tuy thất thế vẫn kiên trì bàn định mưu kế hòng đảo ngược tình thế. Nắm được tin tức hành quân của quân Minh, Nguyễn Suý cầm quân thuỷ bộ lập phòng tuyến tại cảng sông Sái Già (Ái Tử, Triệu Phong, Quảng Trị ngày nay) để ngăn giặc. Đặng Dung thì ém quân mai phục ở gần đó chờ thời cơ.

Một ngày cuối thu, quân Minh hành quân đến vùng sông Sái Già, đụng trận với quân của Nguyễn Suý. Hai bên đối mặt đánh nhau từ sáng đến tối chưa phân thắng bại. Mệt mỏi vì các đợt hành quân và chiến đấu liên tục, Trương Phụ sai quân hạ trại nghỉ ngơi. Trương Phụ cùng thuỷ quân Minh quây thuyền lập thuỷ trại ngay giữa sông. Tướng Hoàng Trung dựng trại trên bờ cùng bộ binh. Trời về đêm không trăng, cách nhau trong gang tấc không rõ mặt. Doanh trại quân Minh đèn đuốc sáng rực khắp một vùng sông nước.

Nhận thấy thời cơ đã điểm, Đặng Dung âm thầm dẫn binh thuyền cùng tượng binh lợi dụng trời đêm đánh úp quân Minh. Nửa đêm thanh vắng, quân ta tắt hết đèn đuốc tiếp cận trại giặc rồi thình lình tấn công như vũ bão. Bầy voi chiến của nhà Hậu Trần như trên trời rơi xuống khiến cho quân Minh vô cùng hoảng loạn. Khối quân Minh đóng phía bờ sông chịu tổn thất nặng ngay từ đầu. Đoàn thuỷ quân của Đặng Dung bấy giờ không thuyền lớn, không súng đạn, chỉ trang bị nhẹ với thuyền con, gươm giáo mà chí khí ngút trời. Quân ta xả thân xông vào chém giết giặc, nhảy từ thuyền này sang thuyền khác, vừa đánh vừa phóng hoả đốt thuyền bè của giặc. Quân Minh hoàn toàn bất ngờ và bị động với lối đánh tập kích xuất quỷ nhập thần của quân Hậu Trần. Nhiều tên chưa kịp sửa sang khiên giáp đã bị quân ta giết chết. Lúc này thuyền của giặc đang đậu san sát nhau và không sẵn sàng chiến đấu, lần lượt từng chiếc bị thiêu rụi bởi mồi lửa của quân ta. Chẳng mấy chốc, sông Sái Già đã sáng rực một biển lửa.

Các tướng Minh cố gắng điều động số quân còn lại để thiết lập lại trận địa phản kích. Quân ta cũng đã chuẩn bị tinh thần tử chiến vì đó là lợi khí duy nhất để giúp chiến thắng đội quân đông mạnh hơn nhiều, lại rất tình nhuệ. Lúc này chủ tướng Đặng Dung xuất hiện giữa trại quân Minh như một hung thần, tự mình cầm gươm xông pha giữa trận, tả xung hữu đột nhắm thẳng vào soái thuyền của Trương Phụ. Các tướng sĩ Hậu Trần nối bước theo sau, thế không ai chống nổi. Trương Phụ còn đang bận chỉ huy quân tướng của mình tổ chức phản kích thì Đặng Dung đã đánh đến thuyền của hắn. Đặng Dung nhảy sang thuyền của Trương Phụ, lần lượt hạ gục quân cận vệ và lùng giết Trương Phụ. Trời tối khiến cho vị hổ tướng nhà Hậu Trần không thể nhận rõ mặt Trương Phụ, để cho tên tướng già nhanh chân nhảy sang thuyền nhỏ chèo trốn. Quân Minh lúc này đang hoảng loạn, thấy chủ soái bỏ chạy cũng hè nhau chạy theo. Đặng Dung thừa thế thúc quân đuổi gấp.

Thế nhưng đúng lúc này thì trời chuyển rạng đông, quân Minh tưởng chừng đã bại trận lại gặp vận may. Trong ánh sáng ban ngày, đoàn quân của Đặng Dung hiện rõ ra quân số ít ỏi. Trương Phụ là một tướng lão luyện, đang tháo chạy trông lại thấy Đặng Dung quân ít, liền hô quân quay ngược trở lại đánh. Quân Minh có kỷ luật tốt nên theo lệnh chủ tướng đánh quật trở lại. Quân dưới trướng Đặng Dung chiến đấu trong đêm thì hăng hái nhưng không thể địch nổi số đông của giặc khi trời sáng, nhanh chóng để mất thế thượng phong và bị dồn ép vào đường nguy cấp.Đặng Dung dù dũng mãnh cũng không thể làm được việc quá sức mình, cùng quân sĩ rút chạy mỗi người một ngả.

Trận này quân Minh bị thiệt hại rất nặng nề, quân số bị hao tổn đến quá nửa. Thuyền bè, khí giới của giặc cũng bị đốt gần hết. Thế nhưng, dù chỉ còn non nửa quân lực nhưng quân Minh vẫn đông mạnh hơn quân Hậu Trần rất nhiều, nhất là khi quân của Đặng Dung cũng chịu thiệt hại không nhỏ trong trận chiến.

Nguyễn Suý đóng quân ở phòng tuyến lúc đêm thấy động nhưng ngờ vực không chịu đem quân đến hợp lực. Đến khi trời sáng thì quân Minh đã thoát hiểm, lại càng đánh luỹ gấp rút. Nguyễn Suý tiếc mình đã lỡ thời cơ, bèn sai ba tráng sĩ làm thích khách đi ám sát Trương Phụ. Thích khách của Suý cả ba người đều lọt qua vòng canh giữ của quân Minh, vào đến tận thuyền của Trương Phụ. Nhưng tên tướng già đã kịp cảnh giác, thấy động liền hô cận vệ vây bắt. Hai thích khách bị bắt sống, một người lặn trốn được. Kế hoạch ám sát của Nguyễn Suý thất bại vào phút chót. Trương Phụ hụt chết, đem tướng Hoàng Trung ra chém vì tội canh phòng thiếu cẩn mật. Các tướng Minh đều tái mặt. Chẳng lâu sau đó, Nguyễn Suý không chống nổi phải rút bỏ Sái Già, từ đó quân Hậu Trần chỉ còn lẩn tránh trong rừng núi.

Chiến cuộc tại Sái Già là một minh chứng đanh thép về tài dùng binh của Đặng Dung và tinh thần chiến đấu của quân Hậu Trần. Nguyễn Suý tuy phán đoán kém, nhưng cũng đã dùng quân ít ỏi mà cầm chân được quân Minh, tạo thời cơ của Đặng Dung tập kích, có thể gọi là trí tướng. Quân ta chỉ thua trận vì tiềm lực vượt trội của giặc. Kỳ thực từ đầu đến cuối cuộc chiến giữa Trương Phụ và Đặng Dung, tên tướng nước Minh luôn nắm ưu thế về quân số cũng như lương thực, khí giới. Nhận xét về trận Sái Già, Ngô Sĩ Liên đã có những dòng rất hay trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư:

“Trận đánh ở Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Suý, đem tànquân trơ trọi chống lại bọn giặc mạnh, quân tướng đều tinh nhuệ. Dung nửa đêm đánh úp doanh trại giặc làm cho tướng giặc sợ hãi chạy trốn, đốt hết thuyền bè, khí giới của chúng, không phải người thực sự có tài làm tướng, thì có làm được như thế hay không? Thế nhưng cuối cùng vẫn bại vong, đó là do trời. Tuy thất bại, cũng vẫn vinh quang, vì sao vậy?

Bọn Dung vì nghĩa không thể cùng sống với giặc, phải tiêu diệt bọn chúng mới nghe, cho nên mới hết lòng, hết sức giúp đỡ Trùng Quang để mưu khôi phục. Trong khoảng 5 năm, kiên trì chiến đấu với giặc, dẫu có bất lợi, nhưng ý chí không núng, khí thế càng hăng, đến kiệt sức mơí chịu thôi. Lòng trung vì nước của người bề tôi, dẫu trăm đời sau vẫn còn tưởng thấy được!

Ngày xưa nước Lỗ đánh nhau với nước Tề ở đất Can Thì bị thất bại, thánh nhân không vì thua mà kiêng né, lại chép rõ để nêu niềm vinh quang chiến đấu với kẻ thù, chứ không bàn đến việc thành bại. Thế thì trận đánh ở Sái Già, quân Minh bị tan vỡ một nửa, quân ta đến khi sức kiệt mới chịu thua cũng vinh quang lắm thay!”.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-g7ex0QS6wUk/XZguhZQkC5I/AAAAAAACMss/Yy9ym87og1ocJoSGK8Jj9mesG6AvMJ4dACLcBGAsYHQ/s640/103.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 104

GIỮ KHÍ TIẾT, VUA TÔI HẬU TRẦN
KHÔNG THÀNH CÔNG CŨNG THÀNH NHÂN


Trận chiến Sái Già có thể coi là trận chiến quy mô lớn cuối cùng mà quân Hậu Trần có thể làm được để chống quân Minh. Sau trận này, quan tướng Hậu Trần phải phân tán trong núi rừng tây Thuận Châu để trốn tránh sự truy lùng của giặc. Đến đầu năm 1414, quân Minh đã tràn ngập khắp đất Thuận Hoá, chia nhau lùng bắt Trùng Quang đế và quân tướng nhà Hậu Trần.

Bấy giờ vua tôi thất lạc, nhiều binh sĩ Hậu Trần không tìm được đội ngũ, mạnh ai nấy tìm chốn nương thân. Hai tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị cố tìm được nhau, đóng quân tại núi Côn Truyền để tập họp lại lực lượng. Trương Phụ dẫn quân chia đường tấn công vào núi. Đặng Dung cho tượng binh đi đầu, cùng các tướng sĩ từ trên núi đánh xuống. Quân Minh từ dưới núi bắn cung nỏ lên như mưa, tượng binh của quân ta phải chùn bước. Kế đó kỵ binh quân Minh đông như kiến đánh lên, quân Hậu Trần lại tan vỡ, nhiều tướng lĩnh tử trận. Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị mở đường máu thoát khỏi vòng vây, bên mình chỉ còn hơn 700 quân bản bộ trung thành. Dung và Dị bàn nhau rút sang nước Tiêm La (Sukhotai – nay thuộc Thái Lan) để tránh tạm.

Nhưng chẳng mấy chốc truy binh của giặc đã đuổi theo kịp hai ông, tổ chức vây bắt. Hai tướng Hậu Trần cùng binh sĩ ra sức đánh giết giặc rất nhiều, nhưng rồi cũng sức cùng lực kiệt trước số lượng áp đảo hoàn toàn của quân Minh. Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị đều sa lưới quân Minh. Khi giải đến doanh trại của Trương Phụ, Nguyễn Cảnh Dị lập tức mắng vào mặt Phụ : “Tao định giết mày, lại bị mày bắt”. Sau đó ông không ngớt lời chửi rủa thậm tệ. Trương Phụ tức giận không đợi giải về Nguyễn Cảnh Dị về nước Minh, mà giết ông ngay tại chỗ, lại moi gan ăn. Nguyễn Cảnh Dị là một trong những danh tướng hàng đầu của nhà Hậu Trần, đến lúc sa cơ, ông buông lời thoái mạ là cố ý muốn cho giặc giết mình ngay, không muốn sống trong sự giam cầm của giặc.

Về phần Nguyễn Suý sau khi từ mặt trận Sái Già rút quân về núi, lại rút về phía nam chạy sang hướng các nước Chiêm Thành, Chân Lạp. Ông cũng không thoát khỏi sự truy lùng của quân Minh. Tại châu Minh Linh bấy giờ thuộc quyền của nước Chiêm Thành, Nguyễn Suý sa lưới giặc. Vua Trùng Quang đế cùng đoàn tuỳ tùng chạy sang đất Ai Lao, giặc đuổi theo ráo riết, cuối cùng bắt được Trùng Quang tại sách Cập Môn (Khăm Muội, Lào ngày nay). Trương Phụ sai giải Trùng Quang đế, Nguyễn Suý, Đặng Dung cùng các tướng Hậu Trần khác về nước Minh xử trí. Trên thuyền sang Yên Kinh nước Minh, vua Trùng Quang đế nhảy xuống biển tự vẫn. Đặng Dung cũng nhảy theo vua cùng chết. Nguyễn Suý thì không chết theo vua ngay, mà tìm cách gạ gẫm viên quan áp giải chơi cờ với mình. Trong lúc đánh cờ, Suý lấy bàn cờ đập viên quan áp giải nước Minh một phát chết tươi, rồi mới nhảy xuống biển tự vẫn.

Nhà Hậu Trần bắt đầu từ vua Giản Định đế dựng cờ khởi nghĩa năm 1407 đến khi vua Trùng Quang bị giặc bắt đầu năm 1414, tổng cộng được 7 năm. Đây cũng là quãng thời gian mà người Việt từ vua đến dân chinh chiến không ngừng để mong đánh đuổi giặc Minh. Các bộ sử xưa coi nhà Hậu Trần là một triều đại nối tiếp sau nhà Hồ, cũng là vẫn công nhận sự tồn tại của nước Đại Việt sau khi giặc Minh đánh bại họ Hồ. Chỉ sau khi Trùng Quang đế thất bại mới tính vào kỷ thuộc Minh. Riêng các sách sử hiện đại lại chỉ coi nhà Hậu Trần là một  phong trào khởi nghĩa lớn, còn kỳ thuộc Minh tính từ khi nhà Hồ kháng chiến thất bại.
Cả hai trường phái nhìn nhận này điều đó lý lẽ riêng của mình. Công nhận nhà Hậu Trần là một triều đại phong kiến chính thức trong lịch sử Việt Nam là vì vua Hậu Trần thực sự là vua danh chính ngôn thuận được hầu hết nhân dân cả nước thời đó tin theo, và thực tế đã duy trì chủ quyền thường xuyên trên một vùng lãnh thổ rộng lớn từ Thanh Hoá trở vào, nhiều lúc kiểm soát cả những vùng lớn thuộc đồng bằng sông Hồng. Không công nhận nhà Hậu Trần là vì quân Hậu Trần chưa bao giờ chiếm được thành Đông Quan – thủ phủ của nước Đại Việt,  cũng như chưa hề đánh đổ được ách đô hộ mà quân Minh đã thiết lập từ sau cuộc chiến Minh – Đại Ngu (1406 – 1407).

Mặc dù quan điểm của giới sử các đời có khác biệt, nhưng hầu hết đều bày tỏ sự thương tiếc, nể phục ý chí của Trùng Quang đế và các tướng sĩ Hậu Trần. Vua tôi Trùng Quang nhà Hậu Trần không chấp nhận sự dày vò trong tay giặc mà chọn cho mình một cái chết trong danh dự. Điều này hoàn toàn khác với cha con nhà Hồ Quý Ly đã chấp nhận trông chờ vào sự xót thương của giặc. Tuy thất bại, nhưng thanh danh của Trùng Quang đế và các danh tướng Hậu Trần luôn mãi rực sáng với sử xanh, được nhiều thế hệ người Việt tôn thờ. Đặc biệt ngoài sự tôn kính và biết ơn, sử sách còn dành cho vua tôi Trùng Quang đế lòng thương cảm sâu sắc vì ý chí vượt qua nghịch cảnh của họ, vì một sự nghiệp khôi phục sơn hà.

Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên đã có những dòng đầy thương tiếc khi bắt đầu chép đến thời kỳ vua Trùng Quang: “Vua gặp thời loạn lạc, gắng chí mưu việc khôi phục. Nhưng vì trời không giúp nhà Trần nữa, nuốt hận mà chết. Thương thay!”

Khi Ngô Sĩ Liên chép xong những dòng cuối cùng về nhà Hậu Trần, sử gia lại tiếp tục có những nhận xét đầy tiếc nối và cảm thông: “Trùng Quang Đế lấy quân một lữ để mưu khôi phục đất nước trong lúc loạn lạc lưu ly, ví như dùng một cây gỗ để chống giữ ngôi nhà lớn đã đổ, chả lẽ không biết rằng thế không thể cứu vãn được nữa hay sao? Nhưng hãy làm hết bổn phận nên làm, ngõ hầu có thể vãn hồi được thiên mệnh !Còn như khi bị giặc bắt đem về, giữ nghĩa không chịu nhục, cam lòng nhảy xuống biển mà chết để cùng mất với nước, thực đúng là “quốc quân chết vì xã tắc”. Các bề tôi của ngài như Cảnh Dị chửi giặc mong cho chúng giết ngay mình, Nguyễn Biểu kể tội ác của giặc rồi chết, đều là những người đáng ca ngợi cả.”

Khen ngợi chí khí của các bậc anh hùng nhà Hậu Trần rồi, Ngô Sĩ Liên cũng không quên chê trách những kẻ phản thần: “ … Chỉ có Hồ Ngạn Thần đi sứ làm nhục mệnh vua, đã bị giết rồi. Phan Liêu đem tình hình mạnh yếu trong nước đi báo cho giặc, tuy được thoát chết trong một thời, nhưng sau lại bị Thái Tổ Cao Hoàng Đế ta (tức vua Lê Thái Tổ Lê Lợi) giết chết. Than ôi, người làm tôi trung với nước tuy chết vì nghĩa không có tội gì, mà để lại tiếng thơm mãi mãi, còn bọn bất trung phản quốc, không khỏi tránh khỏi chết, lại còn để tiếng xấu ngàn năm, thực đúng như thế.”

Các sử gia thời kỳ phong kiến chịu ảnh hưởng nặng tư tưởng Thiên Thời, Thiên Mệnh nên khá nhất quán về nhận định cho rằng nhà Hậu Trần thất bại là do trời không giúp, hay nói cách khác là không gặp thời. Như sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục nhà Nguyễn có nhận xét ngắn gọn về trận Sái Già: “Trời nuông Trương Phụ”. Nói rằng nhà Hậu Trần thất bại do không gặp thời, không gặp may thì không hẳn sai, nhưng chưa đủ. Đó chỉ là nguyên nhân khách quan. Còn nguyên nhân chủ quan chúng ta cũng cần phải nhìn nhận. Cần biết rằng nền tảng sức mạnh của nhà Hậu Trần không đến từ các vua Giản Định hay Trùng Quang, mà đến từ những thế lực quân phiệt như Trần Triệu Cơ, Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân… Chính vì vua không có lực lượng ban đầu mà hoàn toàn phải dựa vào các tướng lĩnh của mình nên chưa bao giờ quyền lực vua Hậu Trần được trọn vẹn, và cũng chính vì thế mà giữa vua tôi luôn có sự nghi kỵ lẫn nhau.

Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cái chết oan khuất của Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân khi mà vua Giản Định muốn dùng thủ đoạn đen tối để tập trung quyền lực về mình, gạt bỏ mối lo từ hai vị tướng nhiều công lao nhưng đồng thời cũng là đối tượng mà nhà vua phải san sẻ quyền lực. Sang đến thời vua Trùng Quang, nhà vua đã chập nhận việc trao nhiều quyền lực cho các tướng còn tự mình đóng vai trò thủ lĩnh tinh thần, để giúp cho nội bộ được đoàn kết. Thế nhưng tình thế lúc này đã chuyển xấu, hoàn cảnh khách quan đã quá bất lợi cho việc đánh đuổi quân Minh.

Nhà Hậu Trần nổi lên chống Minh không chỉ có ý nghĩa về mặt cổ vũ tinh thần độc lập, tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm mà thực sự còn đóng vai trò thiết thực hơn thế rất nhiều. Với khoảng 7 năm ròng chiến đấu của tướng sĩ Hậu Trần, quân Minh đã không thể áp đặt được nền đô hộ lên đất nước ta. Vùng đất từ Thanh Hoá trở vào nam bấy giờ, một nước Đại Việt (dù không trọn vẹn) vẫn tồn tại. Ở đó, những giá trị văn minh người Việt đã được bảo tồn. Việc vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của quân dân ta dưới lá cờ đầu là nhà Hậu Trần khiến cho quân Minh bị hao tổn rất nhiều quân lực, tạo thuận lợi cho các phong trào khởi nghĩa về sau.

Ngoài ra, cuộc chiến đấu của nhà Hậu Trần đã làm chậm tiến trình đồng hoá của quân Minh, và đôi lúc buộc chúng phải có một số chính sách nhượng bộ nhất định trong cai trị. Không thể chỉ trông chờ vào quân viễn chinh và không thể diệt chủng người Việt, giặc Minh phải buộc lòng phải xây dựng một bộ máy nguỵ quyền đồ sộ để cai trị, chấp nhận nới lỏng một số quyền tự trị đối với các thổ hào địa phương để làm dịu bớt sự chống đối.
Chính trong số các thổ hào này, một nhân vật kiệt xuất mới đã xuất hiện, chính là Lê Lợi – lãnh tụ của phong trào khởi nghĩa Lam Sơn vĩ đại. Trương Phụ và quân tướng nước Minh những tưởng rằng đánh dẹp được nhà Hậu Trần là xong việc, nhưng kỳ thực đó chỉ là thắng lợi tạm thời đối với chúng mà thôi. Kẻ gieo gió rồi sẽ gặp bão. Chẳng bao lâu sau, những phong trào khởi nghĩa mới của người Việt lại bùng lên mà không cần phải nhân danh một dòng họ nào nữa.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-WY3kIFYjjaQ/XaUWLT5qVHI/AAAAAAACMtU/EjWjO8F82WMOLXjs6cSs1XewCGJQJPfeQCLcBGAsYHQ/s640/104.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHƯƠNG 7
LÊ LỢI
CHỐNG MINH

BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
https://www.youtube.com/watch?v=UazZRq331I8


Kỳ 105

ÂM MƯU THÂM HIỂM CỦA NHÀ MINH
SAU KHI TIÊU DIỆT NHÀ HẬU TRẦN


Sau nhà Hậu Trần bị diệt, Chu Đệ lại ra chiếu chỉ đôn đốc Trương Phụ phải thi hành đầy đủ các biện pháp nhằm biến người Việt trở thành một sắc dân bị hoà tan vào trong khối Hán hoá. Mục đích cuối cùng của việc này, suy cho cùng là để người Việt về lâu dài không còn khát vọng độc lập, tự chủ nữa. Vua Minh đã hiểu ra sức mạnh đến từ cội nguồn văn hoá Việt và tìm cách tiêu diệt. Thế nhưng điều này không hề dễ dàng đối với quân giặc.

Năm 1414, nhà Hậu Trần diệt vong, một trong những chương đen tối nhất lịch sử Việt Nam đã mở ra. Những chính sách huỷ diệt văn hoá, bóc lột tài nguyên, của cải, nhân lực vốn đã rất tàn bạo ngay từ khi quân Minh mới vào chiếm đóng nước ta, bấy giờ lại càng được giặc đẩy mạnh một cách tàn bạo hơn hòng gỡ gạc cho những tổn thất trong chiến tranh, và một phần cũng là để trả thù nhân dân ta đã tích cực hưởng ứng các cuộc khởi nghĩa.

Tất nhiên, quân Minh không thể nào chống lại tất cả người Việt, mà thực hiện chính sách chia để trị rất nham hiểm. Đối với các tầng lớp đại địa chủ, trí thức tinh hoa, những người thế gia, hào trưởng nếu chấp nhận quy phục quân đô hộ sẽ được đảm bảo sinh mạng, tài sản. Quan tướng nước Minh còn bỏ công chiêu dụ những người thuộc tầng lớp trên ra làm quan cho chúng để dễ bề kiểm soát và ru ngủ, khiến cho những người này vì danh lợi mà mất đi lòng ái quốc. Những nguỵ quan có công lao giúp quân Minh đàn áp các phong trào khởi nghĩa được đối đãi rất hậu hĩnh bằng tiền tài, chức tước và ruộng đất. Nhưng có một điều chắc chắn là giặc Minh không cho đi nhiều hơn thứ chúng nhận lại từ dân tộc Việt, thậm chí quân giặc còn phải lấy đi gấp nhiều lần những lợi ích mà chúng đã ban phát.

Tất cả những gánh nặng được quân Minh triệt để đổ lên đầu những người bình dân, cũng là đại đa số người Việt. Ruộng đất của bình dân bị cướp không để cấp cho bọn tay sai làm bổng lộc. Kể từ năm 1414 trở đi, các sắc thuế ruộng lúa, ruộng dâu, thuế tơ lụa, thuế muối vốn đã rất nặng nề từ trước lại tăng dần đều từng năm. Giặc Minh siết chặt việc quản lý bằng sổ hộ tịch để theo đó mà thực hiện một chế độ lao dịch bắt buộc cực kỳ hà khắc. Bất cứ người dân nào từ 16 đến 60 tuổi đều nằm trong diện phải đi lao dịch không công cho giặc khi chúng cần. Chẳng những làm việc không được trả công, những người đi lao dịch lại toàn phải làm những công việc nặng nhọc và nguy hiểm như lên núi khai mỏ, săn voi lấy ngà, săn tê giác lấy sừng, lặn biển mò ngọc trai…

Những nông sản, lâm sản quý như hồ tiêu, trầm hương, đàn hương tất cả đều bị tận thu đem sang nước Minh. Giặc Minh thành lập một hệ thống đồn điền quy mô cực lớn để có thể cung cấp lương thực cho đạo quân chiếm đóng khổng lồ thường xuyên hiện diện trên nước ta, chực chờ bóp nát bất kỳ sự chống đối nào. Trong các đồn điền này, vẫn là những người dân phu lao dịch ngày ngày đổ mồ hôi và máu một cách tủi nhục, đau đớn. Ngoài dân lao dịch, người Minh còn sử dụng các nguỵ binh để làm đồn điền. Nguỵ binh vừa phải bán mạng, bán sức cho ngoại bang, vừa phải chịu sự khinh bỉ và nghi kỵ của quân tướng người nước Minh. Chỉ có những tên tay sai đầu sỏ, những kẻ chăn dắt là thực sự được hưởng lợi từ giặc ngoại bang.

Bên cạnh việc vơ vét, bóc lột thì việc huỷ diệt văn minh, đồng hoá dân tộc cũng là một tội ác lớn mà giặc Minh đã gây ra. Chu Đệ từ khi xua quân xâm lược đã chủ tâm xoá bỏ văn minh Đại Việt bằng các biện pháp đập phá văn bia, đốt sách vở, huỷ hoại công trình, di sản văn hoá, bắt nhân dân thay đổi phong tục tập quán… Đến khi nhà Hậu Trần nổi lên, việc phá hoại của quân Minh phần nào bị gián đoạn. Sau nhà Hậu Trần bị diệt, Chu Đệ lại ra chiếu chỉ đôn đốc Trương Phụ phải thi hành đầy đủ các biện pháp nhằm biến người Việt trở thành một sắc dân bị hoà tan vào trong khối Hán hoá. Mục đích cuối cùng của việc này, suy cho cùng là để người Việt về lâu dài không còn khát vọng độc lập, tự chủ nữa. Vua Minh đã hiểu ra sức mạnh đến từ cội nguồn văn hoá Việt và tìm cách tiêu diệt. Thế nhưng điều này không hề dễ dàng đối với quân giặc.

Ở nước Minh những năm này đang bước vào giai đoạn hùng mạnh nhất dựa vào chính sách cai trị cứng rắn và quân đội đông đảo, tinh nhuệ. Mặc dù ở phía bắc các bộ tộc Mông Cổ vẫn là mối đe doạ thường trực với nước Minh, nhưng Minh Thành Tổ Chu Đệ luôn dành lợi thế trong các cuộc chiến chống lại người Mông Cổ. Những hệ luỵ từ các chính sách mang tính chất tạm bợ trước mắt của bạo chúa Chu Đệ chưa thực sự bộc lộ ra trong giai đoạn này. Về đối nội, cơ quan giám sát, thanh trừng nội bộ của vua Minh là Cẩm Y Vệ vẫn còn sợ oai của nhà vua mà chưa biến tướng thành một thế lực ngầm trong triều chính nước Minh.

Về đối ngoại, Chu Đệ vẫn triệt để dùng binh mà cư xử với láng giềng. Vì có quân đội mạnh, Chu Đệ vẫn kiểm soát được tình hình. Nhưng về lâu dài, đối ngoại thừa cương, thiếu nhu đã khiến nước Minh tự đặt mình vào thế lưỡng đầu thọ địch. Phía đông, các cướp biển đến từ Nhật Bản gọi là các Oa Khấu vẫn luôn cướp bóc, quấy nhiễu nước Minh.Phía bắc, bộ tộc Ngoã Lạt Mông Cổ sau khi nhận diện sự gian trá của Minh Thành Tổ đã từ đồng minh chuyển thành kẻ thù, cùng với đó là sự chống đối ngày càng tăng của các bộ tộc Mông Cổ khác nhằm vào nước Minh.

Bấy giờ tại nước ta, nhân dân không chịu nổi sự áp bức cũng lần lượt nổi lên. Những sự phản kháng trong giai đoạn từ sau khi nhà Hậu Trần mất (năm 1414) đến trước khởi nghĩa Lam Sơn (năm 1418) đa phần manh mún, tự phát không được biên chép rõ ràng trong sử sách. Tiêu biểu trong giai đoạn này là một cuộc khởi nghĩa tại Thanh Hoá dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Chích.Từ năm 1413 Nguyễn Chích đã dựng cờ khởi nghĩa, xây dựng căn cứ Hoàng Nghiêu (thuộc huyện Đông Sơn, Thanh Hoá ngày nay) chống quân Minh.

Sau khi nhà Hậu Trần mất, quân của Nguyễn Chích đã kiểm soát được ba huyện Đông Sơn, Nông Cống, Ngọc Sơn (Triệu Sơn ngày nay), gây cho quân giặc nhiều thiệt hại. Quân Minh đem quân đến đánh, Nguyễn Chích thu quân vào núi Hoàng, núi Nghiêu cố thủ, giặc không đánh nổi. Nguỵ quan Lương Nhữ Hốt theo lệnh giặc đến dụ hàng, Nguyễn Chích không theo, kiên quyết dựa vào núi rừng hiểm trở mà chiến đấu đến cùng với quân Minh. Khắp nơi nhiều hào kiệt, sĩ phu cũng ẩn dật nơi rừng núi, trông chờ một vị minh chủ nổi lên để cùng góp sức đánh đuổi giặc Minh.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-Q8FbWPCHHus/XdH4cKU-QpI/AAAAAAACNAM/WW0JWwStWu89HYFskiWUIzlklBni6Z1QQCLcBGAsYHQ/s640/105-LL.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 106

LAM SƠN TỤ NGHĨA
RỒNG CUỘN CHỜ THỜI


Phong trào khởi nghĩa Lam Sơn là một hiện tượng khá đặc biệt trong sử Việt. Tưởng chừng như sau cuộc quật khởi của nhà Hậu Trần thất bại, hiền tài nước Việt đã mất mát nhiều, nguyên khí không còn đủ để làm nên nghiệp lớn. Nhưng thật bất ngờ là chỉ sau đó một quãng thời gian không lâu (từ 1414 đến 1418), phong trào Lam Sơn lại nổi lên.

Phong trào quy tụ hàng loạt những anh hùng tài ba lỗi lạc, cùng nhau làm nên những chiến công hiển hách phi thường. Thật đúng như lời trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi đã viết:

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có

Tất nhiên trước hết phải kể đến là người anh hùng Lê Lợi, nhân vật khởi xướng cuộc khởi nghĩa. Lê Lợi là xuất thân trong một gia đình đại địa chủ lâu đời ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá (nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá). Tổ tiên của họ Lê là Lê Hối dựng lên ở đất Lam Sơn, nhiều đời nối nhau làm hào trưởng một phương. Lê Hối sinh Lê Đinh, Lê Đinh sinh Lê Khoáng, Lê Khoáng sinh Lê Trừ và Lê Lợi. Lê Lợi là con trai thứ nhưng có tư chất thông tuệ khác thường nên được giao nối nghiệp nhà. Nhà họ Lê truyền đến đời Lê Lợi đã nức tiếng là nhà giàu có và uy tín trong vùng, gia nô có đến hàng ngàn người. Lê Lợi là người phóng khoáng nuôi chí lớn, thường bỏ tiền của giúp đỡ người cơ hàn, chiêu nạp những kẻ khốn cùng nên càng được lòng dân.

Miêu tả về Lê Lợi, các sách sử xưa thường nhuốm màu huyền thoại, ly kỳ. Sách Đại Việt Thông Sử của Lê Quý Đôn chép về việc ra đời của Lê Lợi và diện mạo của ngài như sau: “Hoàng đế sinh giờ tý ngày mồng 6 tháng 8 năm Ất sửu (1385), nhằm niên hiệu Xương phù thứ 9 nhà Trần, sanh tại làng Chủ sơn, huyện Lôi dương. Nguyên trước, xứ Du Sơn, thôn Như Áng Hậu thuộc làng này (Chủ Sơn), có một cây quế, dưới cây quế này có con hùm xám thường xuất hiện, nhưng nó hiền lành, vẫn thường thân cận với người mà chưa từng hại ai. Tự khi Hoàng đế ra đời, thì không thấy con hùm ấy đâu nữa. Người ta cho là một sự lạ! Ngày Hoàng đế sinh, thì trong nhà có hào quang đỏ chiếu sáng rực, và mùi thơm ngào ngạt khắp làng. Khi lớn tuổi, ngài thông minh dũng lược, độ lượng hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt sáng mồm rộng, sống mũi cao, xương mi mắt gồ lên, bả vai bên tả có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng như hổ, tiếng nói vang vang như tiếng chuông. Các bậc thức giả biết ngay là một người phi thường.”. Việc thần thánh hoá các vị vua là một hiện tượng không quá mới trong lịch sử. Nó là một cách thức để nhà vua và triều đình có được sự tôn sùng của nhân dân, giúp thuận lợi hơn trong việc cai trị.

Cuối đời Trần, Lê Lợi vừa chăm sóc việc nhà vừa giữ chức Phụ đạo Khả Lam. Sau nhà Hồ soán ngôi nhà Trần, rồi quân Minh xâm lược, ngài ở nhà đóng cửa đọc sách. Trước những biến động lớn của thời cuộc, Lê Lợi chọn cho mình một con đường riêng, không dự vào những phong trào khởi nghĩa đương thời vì ngài đánh giá rằng những phong trào này không có nhiều triển vọng thành công. Để cho người Minh không nghi ngờ, Lê Lợi tỏ ra là một địa chủ chỉ chuyên tâm lo việc đồng áng. Chẳng những vậy, Lê Lợi còn thường xuyên đi lại quà biếu với các quan tướng Minh triều để che mắt chúng.Quân Minh thấy Lê Lợi là người có thế lực trong vùng, muốn đem quan tước ra mua chuộc nhưng ngài đều tìm cách từ chối khéo, càng đút lót cho chúng nhiều để được tạm yên. Mặt khác, Lê Lợi chuyên tâm nghiên cứu sách lược, binh thư chờ cơ hội, ngầm kết giao với những người tài cao chí lớn, cùng nhau tính kế lâu dài. Lê Lợi từng nói với thân tín: “Bậc trượng phu sinh ở đời phải cứu nạn lớn, lập công to, lưu lại tiếng thơm ngàn năm sau, sao lại chịu hèn nhát để cho người sai khiến?” (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)

Những nhân vật quan trọng đầu tiên đến Lam Sơn có Trịnh Đồ, Trịnh Khả, Lê Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Khai Hưng, Nguyễn Truy, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Vũ Uy, Lê Liễu… Những người này cùng với các thân tín của nhà họ Lê là những hạt nhân đầu tiên đề ra các đường hướng ban đầu, chuẩn bị mọi thứ trước khi khởi binh. Trong thời gian tích tụ của cải và lực lượng một cách bí mật, trước hết Lê Lợi và các hạt nhân đầu tiên của phong trào đã được sự đồng lòng che chở của những người thuộc hạ của nhà họ Lê và nhân dân quang vùng Lam Sơn. Việc Lê Lợi chiêu hiền đãi sĩ tuy đã cố gắng che mắt chính quyền đô hộ, nhưng thực tế cũng không thể hoàn toàn bí mật. Danh tiếng của một phụ đạo đất Lam Sơn đang chiêu mộ hiền tài dần lan xa, nửa hư nửa thực. Nguyễn Trãi bấy giờ ở thành Đông Quan, quân Minh đã quản thúc lâu ngày sinh ra xao nhãng, nghe danh Lê Lợi đã trốn khỏi thành lặn lội đến Lam Sơn tìm minh chủ. Năm 1416, để nêu cao quyết tâm, Lê Lợi lập Hội thề Lũng Nhai lịch sử, chính thức khai sinh phong trào khởi nghĩa Lam Sơn:

“Bui ! [từ cổ dùng trong văn thề]
Năm đầu niên hiệu Thiên khánh là năm Bính-thân (1416), quá ngày sóc (mồng một) là ngày Kỉmão đến ngày 12 là ngày Canh dần, tại nước An Nam, lộ Khả Lam. Tôi là phụđạo Lê Lợi đứng đầu, với Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn Linh, Lê Văn An, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Lê Ninh, Lê Kiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Phạm Lôi, Lê Lý, Đinh Lan, Trương Chiến.

Chúng tôi kính cẩn đem lễ vật, sinh huyết mà thành khẩn dâng lời tâu, cáo cùng Vua Trời, Hậu Đất và các thần linh bậc thượng, trung, hạ, coi các cảnh đẹp sông núi tại các xứ ta. Chúng tôi cúi xin rộng rủ lòng thương, soi xét để chứng cho việc nầy. Rằng có bạn từ xa tới kết tình vui vẻ và rất tin nhau, cho nên phải làm lễ tâu cáo.

Nay ở nước tôi, tôi phụ đạo Lê Lợi đứng đầu với 18 người từ Lê Lai đến Trương Chiến, tuy sinh khác họ, quê quán xa cách nhưng kết nghĩa cùng nhau, xem nhau như cành liền chung một tổ. Tuy phần vinh hiển có khác nhau, nhưng nguyện đem tình đối xử với nhau như người không khác họ.

Ví bằng chúng tôi đây, Lê Lợi với 18 người từ Lê Lai đến Trương Chiến, có đều hiệp lực đồng tâm chống giữ địa phương để làng xóm được yên. Nếu chúng tôi sống chết cùng nhau không quên lời thề ước, thì chúng tôi cúi xin Trời, Đất và các vị Thần linh chứng giám cho, ban xuống trăm điều lành, cho từ thân đến nhà, dòng-dõi, con cháu đều được yên lành để đời đời hưởng lộc Trời.

Ví bằng Lê Lợi với 18 người từ Lê Lai đến Trương Chiến lại ra ý đổi đường, tìm sướng hiện thời, mập mờ xao lãng, không chịu đồng tâm, bỏ quên lời thề ước, thì chúng tôi cúi xin Trời, Đất và các vị Thần linh phát xuống trăm tai, cho từ thân đến nhà, dòng-dõi, con cháu đều chịu giết sạch, đúng với luật Trời.

Kính cẩn tâu trình!”
(theo GS.Hoàng Xuân Hãn)

Lời thề Lũng Nhai đã liên kết những người anh hùng thành một khối thống nhất để cùng dựng nghiệp lớn. Tuy vậy, lúc này nghĩa quân Lam Sơn vẫn chỉ đang trong quá trình bí mật gây dựng lực lượng. Từ khắp nơi, anh hùng hào kiệt nghe tiếng càng theo về đông. Tiếng đồn xa thuận lợi cho việc chiêu mộ của Lê Lợi, nhưng cũng khiến quân Minh đánh hơi thấy điều bất thường. Trong một lần có tranh chấp về đất đai, Lê Lợi thắng kiện một người tên là Đỗ Phú. Người này ấm ức trong lòng, đem chuyện Lê Lợi bí mật gây dựng lực lượng cáo giác với giặc Minh. Tướng Minh trấn giữ vùng Thanh Hoá bấy giờ là Trần Trí, Sơn Thọ sai quân đến đánh, Lê Lợi lúc này quân chưa luyện, khí giới chưa chuẩn bị, phải chia nhau mỗi người chạy trốn một ngã. Quân Minh dẫn chó ngao truy lùng Lê Lợi, suýt đã bắt được nhưng Lê Lợi may mắn thoát nạn nhờ một con cáo trắng. Sách Lam Sơn Thực Lục thuật lại chuyện Lê Lợi thoát nạn rất ly kỳ:

“… Nhà vua cùng Lê Liễu chạy đến bên sông Khả Lam, bỗng thấy một người con gái nằm chết, mình còn mặc chiếc áo trắng, cùng đeo thoa vàng, xuyến vàng. Nhà-vua cùng Liễu ngửa mặt lên trời khấn rằng: “Tôi bị giặc Minh bức bách, xin phù hộ cho tôi thoát nạn này, ngày sau được Thiên hạ, xin lập làm miếu thờ, hễ có cỗ bàn, cúng nàng trước hết!”
Đắp mả chưa xong thì giặc xua chó ngao đến. Nhà-vua cùng Liễu chạy vào bộng cây đa! Giặc lấy mũi giáo nhọn đâm vào, trúng vào vế bên tả của Liễu, Liễu bốc cát cầm vuốt vào lưỡi giáo, cho khỏi có vết máu. Tự-nhiên bỗng thấy con cáo trắng chạy ra! Chó ngao liền đuổi cáo. Giặc không ngờ bèn kéo đi. Nhà vua mới được thoát …”

Đến khi quân Minh rút khỏi Lam Sơn, Lê Lợi lại cùng các bạn đồng chí của mình tụ họp trở lại, càng đem nhiều tiền của đút lót cho quan tướng Minh, giả cách nhu nhược để nuôi lòng tự cao của chúng. Quân Minh thấy Lê Lợi không có sức chống trả lại chủ động gởi phẩm vật, nên cũng xao lãng không bức bách mà thả sức quấy nhiễu nhân dân trong vùng, Lê Lợi tranh thủ thời gian, càng cố gắng xây dựng lực lượng, tích trữ lương thảo, rèn khí cụ…
Bấy giờ lại có tên nguỵ quan Lương Nhữ Hốt tâu lên với giặc rằng: “Người chủ Lam Sơn chiêu nạp những kẽ vong mạng, và đãi ngộ sĩ tốt rất hậu, chí của người ấy không phải là nhỏ. Nếu không sớm tính đi, để cho con rồng có lúc gặp mây gặp mưa, thì khi ấy nó sẽ không còn là một con vật trong ao nữa đâu. Vậy xin trừ ngay đi, đừng để lưu tai vạ về sau này” (theo Đại Việt Thông Sử)

Tướng Minh tin lời, lại đem quân đến vây đánh. Biết được tin ấy, Lê Lợi quyết định phất cờ khởi binh sớm hơn dự định. Ngày 7.2.1418, đúng dịp Tết Nguyên Đán, Lê Lợi xưng Bình Định vương làm lễ tế cờ, truyền hịch cho khắp muôn dân cùng đánh đuổi giặc Minh. Với khí thế và quyết tâm cao độ, nghĩa quân Lam Sơn chính thức bước vào cuộc chiến gian lao.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-BPFDfv0dkrU/XjVquuRODDI/AAAAAAACNWc/winclU-dtqYeNstLqh3o6FBtjhmcuJsrACLcBGAsYHQ/s640/106.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 107

LÊ LỢI CẢM KHÁI TIỄN ANH HÙNG
LÊ LAI CƯỠI NGỰA THỀ HUYẾT CHIẾN


Buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa, lực lượng dưới trướng Bình Định vương Lê Lợi rất ít ỏi so với quân Minh. Theo sách Nguyễn Trãi toàn tập thì tính hết quân số, nghĩa quân Lam Sơn chỉ độ hơn 2000 người. Trong đó, chỉ có lực lượng nòng cốt gồm 200 quân Thiết đột, 200 Nghĩa sĩ, 300 Dũng sĩ là được trang bị tương đối tốt và có trình độ chiến đấu. Số quân còn lại vẫn chỉ là nông dân cầm vũ khí mà thôi. Chẳng những lực lượng ít, quân Lam Sơn ban đầu còn thiếu thốn vũ khí, quân nhu, quân lương bởi vì thời gian chuẩn bị cho khởi nghĩa đã bị rút ngắn lại ngoài dự kiến.

Chỉ một vài ngày sau lễ xuất quân, nghĩa quân Lam Sơn đã bước vào một trận chiến không cân sức. Trong tháng 2/1418 (tháng Giêng năm Mậu Tuất Âm lịch), tướng Minh là Mã Kỳ đốc suất 45.000 quân Minh, hàng trăm ngựa chiến, có cả voi chiến đến đánh. Tương quan lực lượng chênh lệch cực lớn, nghĩa quân Lam Sơn phải chiến đấu với tỷ lệ 1 chọi trên 20 quân giặc. Bất chấp chêch lệch, Lê Lợi cùng 47 tướng văn, tướng võ chia nhau dẫn quân mai phục ở Lạc Thuỷ, đón đánh quân Minh. Mã Kỳ cậy quân đông gấp nhiều lần, nên chia quân thành nhiều hướng hòng một mẻ diệt gọn quân Lam Sơn.

Trung tuần tháng Giêng, một nhánh quân Minh lọt vào trận địa mai phục của quân ta, bị đánh phá dữ dội. Bản thân Lê Lợi là một hổ tướng võ nghệ rất giỏi, cùng quân tướng cố sức lăn xả giết địch. 3000 quân Minh bỏ thây trong một trận chớp nhoáng, quân Minh từ các hướng sau đó mới dồn lại tấn công. Liệu thế không chống nổi số đông, Lê Lợi cho quân rút lui sang Mường Một (huyện Lang Chánh, Thanh Hoá). Quân Minh đuổi theo, Lê Lợi phải rút lên núi Chí Linh (thuộc Lang Chánh) cố thủ, mang theo nhiều khí giới vừa cướp được để tự trang bị.

Núi Chí Linh là một ngọn núi hiểm trở dễ thủ khó công. Khắp vùng là rừng núi hoang vu, dân cư thưa thớt. Với việc lui quân về đây, quân Lam Sơn tạm thời thoát khỏi cuộc vây ráp quy mô lớn của giặc, nhưng lại chịu cảnh thiếu thốn lương thực. Quân Minh lùng lục không được, bèn lui quân. Quãng thời gian đó, Lê Lợi và quân tướng của mình phải chịu đói khát. Trong hơn 10 ngày đóng trên núi Chí Linh, nghĩa quân đã phải ăn phấn đá (gọi là Vũ dư lương) trộn mật ong để sống sót.

Quân Minh tạm thời rút đi có thể là vì thiếu lương thực cho một chiến dịch dài hạn. Và chúng đã nhanh chóng trở lại sau đó. Lê Lợi dẫn quân vừa dẫn quân quay về căn cứ địa Lam Sơn chưa lâu thì lại phải đối đầu với trận càng quét mới. Lần này, Mã Kỳ được sự chỉ điểm của tên hai Việt gian tên là Ái và Đỗ Phú, đem quân đánh úp vào hậu phương của quân ta, bắt cóc nhiều vợ con của tướng sĩ, cả gia quyến của Bình Định vương Lê Lợi gồm vợ và con gái cũng bị giặc bắt, chúng còn quật mả nhà họ Lê lấy hài cốt đem đi, rồi kêu gọi Lê Lợi và quân tướng ra đầu hàng.

Quân tướng Lam Sơn bị mất gia đình, nhiều người sinh nản chí không còn tâm trạng chiến đấu. Quân Minh lại đến đánh, quân Lam Sơn tan vỡ mỗi người chạy một ngả. Lê Lợi cùng các tướng Đinh Lễ, Nguyễn Xí, Phạm Vấn, Lê Bí, Lê Đạp lại phải chạy lên núi Chí Linh. Các quân lính của Bình Định vương sau đó mới lần lượt chạy theo. Quân Minh vây núi, ngót gần 3 tháng trời nghĩa quân Lam Sơn bị tuyệt lương, còn gian khổ hơn lần trước rút lên núi. Ban đầu, Lê Lợi dùng lời trung nghĩa khích lệ quân sĩ, tinh thần mọi người lại phấn chấn. Quân Minh dẫn quân đánh lên núi đều bị quân ta cơ động đánh lui được. Thế nhưng quân lương đã cạn, nghĩa quân dần đi đến chỗ chịu chết đói. Trong những ngày tháng đó, quân ta phải ăn cả măng tre, rễ cỏ để sống. Bao nhiêu voi ngựa trong quân cũng phải đem giết thịt nuôi quân. Không những vậy, bốn phía quân Minh bủa vây đánh phá. Tình thế khốn đốn được miêu tả trong Chí Linh Sơn Phú của Nguyễn Mộng Tuân:

“Chín phần tử, một phần sinh. Tuy ở chốn hiểm nghèo mà ngất trời khí thế
Bao nhiêu nghịch, bấy nhiêu thuận. Khéo tuỳ cơ lợi dụng, thực tột bậc anh hùng”

Đứng trước nguy cơ toàn quân bị diệt, Lê Lợi bất đắc dĩ phải tụ họp các tướng lại nói:
“Nay trận thế hiểm nguy, có ai dám bắt chước việc Kỷ Tín (tướng nhà Hán, chết thay cho Lưu Bang) thời xưa, thân khoác hoàng bào mà chết thay ta không?”

Các tướng im lặng nhìn nhau. Chỉ có Lê Lai người thôn Đặng Tú khảng khái đáp lời: “Thần nay nguyện được tử trận thay cho chúa công. Ví như sau này giành được giang sơn thì xin nghĩ đến công lao của thần, khiến cho con cháu muôn đời được nhờ quốc ân, được vậy thần chết cũng nhắm mắt”.

Lê Lợi vô cùng cảm khái. Lê Lai tiếp lời: “Tình hình nguy khốn, nếu ngồi khư khư, quân thần chung mạng, bao công sức đây hãy còn gì. Nếu theo kế này, may ra có thể thoát được. Kẻ trung thần chết vì nước nào có tiếc gì?”

Lê Lợi vái trời khấn rằng: “Lê Lai có công đổi áo, nếu sau này khôi phục nghiệp xưa, nếu không nhớ đến công lao ấy, thì xin cho cung điện biến thành rừng núi, ấn triện biến thành cục đồng, gươm thần biến thành dao cùn”

Lê Lợi khấn xong, Lê Lai liền khoác áo báo của chúa, cùng 500 quân cảm tử và 2 thớt voi xông thẳng xuống núi khiêu chiến. Quân Minh xuất quân nghênh chiến, Lê Lai thân cưỡi ngựa xông thẳng vào trận giặc, hô to: “Ta là chúa Lam Sơn đây”. Quân Minh tưởng thật, dồn sức vây chặt lấy. Lê Lai cùng quân cảm tử giao chiến với giặc kịch liệt, khiến quân Minh phải mất khá nhiều lực lượng. Sau một hồi, giặc vây càng đông, Lê Lai đuối sức bị bắt và bị giặc phanh thây. Bấy giờ là vào ngày 29.4.1419. Giặc Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi, nên nới lỏng vòng vây, rút khỏi Lam Sơn về thành Tây Đô. Lê Lợi bấy giờ mới thoát hiểm, bí mật gom quân trở về Lam Sơn gây dựng lại căn cứ địa.

Người anh hùng Lê Lai cùng đội quân cảm tử đã đem tính mạng của mình để tiếp tục thắp lên một tia hy vọng cho dân tộc. Sự hy sinh đó đáng được muôn đời sau trân trọng. Lê Lợi sau đó ngầm sai người tìm thi hài Lê Lai về Lam Sơn mai táng. Về sau, Lê Lợi lên ngôi đã truy phong Lê Lai hàm Thiếu uý, liệt vào hàng Nhất Đẳng Công Thần. Khi sắp mất, Lê Lợi còn căn dặn làm giỗ Lê Lai trước ngày giỗ của mình như là một cách thể hiện lòng biết ơn với vị trung thần đã quên mình cứu chúa, cũng là cứu cho cuộc khởi nghĩa không sớm bị tiêu diệt. Ngoài những sự truy tặng của triều đình nhà Hậu Lê, Lê Lai còn được thờ phụng rộng rãi trong dân gian. Các thế hệ người Việt vẫn mãi lưu truyền câu chuyện về ông.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-mpQA46fHC7w/Xj0zS3yYhJI/AAAAAAACNXU/JnvgvB8wWvITjuDbkVtL5iN6CXcNVsw-ACLcBGAsYHQ/s640/107.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] ... ›Trang sau »Trang cuối