Trang trong tổng số 5 trang (42 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Phụng Hà


Giai thoại vua Tự Đức (1829-1883)


  (Tiếp theo)

5/Nguyễn Đăng Hành và vua Tự Đức

  Nguyễn Đăng Hành (con Nguyễn Đăng Giai) làm quan đời Tự Đức, là người rất hay chữ.
   Nhân việc dẹp được âm mưu lật đổ của Hồng Bảo , vua Tự Đức mở tiệc ăn mừng . Trong khi đang đãi yến các quan , nhà vua ăn uống thế nào lại để răng cắn phải lưỡi. Vua bèn lấy sự việc đó làm đầu đề bảo các quan làm thơ để mua vui. Các quan đều làm thơ dâng lên vua, nhưng chỉ có bài của Nguyễn Đăng Hành là hay hơn cả. Bài thơ như sau:

Ngã sinh chi sơ, nhữ vị sinh,
Nhữ sinh vị hậu, ngã vi huynh.
Kim triêu hạnh hưởng cao lương vị,
Hà nhẫn độc thương cốt nhục tình.


 Có người dịch thơ như sau:

Tớ sinh, ngươi chửa ra đời,
Ngươi sinh sau tớ, tớ thời làm anh.
Hôm nay ăn uống ngon lành,
Mối tình cốt nhục, sao đành hại nhau?


 Rõ ràng đây là bài thơ nói về việc răng cắn phải lưỡi. Lưỡi có trước khi mọc răng, vậy thì lưỡi là anh và răng là em. Thế mà khi được miếng ăn ngon,đáng lẽ  cùng nhau hưởng thụ, răng lại nỡ lòng cắn lưỡi để tranh ăn lấy một mình.   
 Nhưng bài thơ lại ngụ ý chê trách nhà vua nỡ giết anh là Hồng Bảo để độc hưởng phú quý.
  Tự Đức xem xong, biết là Hành ám chỉ việc riêng của mình , tức giận lắm, nhưng cũng phải phục là tài. Rồi để thỏa nỗi tức giận của mình, nhà vua sai đem tác giả ra cửa Ngọ Môn nọc đánh ba chục roi  về tội châm biếm  phạm thượng. Nhưng sau đó, để tỏ ra rằng mình cũng biết quí trọng văn tài, nhà vua lại thưởng tiền lụa cho tác giả.

6/Lê Ngô Cát và vua Tự Đức

  Lê Ngô Cát, người huyện Chương Đức tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), đỗ cử nhân năm 1848 (niên hiệu Tự Đức thứ nhất), là một nhà nho giỏi thơ nôm ở thời đó.
  Tương truyền hồi Lê Ngô Cát đang làm bố chánh Cao Bằng thì được vua Tự Đức triệu về kinh để sửa lại bộ Quốc sử diễn ca. Trong bộ sử, ông có viết mấy câu về bà Triệu như sau:

Vú dài ba thước vắt lưng,
Cưỡi voi gióng trống bên rừng trẩy ra.
Cũng toan gánh vác sơn hà,
Cho Ngô biết mặt đàn bà nước Nam.

  Khi dâng sách lên, vua Tự Đức đọc đến đoạn đó thích lắm, chữa hai chữ "Cũng toan" thành "Ghé vai" và nói đùa rằng: "Thế đàn ông nước Nam đâu cả"
  Rồi vua ban thưởng cho Cát một tấm lụa với hai đồng tiền vàng.

  Nghe tin, các thân hữu đến mừng, đòi Lê Ngô Cát phải có rượu khao. Khi rượu đã ngà ngà say, các bạn hứng chí đòi chủ nhân phải có thơ tức sự việc được vua ban vàng lụa. Lê Ngô Cát bèn ngất ngưỡng đọc hai câu lục bát như sau:

Vua khen thằng Cát có tài,
Ban cho cái khố với hai đồng tiền.


  Ít lâu sau bỗng Lê Ngô Cát nhận được lệnh lại phải đi bố chánh Cao Bằng, ông rất sửng sốt và lo ngại. Mãi về sau mới vỡ lẽ, thì ra hai câu thơ của ông đã đến tai Tự Đức, nhà vua cho ông có ý xỏ vua keo kiệt (cho một tấm lụa chỉ đủ
làm cái khố) vì thế lại đày ông lên "nước non Cao Bằng" cho bõ ghét.

7/Cao Bá Quát và vua Tự Đức  

  Khi Tự Đức lên ngôi (1848) thì Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát đang giữ chức quan nhỏ (hành tẩu) ở bộ. Cả Siêu và Quát đều tài hoa mẫn tiệp, xuất khẩu thành chương, áp đảo được mọi người nên đời bấy giờ vẫn truyền tụng là Thần Siêu, thánh Quát. Người đời cũng khen ngợi hai ông bằng hai câu:

Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán
Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường.

Nghĩa:
Văn như ông Siêu, ông Quát thì nhà Tiền Hán không đáng kể nữa
Thơ đến Tùng Thiện vương, Tuy Lý vương thì đời Thịnh Đường còn kém.

  Giữa ông vua hay chữ và thánh Quát, đã có nhiều lần "đụng độ" về thơ văn.

- Bịa thơ tài hơn vua :

 Tự Đức vốn là ông vua sính thơ và hay khoe thơ mình. Nghĩ được câu thơ, bài thơ nào thường vẫn đem đọc cho quần thần nghe và lấy làm tự đắc lắm. Một hôm sau buổi chầu, Tự Đức nói với các quan:
- Đêm qua trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các khanh nghe !
 Rồi đọc luôn:

Viên trung oanh chuyển “khề khà” ngữ,
Dã ngoại đào hoa “lấm tấm” khai.

  Các quan nghe xong đều lấy làm lạ vì chưa hề được nghe lối thơ vừa chữ vừa nôm ấy bao giờ, nhất là những chữ “khề khà”, “lấm tấm” nghe thật thú vị. Còn Cao Bá Quát lúc bấy giờ cũng có mặt ở đấy, thì vẫn thản nhiên mà tâu rằng:
- Tâu bệ hạ, tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã được nghe rồi ạ! Thần được nghe cả bài tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin đọc lại tất cả.
 Tự Đức đang hí hửng về mấy câu thơ dở chữ dở nôm rất độc đáo của mình, không dè lại bị Quát giội cho một gáo nước lạnh thì tức lắm, vì rõ ràng hai câu thơ đó chính ông ta nghĩ ra. Tuy nhiên, ông ta vẫn cố trấn tĩnh bảo Quát đọc cho nghe cả bài thơ, với thâm ý nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân cho hả giận.
 Còn đình thần cũng bực tức là Quát dám cả gan xúc phạm đến vua, và họ đang chờ một trận lôi đình; ông nọ lấm lét nhìn ông kia, không khí triều đình trở nên căng thẳng, nặng nề khác thường.
 Quát bình thản suy nghĩ một lát như để nhớ lại một bài thơ lâu ngày không nhìn đến, rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:

Bảo mã tây phương "huếch hoác" lai,
"Huênh hoang" nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển "khề khà" ngữ,
Dã ngoại đào hoa "lấm tấm" khai.
Xuân nhật bất văn sương "lộp bộp",
Thu thiên chỉ kiến vũ "bài nhài".
"Khù khờ" thi cú đa nhân thức,
"Khệnh khạng" tương lai vấn tú tài.


Nghĩa là:
Ngựa báu từ phương tây huếch hoác lại
Người huênh hoang nhờ cậy dìu về
Trong vườn oanh hót giọng khề khà
Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm
Ngày xuân chẳng nghe tiếng sương rơi lộp bộp
Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài
Tứ thơ khù khờ đã nhiều người biết
Lại còn khệnh khạng mang đến hỏi bậc tú tài!

 Bài thơ vừa đọc dứt, cả đình thần hoang mang nhìn nhau, còn Tự Đức thì biết đích là Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhất là 2 câu cuối, nhưng cũng rất sửng sốt và hết sức thán phục. Vua sai lấy chè và quế ban cho Quát và bắt Quát phải thú thật là đã bịa thêm sáu câu.

- Tự tiện chữa văn của vua :
  
 Vua Tự Đức có làm hai câu đối để ở điện Cần Chánh như sau:

子能承父業
臣可報君恩

Tử năng thừa phụ nghiệp
Thần khả báo quân ân


 Nghĩa là:
Con nối được nghiệp bố,
Tôi đền được ơn vua.

 Các đình thần từ lâu vẫn phục hai câu này là hay, cho rằng nói lên được hai giường mối lớn trong đạo tam cương ...
 Một hôm, Cao Bá Quát có dịp vào điện Cần Chánh, thấy đôi câu đối như vậy thì bỗng nảy ra một ý tinh nghịch, lấy bút ngoáy ngay vào bên cạnh mấy chữ rằng: “Hảo hề! Hảo hề! Phụ tử, quân thần điên đảo” (Hay chưa! hay chưa! cha con, vua tôi đảo lộn).
 Việc đó được tâu lên vua. Tự Đức giận lắm,cho đòi Quát đến để hỏi tội. Quát thản nhiên đáp lại:
- Tâu bệ hạ, thần thường nghe nói đạo vua tôi phải ở trên đạo cha con; vả từ ngàn xưa bao giờ cũng vẫn vua trước mà tôi sau, cha trước mà con sau. Nay bệ hạ để như vậy chẳng phải là đã làm đảo lộn hết cả rồi sao?
 Tự Đức nghe biện bạch cũng thấy xuôi tai, bèn bảo Quát thử chữa lại xem thế nào. Bấy giờ Quát mới chữa ngoặc lại như sau:
君恩臣可報
父業子能承


Quân ân, thần khả báo
Phụ nghiệp, tử năng thừa.

  Nghĩa là:
Ơn vua, tôi phải báo,
Nghiệp bố, con phải theo.

 Tự Đức và các quan lúc ấy đều phải chịu là câu của Quát quả sắc sảo và chắc tay hơn; không ai còn có thể bắt bẻ vào đâu được nữa!
  Nhưng rồi cũng từ đó, Tự Đức càng tỏ ra ghét Quát hơn; vì dù sao thì Quát cũng đã làm một việc tối ư vô lễ là dám tự tiện chữa văn của nhà vua.

          ----------------------------

   Viết theo:

1/ Giai thoại văn học Việt Nam, Kiều Thu Hoạch, Nxb Văn Học, Hà Nội, 2010
2/ Giai thoại làng nho, Lãng Nhân, Nam Chi tùng thư xuất bản, Sài Gòn, 1966
3/ vi.wikipedia.org
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Khi 'Trẫm' Bùi Giáng tặng thơ cho các 'Đại ca'

Bài đăng trên Tiền Phong 08:04 | 26/08/2012

TP - Cân nhắc mãi, rồi tôi thấy không thể không viết về con người có nhiều giai thoại này. Bởi cơ duyên, nhiều câu chuyện về ông tôi được tận mắt chứng kiến, bất ngờ thấy được. Đặc biệt là chuyện ông tặng thơ cho người đời.

http://www.tienphong.vn/ImageHandler.ashx?ThumbnailID=220174&Width=400
Tranh của Nguyễn Xuân Hoàng.


Tôi xin gọi ông theo nhiều danh xưng mà người đời đặt cho Bùi Giáng: Bùi tiên sinh, Trung niên thi sĩ, Đười ươi thi sĩ. Còn Bùi Giáng thì ngấm ngầm cà rỡn tự cho mình là Đại Vương nên chỉ yêu những người đẹp nhất trên trần gian, và ông thường tự xưng là Trẫm.

Nhắc đến thi sĩ Bùi Giáng người ta thường hay nhớ đến một gã trung niên sặc sỡ màu sắc xanh xanh vàng vàng đỏ đỏ với đôi mắt sáng quắc sau một đôi kính cận dày cộp.

Khắp Sài Gòn Chợ Lớn người ta thường thấy thi sĩ thoắt ẩn thoắt hiện như một kiếm khách có thân thủ phi phàm với lối phục trang quái dị vá chằng vá đụp nhìn như đệ tử của cái bang trong truyện kiếm hiệp Kim Dung.

Nhưng nếu ai có một chút thẩm mỹ nhứt định sẽ phải thán phục cho cách chọn màu sắc của thi sĩ vì nhìn kỹ sẽ thấy đây là một mảng màu hội họa sạch sẽ cực đẹp.

Đây đúng là một kiểu thời trang của Bùi Giáng từ cái kính cho đến đôi giày rách, cái nón và cái bị, tạo thành một bức tranh kì lạ. Giống như một đạo sĩ của thời Xuân thu Chiến quốc, cái màu sắc ấy cũng thay đổi từng ngày khi người ta chợt bắt gặp Bùi đại ca đang múa may quay cuồng ở chợ Tân Định và chỉ một loáng sau đã thấy thi sĩ đang ngao du ở tận chợ Bà Chiểu.

Ông đi như mây lang thang như gió, hết quận nầy đến quận khác, hết quán nầy đến quán kia. Cung cách ăn uống của Bùi Giáng thì phải nói là đặc biệt, chỉ Bùi Giáng mới có.

Xích lô là phương tiện phổ quát nhất mà Bùi đại ca thường hay dùng để di chuyển khắp Sài Gòn Chợ Lớn, ngoài việc đi bộ. Ông có cả một đội xích lô thân quen.

Nhiều anh em văn nghệ yêu thích ông nên cũng thường hay xin ông cho thơ, việc này không hề khó, thi sĩ luôn sẵn lòng dâng hiến cho những ai yêu thi ca. Nhưng ông luôn đề tặng theo ý mình.

Nghe mấy anh xích lô này kể, mỗi lần chở Trung niên thi sĩ là vui nhất trên đời vì ông luôn luôn cho ăn nhậu no say. Không biết tiền ở đâu ông luôn cho anh em rất hậu, mỗi lần chở “bệ hạ” là có thể sống được ba bốn ngày.

Nói “bệ hạ” vì Bùi Giáng có một lối xưng hô rất ư là phiêu bồng cà rỡn hảo hán Lương Sơn Bạc: “Cho Trẫm về Chợ Lớn đi Đại ca”. Chỉ cần nghe như vậy, đại ca xích lô đã sướng rân lên cười toe và cung kính hạ càng: “Dạ xin mời Bệ hạ an tọa, Đại ca xin hầu ngài”. Với nụ cười an nhiên vi tiếu, Bùi đại vương nhảy tót lên xe một cách điệu nghệ, hai thầy trò bắt đầu cuộc “Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi/ Đi lên đi xuống đã đời du côn”.

Đói thì ăn khát thì uống mệt quá thì nghỉ, gốc cây hè đường công viên ghế đá bất cứ chỗ nào thích là dừng. Nhưng có điều lạ là “Trẫm” vẫn ngự trên xích lô bất cứ nơi đâu, Đại ca thì tùy thích nhưng làm ơn đừng cho chiếc xích lô chổng gọng ngã nhào khi Trẫm đang ngự là được rồi.

Trẫm thích lim dim trong cái náo nhiệt ầm ì giữa Sài Gòn hoa lệ. Nếu có mỏi qúa vì phải ngồi lâu, Trẫm sẽ đột nhiên phóng cái ào xuống đường chơi một vài điệu luân vũ của đười ươi rớt hột trước những đôi mắt thảng thốt của con người... Xong rồi, “phóc” lên yên đi thôi Đại ca, hỏi rằng Trẫm sẽ đi đâu/ Thưa rằng Trẫm sẽ đi lâu chưa về.

Đi đâu bây giờ, Đại ca gióng tiếng hỏi... Trẫm trả lời: “Đại ca chở Trẫm về quận 3 đi, vào cái quán bia ấy biết không”. Tất nhiên là phải biết rồi làm sao không. Xe trực chỉ quán 81 (đường Trần Quốc Thảo – trước đây tôi đã có bài viết về những kỷ niệm văn nhân thi sĩ tại quán này – TG).

Từ xa, anh em đã thấy xe của Trung Niên Đười Ươi Thi sĩ xuất hiện cập vào hàng hiên của quán. Vẫn trên xe, thi sĩ quát vào: “Cho hây [hai] chai Soài goòn”.

Bia được đưa ra kèm theo một đĩa đậu phụ. Hai thầy trò ngồi ngay trên xe nhậu khề khà. Ông Bùi nhậu không nhiều, chỉ mới hai ve là mặt đỏ gay mắt sáng rực lên như hai ngọn đèn pha.

Đại ca xích lô muốn uống bao nhiêu thì uống, nhưng nhớ không được say kềnh ra vì còn phải đưa Trẫm về nữa. Bao nhiêu Trẫm thanh toán hết lại còn boa lưng tưng đầu mày cuối mắt cho mấy em phục vụ.Và cũng nhanh như lúc đến hai thầy trò lại ra đi sau một màn nhảy múa ngay trên sân của quán nhậu.

Chuyện đi xe xích lô của Trung niên thi sĩ cũng nhiều cái kỳ quái. Như lần ông đi đường vào giờ cao điểm, làm sao để có thể vượt qua cái đám đông lô nhô lúc nhúc kia đang kẹt cứng sau buổi chiều tan tầm đây?

Chuyện nhỏ đối với Trung niên thi sĩ, không biết từ đâu Anh Dzoáng bỗng có một cái tu huýt thổi lên rầm trời cùng với một chiêu lăng ba vi bộ bay ra giữa ngã tư bắt đầu một cuộc nhảy nhót hoành tráng tả xung hữu đột như phim.

Bùi thi sĩ biến thành một cảnh sát giao thông có một không hai trên cái trần gian lộn xộn hỗn mang này. Lạ thay, dòng xe cộ đang dừng như bị một cái đập ngăn bỗng dưng như được tháo chốt lăn bánh trôi từ từ theo những động tác điều khiển điệu đàng như một nhạc trưởng của Trung niên thi sĩ.

Chưa vội chấm hết cho cuộc trình diễn, thi sĩ tiếp tục múa may theo nhịp điệu tiếng còi thêm một hồi nữa cho đến khi xe cộ lưu thông theo ý muốn rồi tự dưng ông biến mất. Lát sau, người ta đã thấy hai thầy trò thong dong ngao du ca hát cùng bạn bè ở Bà la chân Tân Định kia rồi.

Như đã viết, Bùi Giáng có một lối ngồi ăn uống và cả làm thơ hết sức đặc biệt, nghĩa là chỉ ngồi trên xe xích lô thôi không bao giờ ngồi trên ghế của bất cứ quán nào.

Ngay cả cách xưng hô “Trẫm và Đại ca” cũng là một cách tếu táo thâm trầm nhưng vô cùng cà rỡn của Bùi Giáng. Nhiều anh em văn nghệ yêu thích ông nên cũng thường hay xin ông cho thơ, việc này không hề khó, thi sĩ luôn sẵn lòng dâng hiến cho những ai yêu thi ca. Nhưng ông luôn đề tặng theo ý mình.

Vậy nên mới có chuyện một anh chàng làm thơ nọ được Bùi thi sĩ tặng thơ có lời đề tặng như sau: “Bài thơ này Trẫm tặng cho Đại ca QYZ, kí tên Trẫm, Bùi Giáng”.

Sướng quá, anh này bèn đem khoe với mọi người và toáng lên rằng: “Được Bùi Giáng nể lắm nên mới gọi là Đại ca”.

Nhưng khi nghe một đàn anh phân tích, anh này mới tá hỏa vì hiểu ra Trung niên thi sĩ đang cà rỡn la cà chữ nghĩa với mình, nhưng có hề chi chỉ vui vui vì cái kiểu cà rỡn ta bà của thi sĩ.

Không chỉ một mình anh này mà nhiều người khi được Bùi Giáng tặng thơ cũng đều có chung một lời đề tặng như thế không sai một chút nào.

Có một giai thoại do Bùi Chí Vinh kể rằng, anh cũng được Bùi Giáng nâng một cái... chổi truyền lại cho Bùi Chí Vinh như truyền vương trượng sau khi nghe Vinh đọc thơ.

Hư thực không biết nhưng có người bảo rằng Vinh bị Bùi Giáng cà rỡn mà thôi chứ làm gì có chuyện truyền “ngôi báu thi ca”. Vì nói cho cùng thì Bùi Giáng vẫn là Bùi Giáng, không ai có thể là truyền nhân được.

Vì sống điêu linh thơ mộng được như Bùi thi sĩ đã là chuyện vô cùng khó rồi. Còn làm thơ lại càng khó hơn vì cái lối tung hứng chữ nghĩa độc nhất vô nhị đến vô ngôn vô cùng của thi sĩ họ Bùi, lại có vô chừng ngữ nghĩa rập rờn âm thanh trong thơ của ông.

Anh Dzoáng phóng bút làm thơ trên… phong bì

http://www.tienphong.vn/ImageHandler.ashx?ThumbnailID=220182&Width=400
Bùi Giáng.


Hỏi rằng tiền bạc của Trung niên thi sĩ ở đâu mà ra? Câu trả lời ở giữa lộ trình ngao du: Bỗng nhiên Đại ca xích lô nghe: dừng lại đây đi Đại ca. Điểm dừng là một biệt thự kín cổng cao tường, từ bên trong nghe tiếng chó dữ hực lên.

Đại ca mới nghe đã muốn tháo chạy, nhưng Trẫm thì điềm nhiên, bảo Đại ca cho xe chạy sát vào cánh cổng nơi có nút bấm, tiếng chuông vang lên rền rĩ kèm theo tiếng của chủ nhân lao xao ra mở cửa.

“Ai đó...” - một giọng điệu kéo dài hách dịch. Hắng giọng: “Trẫm đây Đại ca...”. Cửa mở toang và giọng người reo vui: “Trời đất ơi, anh Dzoáng ngọn gió nào đưa anh tới đây”.

Vẫn kẻ đứng người ngồi, Trẫm tỉnh queo: “Thì đi rong chơi, mi có buồn không nếu tao vay mi ít tiền”. Chủ nhân không một chút buồn phiền trái lại còn vui mừng ra mặt vì được cụng phụng cho thi sĩ: “Dạ được được mà anh Dzoáng chờ em một chút!”.

Nói xong, chủ nhân quay thật nhanh vào nhà, và cũng thật nhanh đã quay trở lại, dường như sợ nếu chậm anh Dzoáng sẽ đi mất tiêu, trên tay là một phong bì màu xanh kính cẩn dâng lên.

Thi Sĩ nhét vào lưng quần xong rồi nhàng nhẹ: “Ta viết cho mi một bài thơ hí?”. Nói xong không đợi trả lời anh Dzoáng phóng bút làm ngay một bài thơ ngay trên chính cái phong bì đó. “Đây ta tặng”. Chủ nhân chưa kịp cám ơn thì thi sĩ đã vỗ càng xe “Đi thôi Đại ca ơi...”.

Nguyễn Tấn Cứ
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Lại Gia

Tiếu ngạo vùng nam ngất ngưởng say
Giang hồ đồn đại mỗi ông này
Xưng vương gọi trẫm vui đùa lắm
Tới đây ngã ngửa thì không may...!
Nhất tự vi sư,bán tự vi sư
Tam môn diệc duệ,ai môn diệc duệ
(thiên,địa,nhân)
Nam Bang Nhất Lại.Tả Hữu Trung Thần.Nghĩa Khí Vạn Kiếp.Hiền Tài Muôn Đời
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà


Giai thoại Phan Bội Châu (1867 – 1940)


  Phan Bội Châu 潘佩珠 tên thật là Phan Văn San, tự là Hài Thu, bút hiệu là Sào Nam, Thị Hán, Độc Kinh Tử, Việt Điểu, Hàn Mãn Tử, v.v... Ông sinh tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
   Đỗ đầu xứ tỉnh Nghệ, thi hương mấy khoa đều hỏng, mãi đến năm 34 tuổi (1900) mới đỗ giải nguyên; liền sau đó, ông quay sang hoạt động chính trị.   
  Ông là một nhà cách mạng Việt Nam trong phong trào chống Pháp. Ông đã thành lập phong trào Duy Tân hội và khởi xướng phong trào Đông Du.

1/Ăn ngô, hái thị

  Tương truyền ông rất thông tuệ, khoảng 8, 9 tuổi đã làm được những bài văn ngắn và thường dự những cuộc thi ở phủ, huyện. Năm lên 6, nhân có đĩa bắp (ngô) bưng lên mời khách, khách ra câu đối:
- Ta ăn ngô (ngô là bắp ngô mà lại có nghĩa là ta)
  Ông đối liền:
- Họ hái thị (thị là quả thị mà cũng có nghĩa là họ)

2/Một cũng đủ rồi

  Phan Bội Châu hồi còn trai trẻ, có lần sang làng Xuân Hồ hát ví phường vải, bị bên gái hỏi như sau:

Sách rằng Nghiêu hữu cửu nam,
Biết Đan Chu là một, hỏi tám chàng tên chi?
 

   Phan vò đầu vò tai mãi mà không biết trả lời ra sao; vì khi học Bắc sử chỉ thấy sách chép rằng vua Nghiêu có chín con trai, người con đầu là Đan Chu, chứ tám người sau có thấy ghi tên đâu.
 Sau bí quá, Phan đành phải tìm cách đánh trống lảng vậy; bèn láu lỉnh vặn lại rằng:
 
Các em là phận nữ nhi,
Một Đan Chu cũng đủ, hỏi mần chi những tám người?
 

  Thế là Phan đã chuyển bại thành thắng, chẳng những gỡ được thế bí mà còn quay lại tấn công nữa, làm cho cô nào cô nấy thẹn chín người . Và rồi lại đến lượt chính các cô đâm ra lúng túng không tìm được câu trả lời.

3/Nghe thơ đoán người

    Năm Nhâm Tý (1912) sau khi hội Việt Nam Quang phục được  thành lập, nhiều người trong nước sang tìm Phan Bội Châu ở Quảng Đông, bàn với ông rằng muốn cuộc vận động cách mạng trong nước có kết quả tốt , cần có nhiều cuộc bạo động gây tiếng vang kinh thiên động địa để kích thích lòng người. Ông cho là phải, và quyết định tìm người đủ can đảm và nhiệt tình để làm “cái công việc của Trương Tử Phòng và An Trọng Cẩn” (Muốn nói việc trừ khử những tên trùm hại nước, như việcTrương Tử Phòng người nước Hán sai lực sĩ định trừ khử Tần Thủy Hoàng và An Trọng Cẩn người Triều Tiên, ám sát viên tổng giám Nhật Bản ở Triều Tiên). Nguyễn Hải Thần và Đặng Tử Vũ đón biết ý ông liền xung phong xin đi làm nhiệm vụ ấy ở hai sứ Bắc kỳ và Trung kỳ. Ông đang tìm một người thứ ba nữa cho Nam kỳ, thì không có ai xung phong. Duy có một người tên là Bùi Chính Lộ, vừa vượt ngục ở trong nước, chân ướt chân ráo trốn sang là biết rõ tình hình trong Nam. Phan Bội Châu liền chỉ định Bùi đi Nam kỳ. Khi ra đi, Nguyễn Hải Thần và Đặng Tử Vũ đều có thơ lưu biệt, duy chỉ có Bùi Chính Lộ là lầm lì không nói năng gì.
 Thơ của Nguyễn Hải Thần có câu:

Thành tam thập tải bình sinh chí,
Phát tứ thiên niên lịch sử quang.


  Nghĩa là:
Thỏa chí bình sinh ba chục tuổi
Sáng trang lịch sử bốn nghìn năm.

 Đặng Tử Vũ làm thơ nôm có câu:

Đỉnh chung vứt lại cho ai cả.
Bảo kiếm mang theo trả nợ đời.


 Phan Bội Châu nghe xong mấy câu thơ thì có vẻ không bằng lòng. Ông cho rằng một người vừa huênh hoang vừa tham danh vọng (Nguyễn Hải Thần), một người còn luyến tiếc lợi lộc cá nhân (Đặng Tử Vũ), ông định không để cho họ đi nữa, nhưng vì việc gấp rút quá rồi, vả lại cũng không còn tìm ra ai được nữa, nên rút cuộc làm lơ.
  Quả nhiên hai người về đến Bắc kỳ và Trung kỳ thấy bọn mật thám hoạt động ráo riết quá, thì khiếp sợ, chẳng dám làm gì, chẳng qua phung phí hết số tiền lớn mang theo, rồi cuối cùng cũng chỉ giết được một tên tuần phủ già và hai viên sĩ quan Pháp đã về hưu trí trong một khách sạn nọ.
 Còn Bùi Chính Lộ đi đường Thái Lan – Khơ Me, vừa mới đến Băng Cốc thì bọn chó săn đánh hơi, theo riết không rời một bước. Ông tìm đủ trăm phương nghìn kế để bứt mình ra khỏi nanh vuốt của chúng nhưng vẫn không xong. Cuối cùng trong một phút phẫn uất, ông rút hai quả tạc đạn ném chết hai thằng mật thám, rồi mới để chúng bắt. Và sau đó, khi chúng dẫn đến nhà lao, thì ông liền tự sát.

4/Hai hồn thơ lớn gặp nhau

 Tương truyền khi Phan Bội Châu bị an trí ở Huế, cụ có thành lập một thi xã  lấy tên là “Mộng Du thi xã” để xướng họa thơ phú làm vui . Bấy giờ nhà thơ Hàn Mặc Tử hiệu Phong Trần đang sống ở Quy Nhơn, có gửi đến Mộng Du thi xã 3 bài thơ để góp vui, đồng thời gửi gắm tâm sự của nhà thơ.
 Trong đó có bài nhan đề “Đêm không ngủ”, nội dung như sau:

Non song bốn mặt ngủ mơ màng
Thức chỉ mình ta dạ chẳng an
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn
Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ
Buồn giúp công danh dế dạo đàn
Trỗi dậy nôm na vài điệu cũ
Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.
 

  Cụ Phan đọc thơ Hàn Mặc Tử rất mến phục tài năng của nhà thơ, cụ có lời nhận xét rằng:
 “Tôi về nước đến nay, được xem nhiều văn thơ quốc âm, song chưa được bài thơ nào hay đến thế . Hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau, cười to một tiếng, ấy là thỏa hồn thơ đó”
 Rồi cụ Phan lần lượt họa lại cả ba bài thơ của Hàn Mặc Tử. Bài “Đêm không ngủ” được họa lại nguyên vận như sau:
 
Chợi lợi vườn danh tí chẳng màng
Sao ăn không lọt ngủ không an
Trăm năm ngán đó tuồng dâu bể
Muôn họ nhờ ai bạn chiếu chăn
Cửa sấm gớm ghê người đánh trống
Tai trâu mỏi mệt khách đưa đàn
Lòng sen đằng đẵng tơ sen vướng
Mưa gió bao phen gốc chẳng tàn.


   Dư luận đương thời đọc thơ hai người đều ngợi khen, cho đó là những lời tâm sự của hai hồn thơ lớn đầy tâm huyết với non sông đất nước.

5/Nam Đàn tứ hổ là đây

  Phan Bội Châu còn có tên là Phan Văn San, đỗ đầu xứ và nổi tiếng về tài năng uyên bác, mẫn tiệp cùng với ba người  bạn học cùng quê ở huyện  Nam Đàn tỉnh Nghệ An là Nguyễn Đình Sang, Trần Văn Lương, Vương Thúc Quý được gọi là “Nam Đàn tứ hổ”.
  Một lần “tứ hổ” tham gia hát ví, có cô gái trong phường vải hát lên một câu rằng:

Nam Đàn tứ hổ là ai?
Nói cho em biết để mai em chào!


Câu hỏi quá dễ, nhưng trả lời được ngay cũng là chuyện không đơn giản. Hơn nữa, làm sao mà trong hai câu lục bát kể được tên cả bốn người. Ấy vậy mà Phan Bội Châu đã ứng tác, đáp lại ngay bằng một giọng xuề xòa, thân mật:
 
Nam Đàn, tứ hổ là đây
San, Sang, Lương, Quý một bầy bốn anh!


 Một bầy bốn anh! Chỉ có chàng trai Phan Bội Châu tinh nghịch và thân quen với các cô gái tài hoa mới dám nói năng như vậy. Vì “bốn anh” này, đều là những nho sĩ nổi tiếng ở Nam Đàn, ai cũng phải kính trọng . Phan Bội Châu dám gọi họ là “một bầy”, lại còn ngụ ý tự hào về quê hương Nam Đàn văn vật của mình: người giỏi có đến mấy bầy, mấy đống.
 Thế là nhờ tài mẫn tiệp của chàng Phan mà nhóm “Nam Đàn tứ hổ” khỏ bị bẽ mặt với các cô phường vải hôm ấy.

6/Trời xanh còn hãm anh hùng

  Tương truyền có lần Phan Bội Châu thi hỏng về, bỏ sang phường vải Nam Kim để hát cho khuây khỏa, vì ông rất mê loại ca hát dân dã này. Có cô gái biết là ông đương ức vì không đỗ, liền hát trêu rằng:

Nghe chàng ứng thí mới về,
Bài ra nặng nhẹ quyển đề làm sao?


 Đang bực vì thi hỏng, nghe hát như vậy, Phan Bội Châu liền lấy việc các o vẫn mong chuyện "võng anh võng nàng" ra để hát giễu lại như sau:
 
Ơ tề (ơ kìa) ngồi rứa không lo
Người ta chị tú cô nho ơ tề!


  Các cô không chịu kém, tức thì hát trả lời ngay:

Ơ hay ngồi rứa làm sao
Chờ cho tuấn kiệt anh hào ra tay


  Bấy giờ Phan mới trả lời câu hỏi ghẹo lúc ban đầu:
 
Hỏi ta ta cũng tạ lòng
Trời xanh còn hãm anh hùng chút chơi …


  Đến đây thì các o đã hiểu chí lớn của Phan, không ai còn hát chọc ghẹo gì ông nữa.

7/Chị em cất gánh sơn hà

  Phan Bội Châu tham gia hát phường vải, đến đâu cũng được các phường quý mến. Tên tuổi ông lừng lẫy và chắc chắn ông đã được … lọt vào mắt xanh của nhiều cô. Ông đến đâu là họ hát mừng ông đến đó,mừng mà có gợi ý nhắn nhủ  , gợi ý yêu thương. Một lần, các cô ở phường vải Yên Quả hát:

Ầm ầm nghe tiếng ong san
Chị em cất gánh lên ngàn tìm hoa


“Ong san” có nghĩa là ong san tổ, tiếng địa phương hát ong san, nghe như ông San. Ở quê nhà, Phan Bội Châu vốn tên là Phan Văn San. Hát như vậy là trân trọng ông vô cùng, và cũng có phần khêu gợi. Nhưng Phan Bội Châu để ý đến tình dân tộc, đến nhiệm vụ cứu nước nhiều hơn là để ý tình riêng. Ông hát đối lại, chuyển ngay thành chủ đề yêu nước:
 
Chị em cất gánh sơn hà
Làm cho rõ mặt đàn bà nước Nam


 Hai câu này ông San đã dựa theo hai câu trong sách Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát để hát. Đó nguyên là hai câu trong đoạn nói về Bà Triệu:

Cũng toan cất gánh sơn hà
Cho Ngô biết mặt đàn bà nước Nam.


8/Làm thơ dựa ý ca dao

   Một lần Phan Bội Châu cùng bạn là Vương Thúc Quý đi chơi, đến một đoạn đường, hai người cùng nghe câu hát vẳng lên:

Vai mang khăn gói qua sông
Mẹ kêu mặc mẹ, thương chồng cứ theo.


  Hai ông thách nhau, dựa vào ý của câu ca dao ấy mà làm thơ, mỗi người làm một bài hay chỉ vài câu cũng được. Vương Thúc Quý làm trước, đọc rằng:

Giang sơn một gánh tình chưa vẹn
Ân ái đôi bên lẽ khó tròn

  
   Phan Bội Châu thì đọc:
 
Khoan khoan chờ với ơ ông lái
Huơ huớ van chi rứa mẹ già


  Vương Thúc Quý vỗ vai bạn:
- Ông có thể đi xa, vì nghĩa cả mà làm việc lớn, còn tôi thì khó dứt nhà đi đâu được.
 Một  lần khác, Phan Bội Châu cùng ông bạn là Cử Thụy đến chơi nhà ông Tú Quýnh. Cả mấy người đang ngồi trà nước thì nghe bên hàng xóm, một bà mẹ đang khuyên bảo cô con gái, rồi bà kết luận bằng câu tục ngữ:

Đừng chê mất lề con gấy (con gái)
Chê rồi lại lấy, bất quá đừng chê


  Mấy ông nghe bật cười, bảo nhau dựa vào ý câu tục ngữ ấy mà làm thơ. Ông cử Thụy đọc trước:

Rứa cũng khăng khăng giữ lấy lề
Đã chê đừng lấy, lấy đừng chê
Nói lên rồi lại quên liền đó
Chẳng nhớ lời tê tới bữa tê.


Còn Phan Bội Châu thì đọc rằng:
 
Trơ tráo nhân tình mới bữa tê
Chê rồi lại lấy cũng hay chê


 Chỉ mới nghe ông Phan đọc hai câu, cả hai ông cử, tú kia đều đứng dậy, chấp tay xin nhận thua. Tú Quýnh thì vỗ đùi: Trơ tráo! Trơ tráo! Chữ dùng đến thế thì nghiêm khắc, sắt đá vô cùng! Cử Thụy thì bình phẩm: ông sẽ là người chung thủy suốt đời với một chí hướng đã vạch ra từ ban đầu dù gian nan vất vả đến đâu cũng không thay đổi.

   (Còn tiếp)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà


Giai thoại Phan Bội Châu (1867 – 1940)


 (Tiếp theo)

9/Mặc ai khanh tướng công hầu

 Tại một cuộc hát phường vải ở làng Kiện Liên, có Phan Bội Châu tham dự, một cô gái hát lên:

Nhất vui thơ túi, rượu bầu
Biết ai khanh tướng, công hầu là ai!


 Câu hát kể cũng bình thường. Người hát chỉ muốn xem trong hàng ngũ tao nhân mặc khách đến vui chơi, ai là người mai sau sẽ gặp hội công danh. Thế nhưng lúc bấy giờ, đất nước đang ở trong vòng nô lệ, nghĩ chuyện công danh để vinh thân phì gia thì lại là kẻ thiếu tâm huyết. Cho nên, trả lời không khéo thì dễ bị coi thường. Vả chăng, chí hướng bình sinh của cậu Tú San là cứu nước, cứu dân, nên Phan đã đáp lại câu hát trên như sau:
 
Mặc ai khanh tướng công hầu
Dưới thành luống những muốn câu cá kình


  Cô gái phục lắm, liền hát một câu ca ngợi rằng:

Rõ ràng cốt cách trượng phu
Nước non luống dậy cơ đồ có phen


 Nghe đâu ở địa phương Nam Đàn, người ta còn nhớ tên cô gái tác giả những câu hát trên.

10/Câu hát đoán tên

   Chuyện rằng ở làng Hữu Bằng, huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) có ông Cửu Thiện vốn tự đắc là người thông thái, nhiều chữ nghĩa điển tích. Nghe tin bên Nam Đàn có Phan Bội Châu nổi tiếng hay chữ liền tìm đến để thử tài. Khăn gói trên vai, ông đến vùng này đúng vào một đêm hát phường vải, có Tú San (Phan Bội Châu) tham dự. Cửu Thiện vào cuộc giữa sự ngạc nhiên của mọi người. Thường tình thì phường bạn người ta thường quen nhau, nếu có mời được “thầy dùi” nào thì sớm muộn cũng có tin thóc mách. Đằng này, Cửu Thiện từ dáng người đến giọng nói đều xa lạ. Phe bên nữ liền hát ngay một câu:

Tối tăm biết trúc là mai
Biết đào là liễu, biết ai mà chào!


   Theo lệ, thế nghĩa là người ta đòi hỏi phải xưng danh trước đã, có lẽ cũng đúng vào bản ý của Cửu Thiện. Ông đã có chuẩn bị trước để đối phó với tình huống này, mà phải đối phó một cách hiên ngang, vừa tự giới thiệu mình, vừa dồn đối phương vào chỗ bí. Cửu Thiện ung dung hát lên một câu như sau:

Đào nguyên một giải thanh thanh
Tiền Triều đã định, liên thành còn in


  Hát cái gì lạ vậy? Các bạn phường vải ngơ ngác đã đành, mà các thầy nho sĩ tham dự đêm hôm ấy cũng lúng túng, ngỡ ngàng. Mọi người nhìn dồn cả vào cậu Tú San, lúc ấy cũng đang suy nghĩ. Lát sau, đột nhiên cậu Tú mỉm cười, gật đầu, rồi khẽ lẩm nhẩm câu thơ bên tai một chị vẫn nổi danh tốt giọng. Chị bạn hào hứng hát lên rằng:

Hương Sơn là chốn quê nhà.
Phải tên danh Bích có là đúng chăng?


  Nghe xong Cửu Thiện giật mình, không ngờ câu hát của ông đã dụng ý dùng điển tích sâu xa, lấy tài liệu ở riêng địa phương mình, người ngoài khó lòng hiểu được, thế mà Phan Bội Châu vẫn luận ra, chỉ trong chốc lát. Đào Nguyên là một tên gọi khác của sông Ngàn Phố, thuộc huyện Hương Sơn. Tiền Triều cũng là một địa danh cũ. Nếu không đọc sách huyện chí địa phương thì không thể nào biết được. Lại còn chữ “liên thành”. Dụng ý của Cửu Thiện là mượn chữ trong sách cổ “liên thành vi bích” (ngọc bích là ngọc liên thành). Phan Bội Châu vạch đúng thành ngữ ấy, lại dùng chữ tên “danh Bích” cũng có ý sách mé đối chút. Đúng đó là tên trong sổ bộ của Cửu Thiện.
  Ông Tú San hay chữ nhất nước! Điều đó quả thực hôm nay Cửu Thiện mới được chứng kiến rõ ràng. Cả đám phường vải, làng văn làng nho Nam Đàn lâu nay vẫn biết thế rồi, mà đến bây giờ lại càng tự hào thêm về người đồng hương của họ. Nghe nói, tiếp đó, Cửu Thiện đã nài nỉ xin gặp cho được Phan Bội Châu để theo về đến tận nhà, trò chuyện hỏi han suốt đêm cho thỏa lòng khao khát.

11/ Thơ tặng người đồng cảnh

   Phan Bội Châu tuy học giỏi, nhưng đi thi lại rất long đong. Phải sáu lần thi hương mới được tên treo trên bảng. Chính vì vậy, nên đối với những người cùng hoàn cảnh, ông rất thông cảm.
  Giai thọai tặng thơ được truyền lại như sau: Bấy giờ có nhà nho Trần Quý Cáp người Quảng Nam, nhà nghèo, học giỏi, mà cứ thi hỏng mấy lần. Khóa Quý Mão (Thành Thái 1903), Cáp vào trường nhất, trường nhì đều ưu cả, nhưng đến trường ba thì trượt. Lúc đó Phan Bội Châu đã đậu giải nguyên rồi, đang ở trường Giám trong kinh. Thấy cảnh ngộ của Trần cũng long đong về đường khoa cử như mình trước kia, Phan Bội Châu bèn tìm đến thăm. Trong lúc đàm đạo, nhân được biết Trần là người khẳng khái có lòng với nước với dân, nên Phan Bội Châu có làm tặng Trần bài thơ như sau:
 
Ngã tích như quân lệ ám thùy,
Quân kim đối ngã cưỡng khai my.
Túy tinh ngã bối song cuồng nhãn,
Đắc táng nhân gian nhất cuộc kỳ.
Thiên địa hữu tình dung ngã kiện,
Giang sơn vô ngữ tiếu nhân si.
Bằng kim thả chước tôn tiền nguyệt,
Mai ý xung hàn chỉ tự tri.


   Dịch thơ:
Tớ trước như ngươi lệ nhỏ đầy,
Ngươi nay gặp tớ gượng tươi mày.
Bọn ta say tỉnh hai tròng mắt,
Cờ thế hơn thua một cuộc xây.
Trời đất có lòng nuôi sức khỏe,
Non sông không nói mỉa người ngây.
Thôi đành rót rượu cùng trăng uống,
Mai nở mùa đông chỉ tự hay.

   Trần đọc thơ rất cảm khái, tặng lại Phan một đôi câu đối:

Quân dĩ tác Nam du, Vân Lĩnh Hành Sơn tiềm nhĩ;
Ngã tằng văn Bắc địa, Hồng Sơn Lam Thủy hùng tai!


 Tạm dịch:
Bác tới miền Nam, Vân Lĩnh Hành Sơn cao vút;
Tôi nghe đất Bắc, Hồng Sơn Lam Thủy hùng thay!

  Vì Trần Quý Cáp đỗ ba khoa tú tài liên tiếp, theo lệ được vào thi hội cũng như đã đỗ cử nhân, ông đỗ tam giáp tiến sĩ khoa Giáp Thìn (Thành Thái 16, 1904), rồi sớm dấn thân vào con đường cách mạng. Bộ ba Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp khởi xướng phong trào Duy Tân ở Quảng Nam theo khẩu hiệu “khai dân trí , chấn dân khí , hậu dân sinh”, chủ trương xu hướng bất bạo động. Phan Bội Châu và Trần Quý Cáp trở nên đôi bạn chí thiết.

12/Thơ Kiều gởi gắm tâm sự

  Năm 1925, Phan Bội Châu đang hoạt động ở Trung Quốc thì bị bắt đưa về Việt Nam. Vì áp lức đấu tranh của nhân dân cả nước, Pháp không kết án được cụ, phải đưa cụ về an trí ở Huế. Chính quyền thực dân tìm cách mua chuộc, đã cố sức vận động mời cụ ra làm với “Nhà nước bảo hộ”. Họ đề nghị cụ có thể giữ chức cố vấn cho Nam triều hoặc thượng thư bộ Học. Hay nếu cụ không muốn tham gia chính quyền, thì sẽ thu xếp để cụ có thể làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ.
  Cụ Phan là người kiên quyết chống thực dân, chủ trương bạo động. Nhưng đồng thời cụ cũng là người khá rộng rãi trong cách xử xự. Đôi khi cũng dễ tin người. Nhiều đồng chí của cụ và nhiều đồng bào khác biết tính ấy, nên rất sợ cụ nể nang mà nhận lời cầu khẩn trên đây. Dù sao khi đã ra làm việc cũng là hợp tác với chính phủ thực dân, đó là điều có hại cho uy tín của cụ, chưa nói đến khả năng xấu là mắc mưu xảo quyệt của chúng sau này. Vì vậy đã có nhiều thư từ gửi đến xin cụ bảo trọng khí tiết. Nhân dân ở Huế, cử hẳn một đoàn đại biểu đến tận nhà trọ của cụ để biểu lộ niềm tôn kính đối với cụ và bày tỏ lòng dân.
   Để trả lời chung, cả những người có thư có lời trực tiếp khuyên răn và cả những ý kiến ngoài dư luận, Phan Bội Châu đã gửi gắm tâm sự bằng một bài thơ tập Kiều như sau:
 
Dù chăng xét tấm tình si
Thiệt đây mà có ích gì cho ai
Vội chi liễu ép hoa nài
Còn thân ắt cũng đền bồi có khi
Sinh rằng : từ thuở tương tri
Tấm riêng riêng những nặng vì nước non
Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông
Muôn đội ơn lòng!.....


   Mọi người đọc thơ đều yên tâm và cũng rất cảm thông với nỗi khổ tâm của cụ “Tấm riêng riêng những nặng vì nước non”. Bài thơ gửi gắm tâm sự của cụ Phan được truyền bá rộng rãi trong nhân dân Huế đương thời.

13/Nhuyễn Kiều

 Phan Bội Châu lúc trẻ tục gọi Nho San hoặc Tú San, là người mê Kiều, thuộc Kiều, thường dùng thơ Kiều ứng dụng mọi nơi mọi lúc…
Chuyện kể rằng, hồi đi hát phường vải, Nho San có nhiều câu ví tập Kiều, mượn Kiều, còn lưu truyền trong dân gian xứ Nghệ

  Một cô gái ví trêu một anh hay đánh bạc:

Một tay xây dựng cơ đồ
Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành.


  Nho San đã gà cho anh con trai đáp lại như sau:
 
Tung hoành bể Sở sông Ngô
Rồi ra xây dựng cơ đồ một tay


  Một cô gái làng Thịnh Lạc hát nhạo một anh hay đi bắt cá đêm dưới sông:

Hỏi anh cơn cớ làm sao
Năm canh cứ lặn dưới rào cả năm?


  Tú San đã gà cho anh chàng đáp lại rằng:
 
Ra tay giúp nước phò vương
Dễ dò bốn bể, khôn lường lạch sông (1)  


(1) Nguyên văn Kiều là rốn bể, nhưng khi tập Kiều, nho San đổi lại là bốn bể

   Sau một thời gian đi xa, Phan Bội Châu về quê vẫn tham gia hát ví. Các cô gái hát mừng:

Mừng chàng nay đã phản hồi
Bấy lâu góc bể chân trời ra sao?


   Chàng Phan đáp lại rằng:
 
Mừng nay ta được trùng phùng
Cánh hồng tiện gió, vẫy vùng bể khơi.


   Do thuộc Kiều đến độ nhuyễn, nên trong thơ văn Phan Bội Châu sau này người ta vẫn còn thấy nhiều câu phảng phất hơi thơ Kiều:
 
- Xuân sao xuân khéo bẽ bàng
Non sông điểm ngọc tô vàng cho ai

- Thương ôi trăm sự tại người.
Chữ đồng ai dám ngăn rời chữ tâm

                 -------------------------

   Viết theo:

1/ Giai thoại văn học Việt Nam, Kiều Thu Hoạch, Nxb Văn Học, Hà Nội, 2010
2/ Giai thoại làng nho, Lãng Nhân, Nam Chi tùng thư xuất bản, Sài Gòn, 1966
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà


Giai thoại Nguyễn Công Trứ (1778 -1859)


  Nguyễn Công Trứ 阮公著 tự Tồn Chất, hiệu Ngô Trai, biệt hiệu là Hi Văn 希文, người làng Uy Viễn huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1778, đỗ Giải nguyên khoa Kỷ Mão 1819 (Gia Long thứ 18).

 Tương truyền vào năm Kỷ Mão ấy, vua Minh Mệnh còn là đông cung thái tử ra hồ Tĩnh Tâm chơi, tinh thần mỏi mệt, ghé nằm trên võng thiu thiu ngủ. Bỗng thấy một người học trò, tự xưng là học giả từ Lam Sơn đến hầu. Thái tử thấy người học trò đội mũ cỏ, tay cầm một cây gậy nhọn xiên qua bên mặt trời, tự nhiên mặt trời đùn lên một đám mây đen, rồi tối sầm lại. Người học trò giơ cây gậy lên thì đám mây đen tan ngay, trời sáng bừng lên. Thái tử về cung, đem việc nằm mộng hỏi thị thần. Quan Thái bộc đoán: "Người học giả là kẻ học trò, tên y tất có chữ giả 者, đội mũ cỏ, tức là thêm bộ thảo đầu 艹, tức là tên Trứ 著. Trong chữ Trứ có nét phẩy cài sít qua chữ nhật, tức là cái gậy xiên qua mặt trời. Từ Lam Sơn lại, người ấy tất ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh. Đám mây đen đùn lên ở bên mặt trời là điềm sau nầy biên thuỳ có loạn. Người ấy cầm gậy vẫy mà đám mây tan là điềm người ấy sau dẹp tan giặc. Vậy xin Điện hạ nghiệm xem khoa thi này có người tên Trứ quê ở vùng Nghệ Tĩnh thi đỗ không?"
  Thái tử nghe lời. Đến khi quan trường chấm xong đệ danh sách vào Bộ duyệt, thấy thí sinh tên Nguyễn Công Trứ đỗ thủ khoa; Thái tử mừng là ứng vào điềm mộng và quốc gia đã tuyển được nhân tài chân chính. Khoa ấy, các quan chấm trường, và quan Thái bộc đều được thăng một cấp.
  Quả nhiên, về sau, vào năm Minh Mạng thứ 18 (1834), tướng giặc Nồng Văn Vân đánh chiếm vùng biên giới tỉnh Cao Bằng, Nguyễn Công Trứ đang giữ chức Tổng đốc Hải Dương, được triều đình sai đi đánh, dẹp xong giặc.

   Làm quan trải ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, ông là người văn võ kiêm toàn, làm quan ở đâu cũng có chính tích, có tài thơ văn, đặc biệt sở trường về lối ca trù, là một trong những thi nhân có nhiều giai thoại văn chương.

1/ Hỏi anh:

  Tương truyền Nguyễn Công Trứ lúc còn trẻ rất hay đi hát ví. Có lần, ông bị đối phương là một cô gái trẻ, đẹp, hỏi dồn cho một thôi như sau:

Hỏi anh hà tính, hà danh,
Hà châu, hà quận, niên canh kỷ hà?


 Người đẹp tham lam muốn tìm hiểu nhiều điều quá: Họ gì? Tên chi? Châu nào? Quận nào? Tuổi bao nhiêu ? Trả lời cho đầy đủ cả bấy nhiêu điều vào trong vài câu thật không phải chuyện dễ. Nhưng im lặng không trả lời gì, thì chẳng hóa ra chịu thua người đẹp ư?
 Nguyễn Công Trứ đứng ngẩn ra một lúc, rồi đành phải đáp lại qua quýt cho xong việc:

Trước Lam thủy sau Hồng sơn,
Nhà nào đọc sách gây đờn là anh.

 Rồi đó, cắp nón chuồn thẳng không dám ngoái cổ lại.

2/ Anh hùng đè xuống dưới:

 Thiên tư thông tuệ, lại gặp được thầy hay bạn tốt, học nghiệp dễ dàng, nhưng vì nước nhà đang cảnh nhiễu nhương, nên ông đành ẩn nhẫn qua ngày.
 Một hôm, đương đi chơi bỗng gặp mưa phải vào trú trong quán nước bên đường, ngồi lâu mưa không ngớt lại thêm gió lạnh, ông bèn nằm vào ổ rơm của nhà hàng, lấy chiếu đắp lên mình đánh một giấc. Thình lình đại binh của Tả quân Lê Văn Duyệt diễn tập về đi qua đó. Những người trong quán đều sợ hãi, nép vào một xó. Toán tiền quân đi vào quán, thấy có người nằm ngủ, thét gọi dậy, thì vừa lúc quan Tả quân cưỡi ngựa tới. Nguyễn lồm cồm đứng lên, không chút sợ hãi. Tả quân nhìn vào, thấy người có vẻ đĩnh đạc, truyền quân lính không được làm dữ, và bảo dẫn ông ra, hỏi:
- Cớ sao thấy đại quân ta trẩy qua mà cứ nằm đó không chịu đứng dậy cho phải phép?
- Quân của đại tướng là quân nhân nghĩa, đi tới đâu, dân chúng vẫn yên ổn làm ăn, không bị kinh động. Bởi vậy, tiểu sinh vẫn nằm yên không lo ngại gì. Vả đi đường mệt nhọc, gặp nơi yên ấm ngủ quên, thành ra đắc tội, xin đại tướng lượng thứ.
 Tả quân ôn tồn bảo:
- Mi là học trò hả? Vậy hãy thử vịnh cảnh "Nằm ổ rơm đắp chiếu" này đi. Hay, ta sẽ tha cho, bằng không thì sẽ chiếu theo quân pháp mà trị tội.
 Nguyễn ứng khẩu đọc:

Ba vạn anh hùng (1) đè xuống dưới,
Chín lần thiên tử (2) đội lên trên.


(1) Anh hùng rơm
(2) Chiếu chỉ của thiên tử, mà cũng là cái chiếu đắp. Chín lần: cửu trùng
 
 Tả quân kinh ngạc, thấy anh học trò tầm thường mà có khẩu khi lớn, nên hỏi họ tên, ân cần khuyên bảo mấy lời, lại thưởng tiền và cho về.
 Từ đó Tả quân lưu tâm đến Nguyễn. Năm Gia Long thứ ba (1804) vua Gia Long ra Bắc Thành, có trú lại Nghệ An mấy ngày. Nguyễn đến hành cung hiến sách, tỏ bày các việc nên làm. Khi ấy Tả quân đi hộ giá, vốn đã biết tài ông, cho mời đến hỏi về dân tình. Nguyến đối đáp trôi chảy, và câu nào cũng xác đáng cả, Tả quân lại càng khen ngợi.
 Sau khi ở Bắc về, mỗi khi tiếp chuyện các quan đồng triều, Tả quân không quên nhắc đến câu chuyện hai lần gặp họ Nguyễn, và nói:
- Người ấy thực là bậc kỳ tài, lại có chí lớn. Nếu triều đình biết dùng, chắc sẽ thành một bầy tôi lương đống mai sau.

3/ Khinh thường quan võ:

 Người ta kể rằng khi Nguyễn Công Trứ còn là học trò, một hôm đi học giữa đường gặp một viên quan võ, ông cứ nghênh ngang đi không chịu tránh.
 Viên quan giận lắm, sai lính bắt lại để hạch tội. Nguyễn Công Trứ liền kêu là học trò đang vội đến trường nên không để ý có quan đi. Viên quan thấy nói năng xấc xược nhưng mà có lý, bèn quay ra bảo:
- Nếu vậy anh phải vịnh ngay một bài thơ thật hay không thì sẽ bị chết đòn!
 Nguyễn Công Trứ gãi tai hỏi xin đầu bài.
 Viên qua võ hất hàm bảo cứ lấy ngay địa vị hai người mà làm đề.
 Nguyễn Công Trứ liền đọc ngay rằng:

Đoái xem văn võ cả hai hàng,
Bên văn sang, bên võ cũng sang.
Dù tía, võng xanh văn đủng đỉnh,
Gươm vàng, thẻ bạc võ nghênh ngang.
Văn dìu cánh phượng yên trăm họ,
Võ thét oai hùm dẹp bốn phương,
Gặp hội thái bình văn trước võ,
Võ đâu dám sánh khách văn chương!


 Nghe mấy câu đầu viên quan võ có vẻ khoái trí gặt gù tán thưởng. Nhưng đến hai câu kết, thấy mình bị khinh là võ biền kém cỏi không bằng khách văn chương thì quan tức quá thét lính phết cho Trứ mấy roi.
 Nhưng rồi sau đó, chừng cảm phục tài nghệ kẻ làm thơ, viên quan lại thưởng cho Nguyễn Công Trứ mấy nén bạc và để cho đi.

4/ Được tha vì câu thơ hóm hỉnh:

 Tương truyền một buổi Nguyễn Công Trứ đang cắp sách đến trường thì gặp cô con gái quan đốc học đi chơi. Thấy cô ả mặc chiếc áo màu lục mới tinh mà điệu bộ thì õng à õng ẹo, xung quanh lại kẻ dìu người dắt nom đến ngứa mắt, Nguyễn Công Trứ nhân đang nhai trầu liền nhổ ngay một bãi quết trầu vào áo cô ta.
 Cô ả bị nhổ bẩn kêu thét lên và quát lính trói anh học trò láo xược ấy về trình quan. Vừa về đến dinh thì trời đổ mưa.
 Nguyễn Công Trứ phải đứng chờ xét hỏi ở ngoài cổng, mãi lúc mưa ướt hết quần áo mới được vào công đường. Vào đến nơi, quan hỏi ra biết Nguyễn Công Trứ là học trò, bèn bắt phải vịnh thơ để chuộc tội. Nhân khi ấy trời đang đại hạn lại gặp trận mưa như thế, viên quan liền lấy ngay việc đó để ra đề cho Nguyễn Công Trứ.
  Nguyễn chẳng cần phải nghĩ lâu, đọc luôn rằng:

Thoắt chốc tai nghe một tiếng ồ,
Dần dần ngoài cửa mới đưa vô.
Tưởng rằng gió cuốn màn mây lại,
Ai biết trời luôn lộc nước cho.
Khi nãy nắng nôi ra thế ấy,
Bây giờ mát mẻ biết chừng mô.
Hỡi người ướt áo đừng năn nỉ,
Có rứa rồi ra mới được mùa.


  Viên đốc học nghe xong thấy thơ hay, lại có hai câu “Dần dần ngoài cửa mới đưa vô” và “Hỡi người ướt áo đừng năn nỉ”, chỉ việc anh học trò đứng ngoài cổng ướt áo và việc con gái mình bị nhổ bẩn rất hóm hỉnh, bèn tha phạt cho Nguyễn Công Trứ.

5/ Làm thơ khất nợ:

 Lúc thiếu thời, Nguyễn Công Trứ đã từng được người đời liệt vào hàng những tay đổ bác có tiếng. Ông vớ của thiên hạ cũng đã lắm, mà thua thiệt nợ nần người ta thì cũng nhiều.
 Một lần đi đánh tổ tôm bị thua rồi mang nợ, chủ nợ là một ông cụ già, đến đòi năm lần bảy lượt mà Nguyễn cũng vẫn không có tiền trả.
 Sau ông lão đòi rát quá, Nguyễn Công Trứ đành phải đi lục lọi rương hòm xem có gì đáng giá để đem cầm đợ mà lấy tiền trang trải. Nhưng khốn thay, lục mãi mà vẫn chẳng khui ra được gì ngoài mấy quyển sách nát. Túng thế, Nguyễn Công Trứ mới đọc liều cho ông già một bài thơ để xin khất nợ. Thơ rằng:

Thân "bát văn" tôi đã xác vờ,
Trong nhà còn biết "bán chi" giờ?
Của trời cũng muốn "không thang" bắc,
Lộc thánh còn mong "lục sách" chờ.
Thiên tử "nhất văn" rồi chẳng thiếu,
Nhân sinh "tam vạn" hãy còn thừa.
Đã không "nhất sách" kêu chi nữa?
"Ông lão" tha cho cũng được nhờ!


 Chỗ tài tình của bài thơ là ở chỗ Nguyễn Công Trứ khéo vận dụng những tên quân bài tổ tôm (như: bát văn, bán chi, không thang, lục sách, nhất văn, tam vạn, nhất sách, ông lão) vào bài thơ, nhưng đồng thời những danh từ ấy lại vẫn có nghĩa thông thường trong câu thơ:
- Bát văn: tên quân bài có vẽ một thân hình lươn khươn yếu ớt, tượng trưng hài hước một anh học trò; vì vậy thân bát văn là nói bóng thân học trò.
- Bán chi: tên quân bài, và nghĩa thứ hai là bán cái gì bây giờ?
- Không thang: tên quân bài, nghĩa khác là không có thang để bắc lên trời.
- Lục sách: tên quân bài, nghĩa thứ hai là lục tìm trong sách vở.
- Nhất văn: tên quân bài, nghĩa khác là thoắt nghe (đây lấy trong câu “Nhất văn thiên tử chiếu, tứ hải trạng nguyên tâm”) Nghĩa là : Vừa nghe chiếu vua mở khoa thi, bốn biển đã nức lòng muốn chiếm trạng nguyên. Câu này còn có ý bảo: nay mai tôi đỗ đạt rồi chẳng thiếu gì tiền.
- Tam vạn: tên quân bài; một nghĩa nữa là ba vạn ngày, tức suýt soát một đời người.
- Nhất sách: tên quân bài, nghĩa thứ hai là một mưu kế.
- Ông lão: tên quân bài, nghĩa khác chỉ ông lão chủ nợ
 
 Ông lão rắp tâm đòi cho bằng được, thấy Nguyễn Công Trứ giở thơ ra đã có ý bực. Nhưng lần lần nghe qua cả bài thấy bài thơ hay mà khéo quá, tám câu đều có tên một quân bài tổ tôm, mà đồng thời lại nói lên được cái cảnh học trò nghèo kiết xác không có tiền…
  Vì thế ông lão nghĩ thương tình và mến tài, bằng lòng cho Nguyễn Công Trứ khất nợ.

6/ Thơ tạ long thần:

   Lúc còn trẻ Nguyễn Công Trứ là người rất tính nghịch. Trưa, tối thường hay lảng vảng vào các miếu long thần, thổ địa ở làng để chơi đùa, vẽ bậy. Có lần lại bê cả xôi, chuối, rượu, thịt ở bệ thờ về đánh chén; khiến ông thủ từ cứ nghi nghi hoặc hoặc mà chẳng dám kêu ca…
 Một buổi tối Nguyễn Công Trứ lẻn vào miếu lấy rượu, thịt xuống nhắm say khướt, rồi lại nâng chén ghé mãi vào miệng long thần; thấy pho tượng cứ ngồi yên không nhúc nhích, ông tức mình vật ngửa tượng ra đổ rượu vào mồm, đánh cho mấy bạt tai rồi mới khật khưỡng đi về.
 Sáng mai tỉnh dậy, không biết là ông hối hận hay nghĩ thế nào lại làm bài thơ yết hậu sau đây, rồi đem ra dán ở miếu để tạ long thần:

Hôm qua trời tối tới chơi đây,
Đánh phải long thần mấy cẳng tay.
Khi tỉnh thời nào ai có dám …?
Say!  


 Bấy giờ ông từ mới vỡ lẽ, nhưng thấy anh học trò có lời thơ sắc sảo, hài hước, cũng bật cười, chỉ răn đe qua loa chứ không đem bắt vạ.

7/ Đối chọi với sư :

   Lúc Nguyễn Công Trứ còn đi học, có lần trọ ở gần một ngôi chùa. Nghe đồn sư ông chùa đó là người hay chữ, nhưng lại hay ghét học trò. Thêm vào đó, nhà sư lại có tính hay ăn thịt chó, thường vùi nồi thịt ở bếp, mà hễ ai có hỏi thì cứ bảo đó là nồi cà bung.
   Nguyễn Công Trứ tức cười về chuyện ấy, một bữa vào chùa xem thực hư ra sao. Tới nơi, quả nhiên mùi thịt chó thơm lừng mà nhà sư thì đang lúi húi gần đó. Nguyễn cố nhịn cười, vờ hỏi han vớ vẩn mấy câu, rồi cứ ngồi lần khân mãi không chịu ra. Sư ông bị người đến quấy rầy, bực mình mới đọc một câu rằng:

Khách khứa kể chi ông núc (1) bếp

  Nguyễn Công Trứ ngứa tiết, trỏ vào nồi thịt chó và đọc lại rằng:

Trai chay nào đó vại (2) cà sư


(1)  Ông núc bếp: ông đầu rau trong bếp (tiếng Nghệ) và cũng có nghĩa là: ông khách gì mà núc trong bếp người ta
(2) Vại cà sư: cái vại đựng cà của nhà sư (ám chỉ nồi thịt chó), đồng thời có nghĩa là bà vãi cà sát ông sư, tiếng Nghệ không có dấu ngã, nên bà vãi cũng gọi là bà vại, đồng âm với cái vại.

  Sư ông bị vạch chân tướng, hốt hoảng chỉ vào pho tượng gần đó mà đọc rằng:

Xin chứng minh cho, Nam mô A di đà Phật

   Nguyễn cũng trỏ lên bàn thờ táo quân, đọc tiếp ngay:

Có  giám sát đó, Đông trù tư mệnh Táo quân


   Nhà sư túng thế, đành phải gượng bào chữa rằng:

Thuộc ba mươi sáu đường kinh, không thần thánh,
phật tiên, song khác tục.  


   Nhưng Nguyễn vẫn không tha, đọc luôn:

Hay tám vạn tư mặc kệ, chẳng phong lưu,
tuyết nguyệt, đếch ra người.  


 Rồi Nguyễn Công Trứ quay gót bỏ đi. Ra đến giữa sân, có hai con chó xổ ra cắn, một chú tiểu phải ngăn mãi mới được. Nhân đó, Nguyễn lại buột miệng đọc hai câu thơ:

Bụt cũng hiền lành, sư cũng khá,
Còn hai con chó chửa từ bi.  

    Sư ông đành chịu thua, không dám hé răng.

8/ Thơ nhạo đời :

  Trong buổi hàn vi, ông gặp thói đời đen bạc, thường thốt ra lời thơ mai mỉa:

I.
Chẳng phải rằng ngây, chẳng phải đần,
Bởi vì nhà khó hóa bần thần.
Mấy đời thầy kiện mà thua mẹo,
Nghĩ phận thằng nghèo phải biết thân.
Số cả bĩ thôi thời đến thái,
Cơ thường đông hết lại sang xuân.
Trời đâu riêng đói cho ta mãi!
Vinh nhục, dù ai cũng một lần.
II.
Chửa chán ru mà quấy mãi đây?
Nợ nần dan díu bấy lâu nay.
Mang danh tài sắc cho nên nợ,
Quen thói phong lưu hóa phải vay;
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt,
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay;
Còn trời còn đất còn non nước,
Có lẽ ta đâu mãi thế này!
III.
Thế thái nhân tình gớm chết thay!
Lạt, nồng, trông chiếc túi vơi, đầy.
Hễ không điều lợi, khôn thành dại.
Đã có đồng tiền, dở cũng hay.
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi,
Hẳn hoi không hết một bàn tay.
Suy ra cho kỹ, ai hơn nữa?
Bạc quá vôi, mà mỏng quá mây!
IV.
Vận chuyển huyền cơ kể cũng mầu,
Chắc rằng ai khổ, chắc ai giàu?
Nghĩ đâu miệng thế khi yêu ghét,
Được mấy lòng người có trước sau!
Cuối tiết mới hay rằng sớm muộn,
Giữa vời sao đã biết nông sâu;
Ai suy trời đất thì liền rõ,
Mưa mãi đâu mà nắng mãi đâu.


(Còn tiếp)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà


Giai thoại Nguyễn Công Trứ (1778 -1859)


(Tiếp theo)

9/ Thơ trách nữ thần:

  Tương truyền tỉnh Bình Định có ngôi đền tục gọi là đền Châu Chấu rất linh thiêng. Trong đền thờ một nữ thần, hễ người qua kẻ lại, ai không ghé vào thắp nhang hoặc xuống cáng, xuống ngựa thì đều bị bà ta quật ngã thẳng cẳng.
  Lúc đó Nguyễn Công Trứ  đã đi làm quan, có dịp đi công cán qua, phu cáng xin ông xuống cáng để vào thắp hương nhưng ông cho là chuyện nhảm nhí, nhất định không chịu. Hai người phu vốn sung tín ngôi đền này, bây giờ bị bắt buộc phải khiêng qua thì run sợ lắm; hôm ấy trời lại mới mưa, đường trơn, bước chân lập cập, trẹo trọ thế nào suýt nữa thì té nhào, làm cho Nguyễn Công Trứ nằm trên cáng cũng phải một phen hú vía. Nhân thế Nguyễn Công Trứ mới đọc ngay một bài thơ rằng:

Mụ thần như rứa, rứa thì thôi.
Chút nữa làm ông thịch cái rồi
Dẫu có khôn thiêng đành phận dưới
Lẽ nào châu chấu đấu ông voi?


  Rồi chẳng mấy chốc bài thơ đến tai những khách bộ hành và lan đi khắp cùng. Thế là từ đấy người ta sinh ra nhờn với nữ thần, chẳng mấy ai chịu xuống cáng, xuống ngựa nữa. Câu chuyện đền thiêng cũng từ đấy đâm ra nhạt dần.

10/ Phá đền thì phải làm đền:

   Không biết từ đâu mà trong dân gian lưu truyền một câu sấm đồn là của Trạng Trình:

   Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại vi vương.

   (đời thứ hai Gia Long, người ở Vĩnh Lại làm vua)
   Đời thứ hai Gia Long thì chỉ có thể là đời vua Minh Mệnh, Vĩnh Lại chỉ vào quê hương Trạng Trình. Vua Minh Mệnh tính vốn đa nghi, khắc nghiệt. Biết được câu sấm ấy, nhà vua vừa để ý đề phòng vừa căm giận Trạng Trình. Tổng đốc Hải Dương lúc bấy giờ là Nguyễn Công Trứ, được lệnh đến đập phá đền thờ Trạng.
  Ông Trứ mang quân đến, cứ theo lệnh triều đình, cho đập tường, dỡ nóc. Nhưng khi rút mộng thượng lương ra thì thấy một cái hộp nhỏ đã để sẵn trong tấm gỗ rơi xuống. Ông Trứ mở xem, thấy có một mảnh giấy đề mấy chữ:

  Minh Mệnh thập tứ
  Thằng Trứ phá đền
   Phá đền thì phải làm đền
   Nào ai cướp thế tranh quyền chi ai !


 Ông Trứ giật mình hốt hoảng, đành tâu lại với triều đình, xin làm lại ngôi đền cho Trạng Trình. Sau bắt được tên trùm phỉ, tra hỏi ra mới biết câu sấm ấy là do hắn phao đồn.

11/ Thơ vần om :

  Nguyễn Thị Quyên là con gái út của Nguyễn Công Trứ, lấy chồng là tú tài Trần Hữu Ý người làng Đan Phổ huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, nên thường được gọi là bà Tú Ý. Bà nổi tiếng văn chương tài hoa, mẫn tiệp.
  Tương truyền trên một chuyến đò sông Lam, một ông cử trong vùng, biết người đồng thuyền là bà Tú Ý, một nhân vật nổi tiếng văn chương, liền kèo nèo bà xướng một bài thơ để họa cho vui. Từ chối mãi không được, bà Tú Ý bên đọc:

Đồn rằng hay chữ tiếng om xòm
Nay được tai nghe mắt lại dòm
Kinh sử dám phô tài nấu đúc
Ngọt bùi luống được tiếng khen bom
Non Mai ngó lại tùng trăm thước
Sông Phố trôi xuôi liễu một chòm
Sẵn tiếp vài lời khi gặp gỡ
Dám đâu cửa sấm trống tì tòm.


  Một loạt vận "om, òm" như thế thì gay quá. Ông cử nọ không nghĩ ra được câu nào. Thuyền trôi rồi thuyền cập bến. Ông cử sượng sùng xin khất hôm sau sẽ gởi bài họa đến tận nhà.
 Nhưng một tháng, rồi hai tháng, chẳng thấy tăm hơi đâu. Bà Tú Ý ngẫm nghĩ rồi buồn cười cho cái anh chàng bất tài mà hợm hĩnh, lìền gởi tiếp cho ông cử một bài thơ nữa như sau:

Mấy lâu gằn gục một bài thơ
Ván đã như chùi, chiếu lại xơ
Đầu gối lắc hoài, câu chẳng đặng
Hàm râu nhổ hết, bút còn trơ
Mực mài bản thảo đen trăm chão
Phấn rắc hoa tiên trắng một tờ
Nhắn hỏi tao ông (1) rày đã tỏ
Đây là cửa sấm biết hay chưa?


(1) Tao ông, cũng như tao nhân, là người tao nhã hay thơ văn

  Được bài thơ nầy, ông cử cũng cứng họng không họa nổi. Còn câu chuyện bài thơ vần "om" thì cứ ngày một lan rộng thành câu chuyện vui cười ở các quán nước trong cả vùng.

12/ Nguyễn Công Trứ và Hà Tôn Quyền:

  Hà Tôn Quyền tự Tốn Phủ, hiệu Phương Trạch, biệt hiệu Hải Ông, người xã Cát Động, huyện Thanh Oai tỉnh Hà Đông, Đỗ tiến sĩ năm Minh Mạng thứ 3 (1822), làm quan đến Lại Bộ tham tri.
 Ông trước sau chỉ làm quan tại triều chứ không phải đi tỉnh, vốn có ác cảm với Nguyễn, - vì Nguyễn lập được nhiều công to, lại có tính ngang ngạnh, - nên tìm mọi cách dèm pha, gây cho Nguyễn nhiều bước thăng trầm. Một hôm Hà bày một tiệc rượu mừng con thi đỗ. Có mời cả Nguyễn. Trước sân nhà Hà, có cây vông to lớn, nhân Hà ra đề “Vịnh cây vông” để mọi người ngâm vịnh.
  Nguyễn Công Trứ vốn không thích ngâm vịnh với bọn họ, nhưng thấy mấy bài thơ rặt một giọng tán dương, nịnh hót vị đại thần chủ nhân kia thì ông tỏ vẻ ngứa ngáy khó chịu, bèn cũng vịnh một bài thơ như sau:

Biền, nam, khởi, tử (1) chẳng vun trồng
Cao lớn làm chi những thứ vông.
Tuổi tác càng già, già xốp xáp,
Ruột gan không có, có gai chông (2)
Ra tài lương đống không nên mặt,
Dựa chốn phiên ly (3) chút đỡ lòng
Đã biết nòi nào thời giống ấy,
Khen cho rứa cũng trổ ra bông!


(1) Tên bốn chữ gỗ tốt
(2) Cây vông càng già trong ruột càng xốp rỗng và ngoài vỏ càng lắm gai.
(3)  Rào giậu

 Đại ý bài thơ nói rằng: sao không trồng thứ cây gỗ tốt như bìền, nam, khởi, tử mà lại đi trồng cây vông làm gì. Vông là thứ cây xốp, làm rường cột (lương đống) không được, thân chỉ có gai, chỉ tạm làm bờ rào (phiên ly) được thôi. Giống cây ấy mà cũng ra hoa thì cũng lạ. Ý hai câu kết ám chỉ con trai viên đại thần, nòi nào giống ấy, vô dụng như cây vông, mà cũng thi đỗ thật nực cười.

   Hà thấy mình là rường cột của triều đình mà bị mỉa “Ruột gan chẳng có, có gai chông” và “rường soi cột trổ không nên mặt” giận lắm, bảo Nguyễn  :

- Quân tử ố kỳ văn chi … quan lớn.


  Nguyên đây là câu chữ liền trong sách Trung Dung: Quân tử ố kỳ văn chi trứ (người quân tử ghét những sự lòe loẹt bên ngoài). Hà dùng chữ quan lớn thay cho trứ, vừa là khiêm tốn kiêng tên, lại vừa có ý mỉa mai: người quân tử ghét cái văn của anh Trứ !
Nguyễn đáp ngay:

- Thành nhân bất đắc dĩ dụng … quý ngài


   Đây cũng là câu chữ có sẵn trong sách: Thánh nhân bất đắc dĩ dụng quyền (thánh nhân phải dùng đến quyền lực chỉ là sự bất đắc dĩ). Nguyễn dùng chữ quý ngài thay cho quyền cũng là kiêng tên mà lại có ý nói xỏ xiên: vua dùng ông là cực chẳng đã đó mà thôi!

  Năm 71 tuổi, Nguyễn xin về hưu; trước khi rời kinh đô, ông sắm cỗ xe dùng một con bò cái cổ đeo nhạc ngựa, để kéo đi từ biệt các bạn đồng liêu. Khi tới nhà Hà Tôn Quyền, ông lấy một tấm mo cau, viết bài thơ tứ tuyệt, rồi buộc mo vào phía trong đuôi bò. Những khách qua đường xúm lại xem thơ cười rúc rích, khiến cho họ Hà, khi tiễn chân Nguyễn ra cửa, thấy vậy cũng muốn ra xem. Nguyễn gạt đi, nói rằng thơ dở lắm, không đáng để ý, và chạy lại lật sấp tấm mo. Hà càng đòi coi kỳ được, sấn tới quay ngửa tấm mo ra đọc, trước còn đọc to, sau giọng khẽ dần và mặt mày tím bầm.
Thơ rằng:

Xuống ngựa lên xe chớ tưởng nhàn,
Lợm mùi giáng chức với thăng quan!
Điền viên, dạo chiếc xe bò cái,
Sẵn tấm mo, bưng … miệng thế gian!


 Thì ra miệng thế gian hay dèm pha, như cái miệng của một vài quan đồng liêu chẳng hạn. Nguyễn Công Trứ đặt vị trí của nó vào phía trong của đuôi con bò cái!

13/ Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo:

  Năm 71 tuổi ông về hưu trí, đi qua chùa Đại Nại tỉnh Hà Tĩnh, thấy chỗ ấy dân thuần tục tốt, phong cảnh hữu tình, bèn bỏ tiền ra mở mang chùa, cảnh rất tráng lệ. Ông làm mấy gian nhà tranh ở cạnh chùa để xem sách và tiếp khách. Trong nhà nuôi một bọn ả đào, ngày ngày nghe hát. Nhiều khi lên chùa, ông cũng đem ả đào theo, vì tính ông phóng khoáng, cho như thế là thường tình.
 Ông có làm bài hát “Ngất ngưởng” tả cái cao ngạo của mình, lúc nợ nam nhi đã trang trắng, vòng cương tỏa hết vướng chân, là lúc có thể theo sở thích của mình, không còn cần để ý gì đến những thành kiến của xã hội:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự (1)
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi thủ khoa, khi tham tán, khi tổng đốc Đông (2)
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưỡng!
Lúc bình tây cầm cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên (3)
Nhạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi!
Gót sen theo đủng đỉnh… một đôi… dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Hàn, Nhạc cũng phường Mai Phúc, (4)
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung…
  Đời ai ngất ngưởng như ông !  


(1) Trong vũ trụ đâu chẳng là phận sự
(2/ Đông là tỉnh Đông, tức Hải Dương
(3) Tổ: dây thao để đeo ấn. Ngày xưa người làm quan bỏ về gọi là giải tổ
(4) Hàn Kỳ, Nhạc Phi, danh thần đời Tống; Mai Phúc, danh nho đời Đông Hán

14/ Thơ đêm tân hôn:

  Năm 73 tuổi, nạp một người thiếp còn đương độ thanh xuân, tối tân hôn ông cao hứng làm một bài hát nói có những câu hài hước sảng khoái:

…..
Kìa những người mái tuyết đã phau phau
Run rẩy kẻ đào tơ còn mảnh mảnh.
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa lấp lánh,
Nhất tọa lê hoa áp hải đường. (1)
Từ đây đà tạc đá ghi vàng,
Bởi đâu trước lựa tơ chắc chỉ.
Tân nhân dục vấn lang niên kỷ:
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam! (2)
…..
Xưa nay mấy kẻ đa tình
Lão Trần là một với mình là hai.
Càng già càng dẻo càng dai.


(1) Hoa lê trắng ở bên hoa hải đường đỏ
(2) Niên kỷ, cô dâu muốn hỏi tuổi đức lang quân/
   Năm mươi năm trước tớ hăm ba!

****
   Trong thời gian ông sống nhàn ở Đại Nại, bố chánh Hà Tĩnh là Hoàng Nho Nhã, lúc rảnh việc thường đến chùa cùng ông bàn luận văn chương thế sự. Thấy ông quá đỗi phong lưu, họ Hoàng tặng câu đối :

Sự nghiệp kinh nhân thiên hạ hữu
Phong lưu đáo lão thế nhân vô

(Sự nghiệp kinh người thiên hạ có
 Phong lưu đến già thế gian không)

  Hơn 50 năm sau, ông Phan Bội Châu lên chùa Đại Nại chơi, thấy đôi câu đối treo ở nhà Tổ, lấy làm lạ, mới hỏi sự tình. Sư cụ thuật hết đầu đuôi câu truyện cho nghe. Ông Phan lấy làm khoái trá, cho là một giai thọai phong lưu đệ nhất, liền làm một bài thơ hoài niệm, có hai câu:

Hà như Uy Viễn Tướng quân thú
Túy ủng hồng nhi đáo pháp môn

(Làm thế nào được thú như Uy Viễn tướng quân
 Lúc say mang cả ả đào lên cửa Phật)

---------------------
   
Viết theo:

1/ Giai thoại văn chương Việt Nam, Hoàng Ngọc Phách và Kiều
   Thu Hoạch sưu tầm, biên soạn, Nxb Văn học, Hà Nội 1988
2/ Giai thoại làng nho, Lãng Nhân, Nam Chi tùng thư xuất bản,
   Sài Gòn, 1966
3/ Việt Nam ca trù biên khảo, Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề ,
   Nxb TPHCM tái bản, Sài Gòn, 1990
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà


Những giai thoại khuyết danh


1/ Thơ nhạo tri phủ:

 Gặp tiết trời đại hạn, một viên tri phủ lập đàn cầu đảo, nhưng cầu mấy bận mà chẳng thấy mưa, chỉ khổ cho nhân dân phải đóng góp tốn công, tốn của. Có anh
học trò thấy vậy làm bài thơ nhạo như sau:

Thái thú xuất kỳ vũ,
Nhân dân giai hỷ duyệt.
Bán dạ thôi song khai,
Kiến nguyệt!


Tạm dịch:

Tri phủ cầu mưa rơi,
Nhân dân sướng mê tơi!
Nửa đêm mở cửa ngỏ,
Trăng soi!


  Bài thơ lọt đến tai viên tri phủ, y giận lắm, sai lính bắt anh học trò. Lúc anh ta đến, y bảo phải làm bài thơ khác đền tội, nếu không sẽ đánh đòn. Anh học trò dạ dạ, vâng vâng, xin quan ra đầu đề. Nguyên tri phủ có hiệu là Tây Pha, hắn liền lấy hai chữ ấy cho anh học trò vịnh. Anh ta vịnh rằng:

Cổ nhân hiệu Đông Pha,
Kim nhân hiệu Tây Pha.
Nhược tương lưỡng nhân giáo,
Sai đa!


Tạm dịch:

Người xưa hiệu Đông Pha (1),
Người nay hiệu Tây Pha.
Đem hai người sánh lại,
Khác xa!


(1) Đông Pha: tên hiệu của Tô Thức, nhà thơ nổi tiếng đời Tống

 Viên tri phủ càng giận hơn, sai lính đánh 18 roi. Anh học trò chịu đòn xong, ức quá, vừa xoa đít vừa đọc:


Tác thi thập thất tự,
Bị đả nhất thập bát.
Nhược thướng vạn ngôn thi,
Đả sát!


Tạm dịch:

Làm thơ mười bảy chữ,
Bị đánh mười tám roi.
Nếu làm thơ muôn chữ,
Chết toi!


 Nghe đến đây, viên tri phủ chịu không nổi, bèn kết án anh học trò 3 năm tù.

2/ Quan án giỏi thơ :

 Viên án sát tỉnh Kiến An xuất thân là một ông tiến sĩ, thơ nôm nổi tiếng khắp vùng, nhưng tính tình thì hay nóng nảy thô bạo. Trên bàn giấy lúc nào cũng để một con sấu đá. Con sấu này người ta tặng để làm cái chặn giấy, nhưng ông ta lại dùng vào việc khác.
 Mỗi lúc hỏi kiện, quan án thường cầm con sấu đá đập chan chát xuống bàn để thị oai. Không những thế, quan án còn quát tháo om sòm, rồi trợn mắt và rên ư ử, mắng nhiếc người ta đủ điều. Đôi khi còn tát tai người ta như thầy đồ đánh học trò.     
 Tuy nhiên, ông ta rất thanh liêm, xử kiện công minh chính trực. Song dầu sao mặc lòng, dân chúng vẫn không ưa lối xét xử thô bạo như vậy.
 Một buổi sáng nọ, lính canh thấy một tờ giấy dán ở cổng dinh, liền bóc vào trình quan. Thì ra, đó là một bài thơ bát cú như sau:

Án sát gì …
Miệng thì ư ử, mắt thì giương
Tát tai tổng lý sao không nghĩ?
Xích tử triều đình dạ chẳng thương (1)
Hỏi kiện lơ mơ giương mắt ếch
Án từ phê chữ dáng đuôi lươn
Nào là tổng lý ta đâu tá?
Xỏ khố khênh ra trả sứ đường.


(1) Xích tử: con đỏ, đây chỉ dân chúng

 Biết là sĩ phu địa phương làm thơ chửi xỏ, quan án căm lắm. Nhưng khác hẳn lúc xử kiện, ông ta cứ bình tĩnh như thường, không tỏ vẻ nóng nảy gì cả. Ông sai lấy một tờ giấy giống hệt tờ kia, rồi hoạ lại một bài bát cú theo nguyên vận:

Án sát Kiến An …
Gặp tuần hoa nở, cánh hồng giương
Đù cha tổng lý sao không nghĩ ?
Xích tử triều đình dạ vẫn thương
Trộm cướp bỏ tù giương mắt ếch
Gian ngoan đòn đánh tuốt da lươn
Nếu còn "cò trắng quay đầu lại"
Có bửa căng thây giữa sảnh đường.


 Xong, quan án sai lính dán cả hai bài thơ hai bên cổng dinh.
 Dân chúng xúm lại xem đông như hội. Ai cũng cho quan án là người có tài và cư xử phải lẽ. Rồi từ đó họ hiểu, không oán ghét quan án nữa.

3/ Ngàn năm văn vật đất Thăng Long :

   Khoảng đầu thế kỷ thứ XX, chính quyền thực dân Pháp ra sức củng cố thế lực ở Việt Nam trong đó có việc đàn áp tư tưởng cách mạng và tăng cường truyền bá văn hóa nô dịch. Chúng giao cho báo Trung Bắc tân văn tổ chức một cuộc thi ca tụng Văn miếu. Nhà báo khôn khéo không ra mặt mở cuộc thi, chỉ cử cô B. (một cây bút trong tòa soạn) viết lên báo mấy lời, đại ý nói: "Cô mới đi chiêm ngưỡng Văn miếu về. Cảm động quá, muốn làm một bài thơ mà chỉ mới nghĩ được một câu phá:
Ngàn năm văn vật đất Thăng Long
 Xin nhờ quân tử nối tiếp hộ cho. Bài nào hay, xin hậu tạ"
  Thơ dự thi gửi đến hàng ngàn bài, cố nhiên phần đông là ca tụng công khai hóa của thực dân Pháp, nhưng cũng có bài không nịnh hót mà lại đả kích kịch liệt như bài sau đây:

Ngàn năm văn vật đất Thăng Long,
Văn vật ngày nay mới lạ lùng:
Tham biện, tham tằm, tham cán sự,
Đốc bò, đốc chó, đốc canh nông (1).
Du côn, mật thám đầy sông Nhị,
Giang há (2), ma cô (3) chật núi Nùng.
Trừ miếu Khổng kia chưa tiện nói,
Còn thì văn vật đất Thăng Long.


(1) Tham biện: Tham biện tòa sứ. Tham tằm: coi nhà nuôi tằm. Tham cán sự: tham tá chuyên môn. Đốc bò, đốc chó: đốc thú y
(2) Giang há: gái giang hồ, do chữ giang hồ đọc chệt ra.
(3) Ma cô (phiên âm tiếng Pháp maquereau): bọn dắt gái, đưa gái

 Còn một bài khác, tuy nhẹ nhàng kín đáo hơn, mà cũng sâu sắc:

Ngàn năm văn vật đất Thăng Long,
Văn miếu xây từ Lý Thánh tông.
Sau đó Trần, Lê tu bổ lại,
Gần đây Pháp, Việt bảo tồn chung.
Tiệc trà Khai Trí năm xưa mở (1),
Tuồng diễn Kim Kiều (2) buổi họp đông.
Lân chẳng thấy đâu, dê vẫn thấy (3),
Nghe quyên kêu, biết đạo ta cùng.


(1) Năm 1919, hội Khai Trí Tiến Đức do thực dân Pháp đỡ đầu, làm lễ khánh thành và mở tiệc trà tại Văn miếu
(2) Năm 1920, người ta diễn tuồng Kim Vân Kiều ở Văn miếu để kỷ niệm 100 năm ngày mất của Nguyễn Du
(3) Lân: con kỳ lân, theo truyền thuyết khi có thánh nhân thì lân mới xuất hiện, nghĩa rộng: lân tượng trưng cho đạo thánh hiền, đạo nho. Câu thơ có ý nói đạo nho đã suy tàn quá rồi, trông vào Văn miếu chẳng thấy lân (đạo nho) đâu, mà chỉ thấy dê vào gặm cỏ hằng ngày

4/ Long Biên ái hoa hội

 Khoảng năm 1916, Bắc kỳ bị lụt to, lại thêm cái họa chiến tranh ở Âu châu ảnh hưởng đến. Vì thế, dân chúng bị bắt phu, bắt lính liên miên, đời sống rất khó khăn. Thế mà một nhóm quan lại Bắc kỳ và một số nhà giàu ở Hà Nội lại bày ra cái trò chơi hoa đặt tên là "Long Biên ái hoa hội" (Hội yêu hoa ở thành Long Biên). Hội quán đặt ở ngôi đình Thái Hà của Hoàng Cao Khải. Họ định hằng năm cứ đến ngày rằm tháng giêng là mở hội thi hoa. Năm ấy là năm đầu tiên nên họ thi hoa và thi cả thơ vịnh hoa nữa cho thêm rôm rả. Đề thi là "Long Biên ái hoa hội".
  Hoa đưa đến dự thi cũng lắm mà thơ gởi đến cũng nhiều. Lúc bình thơ, không biết vô tình hay hữu ý, người ta lại đem đọc một bài không trúng cách, bài thơ ấy như sau:

Các cụ Long Biên khéo khéo là
Đương cơn lụt lội lúc can qua
Có yêu sao chẳng yêu nòi giống
Yêu cóc làm chi mấy cái hoa ?


  Mọi người nghe xong vỗ tay rào rào. Nhưng mấy ông giám khảo ngồi chiếu cạp điều thì lại quở mắng người bình thơ là láo xược, đọc bậy. Rồi cuộc bình thơ bỗng biến thành cuộc đấu khẩu, chẳng còn ra thể thống gì nữa.

5/ Thợ vẽ đề thơ

  Có một người thợ vẽ, vẽ đã giỏi mà làm thơ cũng khá. Vị đại thần nọ gọi người ấy đến vẽ cho quan một bức chân dung.
   Bức họa vẽ xong, quan lớn ngắm nghía lấy làm thích thú nhưng vẫn giả vờ chê ỏng chê eo, rồi lại bắt người thợ vẽ đề luôn một bài thơ vào đấy cho được tôn thêm giá trị.
  Người thợ vẽ vốn đã không ưa lão quan này, nay thấy hắn bày đặt như thế nên càng ghét hơn, liền nảy ý định xỏ hắn một vố chơi. Người ấy nghĩ một lát rồi cầm bút viết bốn chữ cách nhau rõ xa:
Chân....    Lão....   Cầm....   Thú....
   Có nghĩa: "Thực là cầm thú già".
  Đề chân dung một bậc trọng thần mà viết như vậy thì xỏ xiên quá đáng. Quan lớn mới liếc qua đã nổi giận đùng đùng, thét lính vật người thợ vẽ xuống để đánh
đòn về cái tội láo xược đó.

   Nhưng người thợ vẽ không hề hoảng sợ, bình tĩnh nói: "Dạ, bẩm ngài nóng tính quá, tôi còn đang viết dở, mới viết bốn chữ đầu cho khỏi quên, chứ đã xong đâu !"
Vị đại thần vẫn còn hậm hực, nửa tin nửa ngờ: "Nếu vậy nhà ngươi viết nốt ta xem"
  Người thợ vẽ liền viết liền viết tiếp vào các chữ trước thành bài thơ như sau:

Chân tể tướng
Lão trung thần
Cầm chi phượng
Thú chi lân

  Dịch:
Thật tể tướng
Lão trung thần
Cầm thì phượng
Thú thì lân.

   Bốn chữ đã biến thành bài thơ ca ngợi rất mực cung kính: nào bảo vị đại thần là  tể tướng trung thần chân chính, nào ví địa vị ông ta cũng cao tột bậc như con phượng, con lân là vua trong loài chim loài thú. Bấy giờ vị đại thần mới hài lòng, nhưng người thợ vẽ vẫn cười thầm, vì bài thơ xét kỷ vẫn còn có ý xỏ xiên bên trong. Nếu chỉ đọc bốn chữ đầu câu, vẫn thấy rành rành câu "Chân lão cầm thú".

6/ Chả kém Lý Bạch

   Một ông quan võ sính thơ nôm ở bên một người hàng xóm khéo tán để kiếm ăn. Hễ làm được bài thơ nào, quan cũng gọi người kia đọc cho nghe. Hắn nghe xong tán tụng khen thơ hay và khen quan "chả kém gì Lý Bạch", thế là quan cho hắn ăn uống lu bù.
   Có lần quan gọi hắn sang đánh chén, khi ngồi ăn, quan nói: "Tôi mới cho làm cái chuồng chim ở sân vườn, nhân nghĩ được bài thơ tứ tuyệt, tôi thử đọc bác nghe xem sao nhé!". Rồi quan khề khà đọc:

Bốn cột chênh vênh đứng giữa trời,
Đứa thì bay bổng đứa bay khơi.
Ngày sau nó đẻ ra con cháu,
Nướng chả băm viên đánh chén chơi.


  Người kia nức nở khen: "Chà! Hay quá, xin quan đọc từng câu để con được thưởng thức hết cái hay của bài thơ ạ!"
  Quan thích chí, hai cánh mủi phập phồng, dõng dạc đọc lại ngay:
Bốn cột chênh vênh đứng giữa trời
   Người kia tán:
"Tuyệt! Cứ như câu nầy thì quan sẽ làm đến chức tứ trụ triều đình"
  Quan tiếp:
Đứa thì bay bổng đứa bay khơi

  Người kia nịnh:
"Ôi, quan còn thăng chức chưa biết đến đâu!"
  Quan đọc đến câu:
Ngày sau nó đẻ ra con cháu

  Thì hắn ta lại tán:
" Hay quá! Con cháu của quan còn là vô kể!"
  Quan đọc nốt:
Nướng chả băm viên đánh chén chơi.

  Hắn lại tâng bốc:
"Tuyệt quá! Cảnh quan lớn về sau thì tha hồ mà phong lưu!"
  Quan mủi nở bằng cái đấu, đắc chí rung đùi, rót rượu mời người kia và nói: "Thơ tôi kể cũng tự nhiên đấy nhỉ? Bay giờ nhân cuộc vui, tôi thử làm một bài tức cảnh nữa nhé!"
  Nhìn ra sân thấy con chó, quan mới vịnh luôn một bài rằng:

Chẳng phải voi mà chẳng phải trâu,
Ấy là con chó cắn gâu gâu.
Khi ngủ với nhau thì phải đứng,
Cả đời không ăn một miếng trầu.


  Người kia lại gật gù tâng bnốc, quan lại thương rượu và gọi thêm đồ nhắm, hắn ta lại được thể lại càng đưa quan lên chín tầng mây. Rồi vui miệng, hắn cũng xin đọc theo một bài. Được quan cho phép, hắn liền đọc:

Quanh quanh đằng đít lại đằng đầu,
Hễ thấy ai vào cắn gâu gâu.
Ăn hết của thơm cùng của thối,
Trăm năm chẳng được chén chè tàu.


  Cứ thế, cuộc ngâm vịnh kéo dài mãi cho đến khi hai người say mềm mới thôi.

7/ Hé gương

   Một o hàng vải xứ Nghệ – chắc chắn là tay cừ trong đám hát hàng vải – một hôm mang vải đi thuyền xuống tỉnh bán. Thuyền chật, người đông, nhất là trong khoang, chỗ sang trọng nhất, thì đã bị đám dăm bảy thầy đồ ý chừng cũng xuôi tỉnh thi cử gì đây, chiếm hết cả. O hàng vải không có chỗ ngồi, nhưng không chịu lép, leo ngay lên mui thuyền ngồi. Chẳng biết cô ta có nghĩ rằng ngồi như vậy là ngồi trên đầu các thầy nho hay không. Một lúc lâu, cô ả muốn tụt xuống, không ngờ tà váy bị gió thổi, mắc vào một đầu sào gác dọc trên mui thuyền. Hai chân đã  chạm xuống khoang thuyền mà tà váy lại cứ bị níu lại ở trên, ả loay hoay mãi mới gỡ ra được. Nhưng dù sao, các thầy đồ ngồi trong khoang cũng đã trông thấy cả rồi. Một thầy đồ trẻ nhất bọn, lấy giọng ngâm một câu "Kiều lẩy" như sau:

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Sẳn đây ta đúc một tòa thiên nhiên

 (Nguyên câu trong truyện Kiều là:
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dày dày sẳn đúc một tòa thiên nhiên)

  Ai ngờ cô ả đã ngồi xuống đàng hoàng ở đằng lái, khoan thai sửa lại vành khăn trên đầu rồi cũng lên giọng trong trẻo ngân nga, "lẩy" lại một câu rằng:

Mười lăm năm mới một lần
Hé gương cho khách hồng trần thử soi

  Nguyên câu trong truyện Kiều là:
Mười lăm năm bấy nhiêu lần
Làm gương cho khách hồng trần thử soi)

  Các khách hồng trần – các thầy đồ – đau điếng người, nhưng phải phục lăn vì cô ả đã tài tình, thật đã góp những trận cười giòn nhất vào trận cười thích thú của hành khách.
                                 ---------------------
  Viết theo:

Giai thoại văn chương Việt Nam, Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch sưu tầm, biên soạn, Nxb Văn học, Hà Nội 1988
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thái Thanh Tâm

+GIAI THOẠI VĂN CHƯƠNG :

• Trong số quan lại làm quan cho Pháp, có Nguyễn Văn Tâm tận tâm, tận lực với  mẫu quốc, nên được người Pháp cất nhắc làm quan lớn, ai cũng biết là nhờ bợ đỡ quan thầy, hà hiếp dân lành, tận thu sưu thuế mà làm được quan to. Tâm ta lấy làm tự đắc lắm. Phú quí sinh lễ nghĩa, quan lớn ta cũng tỏ ra mình là người phong lưu , sính chữ nghĩa, nên cho đặt làm 1 số bức hoành, trướng trang trí trong nhà. Có người đem dâng lên quan bức hoành viết “ ĐẠI ĐIỂM QUẦN THẦN “, viết chân phương rất đẹp, chữ thiếp vàng …. Đồng thời giải thích : Đại điểm là điểm lớn ; quần thần là bầy tôi. Ý là quan lớn là người bề tôi có vị trí quan trọng trong triều đình.
Quan Tâm lấy làm thích thú, đem treo bức hoành nơi trang trọng nhất, ai đến quan đều khoe và giải thích như trên. Ít lâu sau có người đến ngắm bức hoành, bảo quan lớn nên dẹp đi, quan Tâm ngạc nhiên hỏi, người ấy xin đừng bắt tội, đuổi hết tả hữu ra ngoài rồi giải thích : người tặng bức hoành nầy có ý chơi xỏ quan lớn, mà quan không biết, bốn chữ nầy dịch từng chữ : ĐẠI ĐIỂM là chấm to, chấm to là CHÓ TÂM ; QUẦN THẦN là bầy tôi, bầy tôi là BỒI TÂY, vậy là : CHÓ TÂM BỒI TÂY .

st
Trên đời này, chuyện gì cũng có thể xẩy ra-Thái Thanh Tâm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà


Giai thoại bài thơ "Long thành cầm giả ca" của Nguyễn Du


  Khoảng cuối đời Gia Long (1802-1819) Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc thành, một hôm hội yến, mời đông đủ liêu thuộc và cố thần nhà Lê tới dự, trong đó có Nguyễn Du.
 Quan khách vào tiệc, đàn sáo vang lừng rồi ả đào ra múa hát. Nguyễn Du thấy bọn này tuy xinh đẹp, trẻ trung, nhưng giọng hát quê mùa, cung bực lộn xộn, lên xuống thiếu phép tắc nên không lưu ý đến. Ông thả hồn nghĩ những truyện xa xôi, chẳng biết bên tai họ đã hát những bài gì và múa những điệu gì.
 Gần mãn tiệc, có một ả gầy nhom, hình dung tiều tụy, tuổi trạc ngoài bốn mươi, đứng gõ phách hát. Ông lắng nghe, thấy giọng hát thanh tao, êm ái dịu dàng, rõ ra lối hát Cửa quyền ngày trước. Đã hơn 20 năm tai chưa từng nghe tiếng hát ấy, nay bỗng dưng lại đựơc nghe lấy làm thoả thích. Ông nghĩ lấy làm lạ, tự hỏi tại sao chốn hồng trần đô hội này lại có tiếng hát phong lưu tao nhã như thế.
 Hát xong nàng buông phách, một mình thơ thẩn dạo ra ngoài hành lang. Ông lén đến bên hỏi:
“Cô quê quán ở đâu và học hát từ bao giờ? Tôi nghe giọng hát quen thuộc lắm”.
Nàng ngước nhìn ông hồi lâu rồi lễ phép thưa:
“Thiếp xin phép hỏi đại nhân có phải là cậu Bảy, con quan cố Tham tụng không?”
 Ông nhìn nàng:
“Phải. Nàng là cô Cầm chăng?”
 Nàng nức nở đáp:
“Vâng, thiếp chính là cô Cầm ngày trước”.
 
  Nguyên Cầm nương là danh ca trong đội nữ nhạc nhà Lê, cuối đời vua Hiển Tông (1740-1786), Nguyễn Du từng theo cha là Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm vào cung chiêm bái các lễ khánh tiết và cùng với anh là Kiều Nhạc hầu Nguyễn Khản vào trong phủ chúa Trịnh Sâm dự yến nên thường được nghe nàng hát. Dần dần hai người yêu nhau vì sắc, trọng nhau vì tài, đã cùng nhau đi chơi thuyền trên Giám hồ ca hát ngâm vịnh, mượn trăng thanh gió mát để giãi bày tâm sự.
 Sau gặp lúc loạn ông về núi Hồng Sơn ẩn lánh, còn nàng lưu lạc đi đâu không ai biết. Nay tự nhiên gặp nhau ở đây, nỗi mừng rỡ kể sao cho xiết.

  Nàng níu áo ông kể lể:
 “Khi Vũ Văn Nhậm thống trị Bắc hà, thiếp vẫn giữ nghề cũ, thường đựơc gọi vào trong dinh Đốc tướng hát. Các tướng Tây Sơn rất thích hát múa những điệu ở trong cung, có tối thiếp được thưởng mấy trăm quan tiền, mượn thanh sắc thiếp nhiều phen làm cho những danh tướng Tây Sơn thất điên bát đảo. Nào ngờ việc thay đổi, bãi bể hoá nương dâu, vua Quang Trung ra Bắc lần thứ hai giết Vũ Văn Nhậm, rồi quân Tàu ùn ùn kéo sang. Thiếp phải tránh về Kinh Bắc, vốn liếng mất hết, chỉ còn hai bàn tay trắng, lưu lạc hơn 10 năm, nếm trải đủ mùi cay đắng. Khi trở về cố đô thì cung phủ chúa Trịnh là đống tro tàn, dinh thự vương hầu thành đường quan lộ, mắt trông cảnh cũ, bao xiết thương tâm. Nơi múa hát xưa không biết vùi lấp đâu, thiếp bao phen tốn công tìm tòi mà không thấy.
 Nay tuổi đã già, nhan sắc ngày càng phai lạt, thiếp thuê tạm mấy gian nhà lá ở ngoài thành, thỉnh thoảng trong dinh các quan yến tiệc hay dân gian tế lễ lại tìm thiếp đến hát.     
 Than ôi! Giang hà nhật hạ, món tiền thù tặng ít ỏi chẳng được như xưa, nhưng cũng nhờ đó làm kế sinh nhai cho qua ngày tháng. Thiếp nghĩ tủi phận mình kém người ca nữ trên bến Tầm Dương, vô duyên không kiếm đâu ra anh lái buôn chè tham lợi, nhưng rất tự hào là trong các đình đám, mỗi khi thiếp cất tiếng hát lên, bọn vương tôn công tử lại thì thầm: “Đấy là tiếng hát Cửa quyền ngày trước”.

 Nghe nàng kể lể, ông ngậm ngùi than thở:
“Công đức nhà Lê hơn 300 năm và sự nghiệp anh hùng vua Quang Trung đã theo dòng nước trôi, duy chỉ còn tiếng hát Cửa quyền của nàng ca nữ”.
 Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương khôn nén, ông soạn bài ca để gửi hứng :

Long thành cầm giả ca

Long thành giai nhân
Bất ký danh tự
Ðộc thiện huyền cầm
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
Học đắc tiên triều cung trung Cung Phụng khúc
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh
Dư tại thiếu niên tằng nhất kiến
Giám Hồ hồ biên dạ khai yến
Thử thời tam thất chánh phương niên
Xuân phong yểm ánh đào hoa diện
Ðà nhan hám thái tối nghi nhân
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
Hoãn như luơng phong độ tùng lâm
Thanh như chích hạc minh tại âm
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch
Ai như Trang Tích bịnh trung vi Việt ngâm
Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện
Tận thị Trung Hòa Ðại Nội âm
Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo
Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo
Hào hoa ý khí lăng công hầu
Ngũ Lăng niên thiếu bất túc đạo
Tính tương tam thập lục cung xuân
Hoán thủ Trường An vô giá bảo
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên
Chỉ xích Long thành bất phục kiên (kiến)
Hà huống thành trung ca vũ diên
Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
Nhan xú thần khô hình lược tiểu
Lang tạ tàn my bất sức trang
Thùy tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất điệu
Cựu khúc tân thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự
Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi
Thành quách suy di nhân sự cải
Kỷ độ tang điền biến thương hải
Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong
Ca vũ không lưu nhất nhân tại
Thuấn tức bách niên tằng kỷ thì
Thương tâm vãng sự lệ triêm y
Nam Hà quy lai đầu tận bạch
Quái để giai nhân nhan sắc suy
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng
Khả liên đối diện bất tương tri.


  Trên Thi viện đã có nhiều bản dịch thơ. Ở đây, xin giới thiệu thêm hai bản dịch:

1/ Bản dịch của Bùi Khánh Đản:

Người đẹp Long thành,
Tính danh chẳng nhớ,
Đàn cầm nổi tiếng tài hoa,
Khắp thành đều gọi tên là Cầm nương,
Học được khúc Cung phụng trong cung triều trước,
Tự cho trên trời dưới đất ai cũng nhường,
Nhớ thuở thanh niên từng gặp gỡ,
Bên bờ hồ Giám tiệc đêm mở,
Nàng vừa hai mốt tuổi đương xuân,
Xuân phong ánh mặt hoa đào nở,
Má ửng như ngây đẹp tuyệt trần,
Năm cung thánh thót tay ngà lựa.
Êm như gió mát thoảng rừng thông,
Trong như tiếng hạc giữa thanh không,
Buồn như Trang Tích ngọa bệnh ngâm khúc Việt,
Mạnh như Tiến Phúc đầu bia sét đánh tung,
Người nghe khoan khoái đều không chán,
Chính khúc ngày xưa ở nội cung.
Tây Sơn văn võ hết thảy say mê mệt,
Lăn lóc đêm ngày hay chẳng biết,
Tả hữu đua nhau thưởng gấm là,
Tiền coi như rác quăng nào tiếc.
Vương hầu còn kém vẻ hào khí,
Bọn trẻ Ngũ lăng không đáng kể,
Đưa nhẹ ba mươi sáu tiếng tơ,
Đã thành bảo vật Trường an quý.
Tiệc ấy trải qua hai chục thu,
Về Nam sau buổi Tây Sơn thua,
Thăng Long gang tấc còn không thấy,
Huống cảnh trong thành múa hát xưa.
Tuyên phủ Sứ quân vì khách họp vui vẻ,
Trong tiệc ca nhi đều tuổi trẻ,
Cuối tiệc một người tóc đốm hoa,
Mình gầy mặt võ trông buồn tẻ,
Nét my tàn tạ, mặc sơ sài,
Ai biết là nàng thuở trước tiếng ca hay tuyệt thế.
Giọng mới cung xưa giọt lệ rơi,
Lặng nghe tiếng hát não lòng người,
Chợt khi nhớ đến truyện hai mươi năm trước,
Hồ Giám từng phen đã gặp ai,
Việc thế biến thiên thành quách đổ,
Biển dâu thay đổi bao nhiêu độ,
Tây Sơn sự nghiệp nhất đán đã tiêu tan.
Ca vũ một người còn mãi đó,
Trăm năm chớp mắt có gì đâu.
Truyện cũ thương tâm rỏ lệ sầu,
Từ lánh về Nam đầu đã bạc,
Giai nhân nhan sắc cũng phai màu,
Rõ ràng mở mắt ngờ trong mộng,
Gặp gỡ buồn thay chẳng biết nhau.

2/ Bản dịch của Trần Nhất Lang:

Gái Long thành không hay tên họ
Giỏi Nguyễn cầm lấy đó đặt tên
Tiếng đàn như nhạc cõi tiên
Khúc Cung phụng ấy của tiền triều xưa.
Nhớ thuở trước Giám Hồ yến tiệc
Tóc ta xanh đã biết tiếng nàng
Ngây thơ đôi tám mơ màng
Áo hồng, má đỏ lại càng dễ thương!
Tay nhẹ lướt năm cung trầm bổng
Tiếng khoan như gió thoảng ngàn thông
Trong như tiếng hạc trên không
Mạnh như tiếng sét đánh tung bia chùa;
Buồn như thể Trang xưa ngâm Việt
Khiến người nghe mải miết say sưa
Vốn là khúc nhạc ngày xưa
Trung Hòa Đại Nội để vua thưởng nhàn.
Khi quân lính Tây Sơn tiệc mở
Đã say như điếu đổ thâu canh
Thưởng tiền, tả hữu đua tranh
Bạc vung như nước cốt giành cuộc vui;
Nét hào hoa vương hầu nào sánh
Trẻ Ngũ Lăng có thấm vào đâu
Vẻ xuân hun đúc hạt châu
Cầm ca chi bảo đứng đầu Trường An.
Từ năm ấy đã tròn hai chục
Tây Sơn tàn, ta được vào Nam
Long thành lâu chửa ghé thăm
Người xưa múa hát thấy thầm trong mơ.
Quan Tuyên Phủ vì ta khoản đãi
Trong tiệc này có giải ca vui
Đào nương xuân nữ đương thời
Duy nơi cuối chiếu một người hoa râm,
Mặt vàng võ, tấm thân bé nhỏ
Môi không son, mày bỏ không tô
Ai hay người ấy bây giờ
Tài hoa đệ nhất ngày xưa một thời!
Khúc cũ dạo, lệ rơi từng giọt
Tai lắng nghe mà xót lòng ta
Bỗng dưng nhớ chuyện đã qua
Hai mươi năm trước Giám Hồ gặp nhau.
Cuộc hưng phế, bể dâu mấy độ
Thành đổi dời, người có khác chi
Tây Sơn triều cũ còn gì?
Còn chăng là một ca nhi tên Cầm!
Cõi nhân thế trăm năm là mấy
Cảm chuyện xưa áo tẩy dòng châu
Từ Nam trở lại, bạc đầu
Trách sao nhan sắc người đâu chẳng tàn.
Gặp nhau không dám hỏi han
Rưng rưng đôi mắt bàng hoàng xót xa.

        ************
 Viết theo :
1/ VIỆT NAM CA TRÙ BIÊN KHẢO, Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề,
   Nxb TP HCM tái bản
2/ Bài thơ "Long thành cầm giả ca" trên Thi viện
3/ Bài thơ "Long thành cầm giả ca" trên hoasontrang.us
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 5 trang (42 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ›Trang sau »Trang cuối