Trang trong tổng số 34 trang (332 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan

http://www.dantri.com.vn/...ioitinh/2007/6/182013.vip

Muốn làm mẹ phải có nhiều tiền

Hoa vẫn kiên quyết mua bằng được. Cô cho rằng: sắm cho con những thứ tốt nhất mới chứng tỏ mình là người mẹ lý tưởng.



Đặt con sau sự nghiệp

Người ta nói Thương là một người mẹ máu lạnh, còn cô lại nghĩ: “Mình đẻ con ra, không thương sao được. Nhưng thương con không có nghĩa là cứ ngồi ôm con cho đến khi nó lớn. Có thể con mình sẽ khổ vì thiếu mẹ trong hai năm nhưng nó sẽ được rất nhiều thứ sau này”



Muốn làm mẹ phải có nhiều tiền

Không riêng những bà mẹ làm trong lĩnh vực nghệ thuật như Mai, hiện nay, nhiều bà mẹ trẻ cũng từ chối cho con bú với rất nhiều lý do khác nhau. Theo họ, thương con yêu con không nhất thiết cứ phải trực tiếp bú mớm, ôm ẵm.
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan


http://sadashifujimoto.blog.ocn.ne.jp/rannchann/images/1903.jpg
Người Nhật gọi hoa này là Tan-pô-pô. Tuy nhiên khi hỏi về Hán tự, thì hoá ra cũng là 蒲公英 Bồ-công-anh


http://members.wenxuecity.com/albums/386230/_1139998378.jpg
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan


Lịch vạn sự online: http://xemngay.com/

Chia sẻ với mọi người địa chỉ trên, Lan đệ không cam đoan về tính khoa học và độ chính xác đâu nhé!
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Xuyên Tuyết

Nguyệt Thu đã viết:
Hoa Xuyên Tuyết đã viết:

Chào Hợp tác xã! :D Không nhớ, không nhớ, không không nhớ! Hi hi...chỉ là ngó quanh ngó quất không hiểu sao thấy vắng ngắt vắng ngơ!:)
Mà chỗ chị mạng cũng chập chờn, nên vào Thi viện cũng khi được khi không!
Vào ngắm chỗ hoa Trà của mọi người post lên cũng cảm thấy ngày có dịu nóng chút! :P
Hí hí, chị NT, em đọc cứ thành là "Nhớ nàng? Tôi quyết là không nhớ nàng" :-P
Mấy hôm em định vào vỗ tay cho bài thơ Quê Hương của Giang Nam đã được đứng 1 trong cuộc bầu chọn, thế mà vào mạng không được nên mất hết hứng rồi :-(.. Không hiểu chú Điệp định cuộc bầu chọn tới sẽ bầu đề tài gì đây...
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Cammy

Hôm nay em có hứng! Post sang hoa mùa thu, một loài hoa mà ai cũng yêu quý, nhất là các anh chị khi xa Hà Nội...
Hoa sữa

http://i205.photobucket.com/albums/bb139/Cammywhity/9bf0.jpg

Có hai bài hoa sữa mà em rất thích, là bài hát Hoa sữa của Hồng đăng, và bài thơ Hoa sữa của NGuyễn Phan Hách, em xin mạo muội post vào đây.

Hoa sữa - Hồng Đăng

Em vẫn từng đợi anh,
như hoa từng đợi nắng
Như gió tìm rặng phi lao
Như trời cao mong mây trắng...

Em vẫn từng đợi anh,
trên những chặng đường quen
tiếng hát ai xao động
có mùi hương êm đềm

Kỷ niệm ngày xưa
vẫn còn đâu đó
những bạn bè chung
những con đường nhỏ

Hoa sữa
Vẫn ngọt ngào đầu phố đêm đêm
Có lẽ nào anh lại quên em
có lẽ nào anh lại quên em

Hoa sữa - Nguyễn Phan Hách

Tuổi mười lăm em lớn từng ngày,
Một buổi sáng em bỗng thành thiếu nữ.
Hôm ấy mùa thu anh vẫn nhớ,
Hoa sữa thơm ngây ngất bên hồ.

Tình yêu đầu mang hương sắc mùa thu,
Mùi hoa sữa tan trong áo em và mái tóc.
Tình yêu đầu tưởng không gì chia cắt,
Vậy mà tan trong sương gió mong manh.

Tại mùa thu, tại em hay tại anh ?
Tại sang đông không còn hoa sữa ?
Tại siêu hình tại gì không biết nữa ?
Tại con bướm vàng có cánh nó bay ?

Ðau khổ nhiều nhưng éo le thay.
Không phải thời Romeo và Juliette,
Nên chẳng có đứa nào dám chết,
Ðành lòng thôi mỗi đứa một phương.

Chỉ mùa thu còn trọn vẹn yêu thương,
Hương hoa sữa cứ trở về mỗi độ,
Hương của tình yêu đầu nhắc nhở,
Có hai người xưa đã yêu nhau...
Em ngẩn ngơ ngắm khoảng trời chiều
Khoảng trời yên ả, nét phiêu diêu
Em lơ đãng vẽ anh lên đó
Vẽ cạnh tên anh, một chữ yêu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

cỏ hoang

http://s83.photobucket.com/albums/j311/amgiohvc/Water/content27650.jpg
http://s83.photobucket.com/albums/j311/amgiohvc/Water/content52692.jpg
http://s83.photobucket.com/albums/j311/amgiohvc/Water/content52687.jpg
là lá trên rừng, là cỏ dưới đất, là nước Biển Đông...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan

Dành cho những người chơi blog

[url]http://www19.dantri.com.vn/cong-nghe/2007/6/182322.vip[/url]

“Cào thẻ” trên Blog

(Dân trí) - Bạn đã từng chơi các trò chơi mà hình thức chơi là cào thẻ để trúng thường. Giờ đây, bạn có thể đưa việc này lên như một trò chơi giải trí vui vẻ cho bạn bè mình ngay trên Blog của bạn.


Đầu tiên bạn phải truy cập vào trang [url]http://www.rockyou.com/[/url] rồi thực hiện các bước sau:
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan



Sơ qua về lịch:
Hàng ngày chúng ta đang sử dụng lịch, tuy nhiên có rất nhiều người không hề quan tâm về vấn đề: "có bao nhiêu loại lịch" trên một tờ lịch ấy. Thông thường, mọi người chỉ cho là có 2 loại lịch: "Âm lịch" và "Dương lịch". Và mọi người cũng thường hiểu nhầm về ý nghĩa của 2 loại lịch này. Rất nhiều người cho rằng: "Âm lịch" chỉ dùng cho những việc liên quan tới những người đã khuất ==> đây là một quan điểm hình như là không chuẩn.
"ÂM" và "DƯƠNG" luôn song hành tồn tại, trong "ÂM" có "DƯƠNG" và ngược lại. "ÂM" thịnh "DƯƠNG" suy, hay "DƯƠNG" thịnh "ÂM" suy đều dẫn đến sự mất cân bằng và xuất hiện nguy cơ của diệt vong.
Trong gia đình: Nếu "ÂM" thịnh "DƯƠNG" suy" thì vai trò của người cha bị lu mờ, con cái tất sinh hư và thiếu tôn trọng người khác. Nếu "DƯƠNG" thịnh "ÂM" suy", thì người cha cay nghiệt, người mẹ vật vờ như một cái bóng, con cái sẽ mất hết cả ý chí và nghị lực, cũng chẳng có ích cho đời.
Trong quốc gia: Nếu "DƯƠNG" thịnh "ÂM" suy", thì nhân quyền bị trà đạp, người người sống trong tủi hổ, tham nhũng tràn lan, giống như thanh củi đã bị mục, chỉ cần xô nhẹ thôi là tan vỡ.
Trong vũ trụ: Nếu "DƯƠNG" thịnh "ÂM" suy", thì hạn hán tràn lan, cây khô đất nẻ, sinh linh khắc khoải lầm than. Nếu "ÂM" thịnh "DƯƠNG" suy" thì nhất định sẽ xảy ra nạn đại hồng thuỷ giống như cơn sóng thần đã hại chết hơn 150 ngàn người hồi cuối 2005.
Quay trở lại "Âm lịch" và "Dương lịch": "Âm lich" là lịch được thiết lập dựa trên sự vận hành của mặt trăng, "Dương lịch" là lịch được thiết lập dựa trên sự vận hành của mặt trời. Theo truyền thuyết phương Đông: Thần cai quản Dương khí ngự tại mặt trời, thần cai quản Âm khí ngự tại mặt trăng. Từ đó mới hình thành tên: "Dương lịch" và "Âm lich".
Trên tờ lịch chúng ta dùng hàng ngày, trải qua nhiều nghìn năm lịch sử, kết hợp chọn lọc văn hoá phương Đông, phương Tây để tạo thành tờ lịch như bây giờ.
Khoảng 4000 năm trước Công Nguyên, người Ai-cập cổ đại đã dùng lịch tính theo sự vận động của mặt trời, họ chia 1 năm thành 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, tổng cộng 1 năm có 360 ngày. Cuối mỗi năm họ có 5 ngày ăn chơi không nằm trong lịch của năm trước, cũng không năm trong lịch của năm sau. Tức là thành 365 ngày. Người ta gọi là lịch Ai-cập (Egyptian Calendar). Trên thực tế, trái đất quay 1 vòng xung quanh mặt trời gần chính xác hết 365,2425 ngày.
Song song với lịch Ai-cập, người Ai-cập cũng có lịch Tín ngưỡng (religious calendar), lịch này có cách tính giống như lịch Trăng (Lunar Calendar - VN gọi là Âm lịch). Cách tính lịch Trăng được hoàn thiện từ thời cổ đại bởi người Trung quốc, người Ba-by-lon (Babylonians), người Hy-lạp (Greeks), và người Do-thái (Jews). Lịch Trăng cũng được người Ả-rập (Arabs) sử dụng. Tuy nhiên Người-Được-Ca-Ngợi (Muhammad) đã cấm sử dụng tháng nhuận trong lịch Hồi-giáo (Islamic calendar).
Lịch khiến cho người ta rối trí nhất là lịch La-mã (Roman Calendar): Trong suốt thời kỳ đế chế La-mã (từ 753 TCN) đã xuất hiện 3 loại lịch La-mã, đều đánh dấu sự trị vì của các hoàng đế La-mã. Một số tên của các tháng trong lịch La-mã cũng được đặt theo tên các vị thần, và các vị hoàng đế. Như Tháng Ba (March)(Martius) đặt theo tên thần chiến tranh Mars. Tháng Bảy (July), nguyên thủy là Quintilis (nghĩa là "tháng thứ năm"), năm 44 TCN người ta đổi thành Iulius - Đổi theo tên của vua Gāius Iūlius Caesar (Julius Caesar - trước đây chưa có chữ cái J), vua Julius Caesar sinh vào tháng này năm 100 TCN. Tháng Tám (August), nguyên thủy là Sextilis (nghĩa là "tháng thứ sáu"), năm 8 TCN người ta đổi thành Augustus - Đổi theo tên của vua Caesar Augustus (tháng sinh của vua).
Lịch Julius (lịch La-mã phiên bản 3) đã khá là hoàn thiện, tuy nhiên người sáng lập lịch này - hoàng đế Julius Caesar đã lấy chẵn 1 năm = 365 một phần tư ngày (365,25 ngày), dài hơn thực tế 0.0075 ngày. Và theo cách tính của Julius Caesar, cứ 4 năm 1 lần nhuận ngày 29 FEB, 100 năm 25 lần nhuận 29 FEB, 400 năm 100 lần nhuận 29 FEB. Nhưng thực tế 400 năm chỉ có 0.2425*400=97 ngày nhuận thôi (1 năm mặt trời = 365.2425). Vậy cứ 400 năm thì lịch Julius sẽ chậm hơn so với mặt trời 3 ngày.
Lịch Julius xây dựng năm 45 TCN, đến năm 1582, sự trễ của lịch so với mặt trời đã là 10 ngày. Giáo hoàng Gregory XIII quyết định bỏ 10 ngày trong tháng 10 năm đó để cho lịch và mùa màng tương ứng trở lại. Sau ngày 4 tháng 10 năm 1582 là ngày 15 tháng 10. Và để tránh sai biệt, lịch lấy năm nhuận là năm có số thứ tự chia hết cho 4 (như năm 1964, 1980, 2004...) và các năm tận cùng bằng 00 phải chia hết cho 400 mới là năm nhuận (năm 2000 chia hết cho 4 và 400 nên là năm nhuận, năm 1900 chia hết cho 4 nhưng không chia hết cho 400 nên không phải là năm nhuận...). Lịch đã sửa mang tên lịch Gregory và được áp dụng cho đến bây giờ (người Việt gọi là "Dương lịch" hay "Tây lịch").
Ngoài hai loại lịch chính đó: lịch Trăng và lịch Mặt trời (hai loại này xếp lịch cho cả 1 năm), thì còn một số loại lịch khác mà phân đoạn chia khác đi.
Như lịch tuần: chu kỳ chỉ có 7 ngày lặp lại 1 lần, giải thích về lịch này cho đến nay vẫn chưa rõ, có nhiều giả thuyết cho rằng nó xuất phát từ Nhà thờ Thiên Chúa (Christian church) vào cuối thời đế chế La-mã, và 7 ngày gắn với 7 vị thần, cũng là 7 thiên thể (cổ đại) trong hệ mặt trời (seven "planets" of Solar System of the ancient times):
Nhật (Dimanche - Sunday - Chúa (Chủ) Nhật - thờ Thần Mặt Trời)
Nguyệt (Lundi - Monday - Thứ Hai - Mặt Trăng)
Hoả (Mardi - Tuesday - Thứ Ba - Hoả Tinh)
Thuỷ (Mercredi - Wednesday - Thứ Tư - Thuỷ Tinh)
Mộc (Jeudi - Thursday - Thứ Năm - Mộc Tinh)
Kim (Vendredi - Friday - Thứ Sáu - Kim Tinh)
Thổ (Samedi - Saturday - Thứ Bảy - Thổ Tinh)
Qua đó mới thấy: tên các ngày trong tuần theo kiểu VN là "vô cảm" nhất, đồng thời: ngày Chúa Nhật mới là đầu tuần, không phải ngày Thứ Hai như người Việt vẫn quan niệm.
Một loại lịch khác nữa cũng khá quen thuộc là lịch sắp xếp theo Thiên Can và Địa Chi. Ví dụ như: lúc này là: giờ Thân, ba khắc, ngày Nhâm Thân, tháng Ất Tỵ, năm CHXHCN thứ 32 (năm Đinh Hợi).

Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan


Tín ngưỡng và chính trị cũng ảnh hưởng đến lịch.

Các đạo giáo độc thần: Do Thái giáo, Công giáo, Hồi giáo.

Lịch Hồi giáo (Islamic calendar hoặc Muslim calendar), lịch tính theo mặt trăng, nhưng không tính tháng nhuận. Theo lịch này một năm chỉ có 354 ngày, ít hơn Dương lịch khoảng 11 ngày.

Trong Công giáo, lại chia thành 3 nhánh:  Công giáo La mã (Giáo hội Rôm-ma, có Giáo Hoàng), Chính thống giáo Đông phương (không có Giáo Hoàng), và Kháng cách (đạo Tin Lành). Đây là lý do tại sao cách mạng tháng 10 Nga lại rơi vào tháng 11. Ngày Cách mạng tháng Mười Nga thành công là ngày 7 tháng 11 năm 1917 (theo lịch Gregory) hay ngày 28 tháng 10 năm 1917 (theo lịch Julius). Người Nga theo Giáo phận Moskva thuộc Chính Thống giáo Nga (thuộc Chính thống giáo Đông phương), họ không có giáo hoàng, và giáo hội của họ không phải tuân theo giáo hoàng của Công giáo La-mã. Bởi vậy mãi đến năm 1917 họ vẫn dùng lịch Julius, mặc dù từ năm 1582 đã có lịch Gregory (Dương lịch hay Tây lịch ngày nay).  

Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan


Âm lịch Việt Nam

Âm lịch Việt Nam là một loại lịch có nguyên lý thiên văn. Nó được tính toán dựa trên sự chuyển động của mặt trăng, mặt trời, và trái đất. Hành trình của mặt trăng quanh trái đất là 29,5 ngày. Hành trình của trái đất trên quĩ đạo là 1 năm = xấp xỉ 365,2425 ngày. Với việc trục của trái đất nghiêng 23 độ một phần hai so với quĩ đạo, thì hành trình 1 năm của trái đất vẽ ra ảnh của mặt trời chính là "hoàng đạo". Để cho dễ hiểu chúng ta có thể coi "hoàng đạo" là quĩ đạo 1 năm của mặt trời quanh trái đất (trên thực tế là trái đất quay quanh mặt trời).

Ngày tháng âm lịch được tính dựa theo các nguyên tắc sau:
- Ngày đầu tiên của tháng Âm lịch là ngày chứa điểm "Sóc" (Sóc nhật 朔日) - "Trăng mờ"
- Một năm bình thường Âm lịch có 12 tháng , một năm nhuận có 13 tháng âm lịch.
- Đông chí luôn rơi vào Tháng Một (tháng 11) âm lịch.
- Trong một năm nhuận, nếu có 1 tháng không có Trung khí thì tháng đó là tháng nhuận. Nếu nhiều tháng trong năm nhuận đều không có Trung khí thì chỉ tháng đầu tiên sau Đông chí là tháng nhuận.

1. "Ngày Sóc" và ngày Vọng (Vọng nhật 望日) là thời điểm "hội diện":
Tâm Mặt Trời, và trục bắc-nam của Trái Đất tạo thành một mặt phẳng (mặt phẳng hội diện). Trong hành trình 29,5 ngày trên quĩ đạo quanh Trái Đất của mình, Mặt Trăng có 2 lần "hội diện", tức là có 2 lần tâm Mặt Trăng trùng lên mặt phẳng "hội diện".
"Ngày Sóc 朔日 - Trăng mờ" là ngày "hội diện" Mặt Trăng, Mặt Trời cùng phía, tức là Mặt Trăng nằm giữa Mặt Trời và Trái Đất. Âm lịch khởi mùng một đầu tháng vào ngày này. "Ngày Sóc - Trăng mờ" đặc biệt là ngày mà Mặt Trăng nằm trùng vào đường thẳng nối tâm Mặt Trời và tâm Trái Đất, khi đó xảy ra hiện tượng "Nhật thực toàn phần", nên mọi người sẽ thấy: Nhật thực luôn xảy ra vào ngày mùng 1 Âm lịch, đây cũng là thời điểm thuỷ triều lên rất cao.
"Ngày vọng 望日 - Trăng tròn" là ngày "hội diện" Mặt Trăng, Mặt Trời khác phía, tức là Trái Đất nằm giữa Mặt Trời và Mặt Trăng. Nếu Âm lịch khởi mùng một đầu tháng vào "Ngày Sóc - Trăng mờ" thì ngày này là "ngày rằm" (đôi khi là ngày 16) hàng tháng. "Ngày vọng 望日 - Trăng tròn" đặc biệt cũng là ngày 3 thiên thể: Mặt Trời - Trái Đất - Mặt Trăng nằm trên cùng 1 đường thẳng, khi đó sẽ xảy ra hiện tượng "Nguyệt thực toàn phần", nên mọi người sẽ thấy: Nguyệt thực luôn xảy ra vào ngày rằm (đôi khi là ngày 16).

2. Trung khí là các điểm chia đường hoàng đạo thành 12 phần bằng nhau. Trong đó, bốn Trung khí đặc biệt:
- Xuân phân: Giao điểm giữa "hoàng đạo" và "thiên xích đạo", Mặt trời đi từ Nam Bán Cầu lên Bắc Bán Cầu, khoảng ngày 26/3 Dương lịch hàng năm.
- Hạ chí: Ngày Mặt Trời lên đến điểm cao nhất trên Bắc Bán Cầu, thiên xích vĩ của mặt trời bằng 23 độ một phần hai Bắc = đúng góc nghiêng của trục trái đất so với quĩ đạo, khoảng ngày 22/6 Dương lịch hàng năm.
- Thu phân: Giao điểm giữa "hoàng đạo" và "thiên xích đạo", Mặt trời đi từ Bắc Bán Cầu xuống Nam Bán Cầu, khoảng ngày 23/9 Dương lịch hàng năm.
- Đông chí: Ngày Mặt Trời xuống đến điểm thấp nhất dưới Nam Bán Cầu, thiên xích vĩ của mặt trời bằng 23 độ một phần hai Nam = đúng góc nghiêng của trục trái đất so với quĩ đạo, khoảng ngày 22/12 Dương lịch hàng năm.

3. Theo các nguyên tắc trên, để tính ngày tháng âm lịch cho một năm bất kỳ trước hết chúng ta cần xác định những ngày nào trong năm Dương lịch là "Ngày Sóc - Trăng mờ" (New moon). Từ đó biết được ngày bắt đầu và kết thúc của các tháng Âm lịch.

4. Tính xem các Trung khí (Major solar term) rơi vào tháng nào để từ đó xác định tên các tháng và tìm tháng nhuận.

5. "Đông chí" luôn rơi vào Tháng Một (tháng 11) của năm Âm lịch. Bởi vậy chúng ta cần tính 2 điểm "Ngày Sóc - Trăng mờ" (New moon): "Ngày Sóc - Trăng mờ" A ngay trước ngày Đông chí thứ nhất và "Ngày Sóc - Trăng mờ" B ngay trước ngày Đông chí thứ hai.
Nếu khoảng cách giữa A và B là nhỏ thua 365 ngày thì năm Âm lịch có 12 tháng, và những tháng đó có tên là: Tháng Một (tháng 11), Tháng Chạp (tháng 12), Tháng Giêng (tháng 1), Tháng Hai, …, Tháng Mười.
Nếu khoảng cách giữa hai "Ngày Sóc - Trăng mờ" A và B là lớn hơn 365 ngày thì năm Âm lịch này là năm nhuận, và chúng ta cần tìm xem đâu là tháng nhuận. Để làm việc này ta xem xét tất cả các tháng giữa A và B, tháng đầu tiên không chứa Trung khí sau "Ngày Sóc - Trăng mờ" A là tháng nhuận. Tháng đó sẽ được mang tên của tháng trước nó kèm chữ "nhuận".

Khi tính ngày "Ngày Sóc - Trăng mờ" và ngày chứa Trung khí, cần lưu ý xem xét chính xác múi giờ.
Đây là lý do tại sao có một vài điểm khác nhau giữa lịch Việt Nam và lịch Trung Quốc.
Ví dụ: Nếu biết thời điểm "hội diện" là vào lúc 16:30:00 2007-FEB-17th GMT (Greenwich Mean Time - thường gọi là giờ quốc tế) thì ngày "Ngày Sóc - Trăng mờ" của lịch Việt Nam là 17 tháng 2, bởi vì 16:30:00 GMT là 23:30:00 (giờ Hà Nội) cùng ngày (GMT+7, Hà Nội múi giờ 7). Tuy nhiên theo giờ Bắc Kinh (GMT+8, Bắc Kinh múi giờ 8) thì thời điểm "Ngày Sóc - Trăng mờ" là lúc 00:30:00 ngày 2007-FEB-18th. Tuy là cùng thời điểm nhưng ở Greenwich London mới 16:24:45 ngày 17, Hà Nội đã là 23:30:00 ngày 17, còn Bắc Kinh đã sang ngày 18.
Do đó: Tuy rằng thời điểm "hội diện" là gần cuối ngày, nhưng Việt Nam vẫn phải lấy ngày 17 tháng 2 để làm ngày đầu tháng Âm lịch. Trong khi đó ngày đầu tháng Âm lịch của Trung Quốc lại bắt đầu ngày là 18 tháng 2, chậm hơn lịch Việt Nam 1 ngày.

Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 34 trang (332 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] ... ›Trang sau »Trang cuối