Trang trong tổng số 4 trang (35 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4]

Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan

Xuân Sách - Chân dung nhà văn


21.
Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra
Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà
Lửng lơ giữa khoảng trong xanh ấy
Để mối đùn lên cái gốc già.

22.
Trời thí cho ông vụ lúa chiêm
Ông xây sân gạch với xây thềm
Con đường mòn ấy ông đi mãi
Lưu lạc lâu ngày mất cả tên.

23.
Hai lần lỡ bước sang ngang
Thương con bướm đậu trên dàn mồng tơi
Trăm hoa thân rã cánh rời
Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ.

24.
Nhọc nhằn theo bước con trâu
Hỡi người áo trắng nông sâu đã từng
Mỗi bước đi một bước dừng
Mà sao vẫn lạc giữa rừng U Minh.


25.
Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi Đất Quảng lẫn rừng Xà Nu.

26.
Từ trong hom giỏ chui ra
Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi
Định đem cái lạt buộc người
Khổ thân ông lão vịt trời phải chăn.

27.
“Sông Mã xa rồi tây tiến ơi...”
Về làm xiếc khỉ với đời thôi
Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
Sống tạm cho qua một kiếp người.

“Áo sờn thay chiếu anh về đất”
Mây đầu ô trắng, Ba Vì xanh
Gửi hồn theo mộng về tây tiến
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

28.
Tưởng chuyện như đùa hoá ra thật
Biết ông sằng phẳng tự bao giờ
Cái con thò lò quay sáu mặt
Vồ hụt mấy lần ông vẫn trơ.

29.
Cha và con... và họ hàng và...
Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc
Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn
Họ sống chiến đấu càng khó khăn
Tháng ba ở Tây Nguyên đỏ lửa
Tháng tư lại đi xa hơn nữa
Đường đi ra đảo đường trong mây
Những người trở về mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt
Muốn làm cách mạng nhưng lại dát!

30.
Đường chúng ta đi trong gió lửa
Còn mơ chi tới những cánh buồm
Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất
Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm.


31.
Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
Anh thành đồng chí tự bao giờ
Trăng còn một mảnh treo đầu súng
Cái ghế quan trường giết chết thơ.

32.
Bao năm ngậm ngải tìm trầm
Giã từ quê mẹ xa dòng Hương giang
Bạc đầu mới biết lạc đường
Tay không nay lại vẫn hoàn tay không
Mộng làm giọt nước ôm sông
Ôm sông chẳng được, tơ lòng gió bay

33.
Một con trâu bạc già nua
Nhờ cơn bão biển thổi lùa lên mây
Trâu ơi ta bảo trâu này
Quay về đất mặn kéo cày cho xong.

34.
Tài ba thằng mõ cỡ chuyên viên
Chia xôi chia thịt lại chia tiền
Việc làng việc nước là như vậy
Lộn xộn cho nên phải tắt đèn.

35.
Em còn đôi mắt ngây thơ
Sống mòn mà vẫn đợi chờ tương lai
Thương cho thị Nở ngày nay
Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo!

36.
Xoắn mãi dây tình thơ bật ra
Paris thì thích hơn ở nhà
Đông y ắt hẳn hơn tây dược
Xe tải không bằng xe Volga
Trên đời kim cương là quí nhất
Thứ đến tình thương dân nghèo ta
Em chớ cho anh già lẩm cẩm
Còn hơn thằng trẻ lượn Honda.

37.
Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá
Em không nghe rừng thu
Rừng mưa to gió cả
Em thích nghe mùa xuân
Con nai vàng ngơ ngác
Nó ca bài cải lương.

38.
Một mặt đường khát vọng
Cuộc chiến tranh đi qua
Rồi trở lại ngôi nhà
Đốt lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngon a kai ơi
Ngủ ngon a kai à...

39.
Anh Keng cưới vợ tháng mười
Những đứa con lại ra đời tháng năm
Trong làng kháo chuyện rì rầm
Vụ mùa chưa gặt thóc đã nằm đầy kho.

40.
Ấy bức tranh quê đẹp một thời
Má hồng đến quá nửa pha phôi
Bên sông vải chín mùa tu hú
Khắc khoải kêu chi suốt một đời.




41.
Đôi vai thì gánh lập trường
Đôi tay sờ soạng ven đường cuối thôn
Nghe anh kể chuyện đầu nguồn
Về nhà thấy mất cái hồn của em.

42.
Nhá nhem khoảng sáng trong rừng
Để cho cuộc thế xoay vần hơn thua
Xác xơ màu tím hoa mua
Lửa chân sóng báo mây mưa suốt ngày.

43.
Chị Tư Hậu đẻ ra anh
Ví như hòn đất nặn thành đứa con
Biển xa gió dập sóng dồn
Đất tan thành đất chỉ còn giấc mơ.

44.
Đi bước nữa rồi đi bước nữa
Phấn son mưa nắng đã tàn phai
Cái kiếp đào chèo là vậy đó
Đêm tàn bạn cũ chẳng còn ai.

45.
Đã đi qua một thời giông tố
Qua một thời cơm thầy cơm cô
Còn để lại những thằng Xuân tóc đỏ
Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ.

46.
Thơ ông tang tính tang tình
Cây đa bến nước mái đình vườn dâu
Thân ông mấy lượt lấm đầu
Miếng mồi danh lợi mắc câu vẫn thèm.

47.
Bắt đầu từ lão nghị hụt
Cầm dao giết một mạng người
Chị Nhàn phải đi bước nữa
Lấy đại đội trưởng của tôi
Cuộc đời mấy phen nổi gió
Phải đem tổ quốc thề bồi
Lần này ông ra ứng cử
Chắc là trúng nghị viên thôi.

48.
Ông năm Hạng trở về đất lửa
Với chiếc lược ngà vượt Trường Sơn
Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy
Ông biến thành thằng nộm hình rơm.

49.
Có những lớp người đi vỡ đất
Mùa mưa không trồng lúa trồng ngô
Lại gieo hạt bông hường bông cúc
Trên mảnh đất này hoa héo khô.

50.
Chuyện kể cho người mẹ nghe
Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang
Đứa con nuôi của trung đoàn
Phá vây xong lại chết mòn trong vây.



51.
Đất làng vừa một tấc
Bao nhiêu người đến cày
Thóc giống còn mấy hạt
Đợi mùa sau sẽ hay.

52.
Sớm nay nhấp một chén trà
Bâng khuâng tự hỏi đâu là núi đôi
Những người cùng làng với tôi
Muốn sang đèo trúc muộn rồi, đừng sang.

53.
Biên kia biên giới anh sang
Trước giờ nổ súng về làng làm chi
Mẫn và tôi tính chi li
Gia đình má Bảy lấy gì nuôi anh.

54.
Anh chẳng còn sống mãi
Với thủ đô luỹ hoa
Để những người còn lại
Bốn năm sau khóc oà.

55.
Chim chơ rao cất cánh ngang trời
Tình như chớp trắng nháy liên hồi
Đám mây cánh vạc tan thành nước
Mà đất ba dan vẫn khát hoài.

56.
Sinh ra trong gió cát
Đất Nghệ An khô cằn
Bao nhiêu năm nằm vạ
Trước cửa hội nhà văn.

57.
Đem than từ vùng mỏ
Về bán tận thủ đô
Bị đập chiếc cán búa
Hoá ra thằng ngẩn ngơ.

58.
Tưởng anh dọn về làng xưa
Ngờ đâu về tận thủ đô nhận nhà
Sướng cái bụng lắm lắm à
Đêm là đèo gió, ngày là Hồ Tây.

59.
Với tiếng sáo thiên thai dìu dặt
Mở ra dòng thơ mới cho đời
Bỏ rừng già về vườn bách thú
Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi.

60.
Cửa sông cất tiếng chào đời
Rồi ra đi những vùng trời khác nhau
Dấu chân người lính in mau
Qua miền cháy với cỏ lau bời bời
Đọc lời ai điếu một thời
Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu?


61.
Nếu Trương Lương không thổi địch sông Ô
Liệu Hạng Võ có lên ngôi hoàng đế?
Nhưng buồn thay đã đánh mất Ngu Cơ
Đời còn gì, và thơ cũng thế.

62.
“Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi”
Nay tôi yêu quê hương vì có ô che nắng
Có ghế ngồi viết những điệu thơ vui.

63.
Nhen lên một bếp lửa
Mong soi gương mặt người
Bỗng cơn giông nổi dậy
Mây che một khung trời

Đất sau mưa hỡi đất
Màu mỡ trôi về đâu
Còn trơ chiếc guốc võng
Trăng mài mòn canh thâu.

64.
Một chút hương thơm trải bốn mùa
Mười năm lăn lóc chốn rừng già
Quay về khứng chịu cơn mưa móc
Đất trắng mưa rồi đất lại khô.

65.
Xưa thơ anh viết không người hiểu
“Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
Nay anh chưa viết người đã hiểu
Sắp sáng thì nghe có tiếng gà.

66.
Người đi, ừ nhỉ người đi thật
Đi thật nhưng người lại trở về
Nhẹ như hạt bụi, như hơi rượu
Mà đắm hồn người trong tái tê.

67.
Không có vua thì làm sao có tướng
Nên về hưu vẫn phải chết ở chiến trường
Kiếm sắc chém bao nhiêu đầu giặc
Để vàng tôi trong lửa chịu đau thương.

68.
Hồn đã vượt Côn đảo
Thân xác còn trong lao
Bởi nghe lời mẹ dăn
Nên suốt đời lao đao.

69.
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta

Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việc Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường hoa ở đây.

70.
Tay em cầm bông bần li
Bờ cây đỏ thắm làm chi não lòng
Chuyện tình kể trước rạng đông
Hoàng hôn ảo vọng vẫn không tới bờ
Thiên đường thì quá mù mờ
Vĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng ma
Hành trình thơ ấu đã qua
Hỡi người hàng xóm còn ta với mình.



71.
Cùng đoàn quân anh đi tới thành phố
Bị lạc đường về hội nhà văn
Ừ nhỉ bao giờ quay trở lại
Với năm anh em trong một chiếc xe tăng.

72.
Ván bài lật ngửa tênh hênh
Con đường thiên lí gập gềnh mãi thôi
Thay tên đổi họ mấy hồi
Vẫn chưa tới được chân trời mộng mơ.

73.
Mẹ và em đang ở đâu
Giữa vùng cát trắng đêm thâu gió lùa
Ổ rơm teo tóp ngày mùa
Xác xơ thân lúa vật vờ thân tôi
Bờ tre kẽo kẹt liên hồi
Bầu trời vuông với một ngôi sao dời
Đánh thức tiềm lực mấy hồi
Ai?
Chẳng ai đáp lại lời của tôi.

74.
Anh đã đứng trước biển
Cù Lao Chàm kia rồi
Nhưng khoảng cách còn lại
Xa vời lắm anh ơi.

75.
Ôi thằng Trần Mạnh Hảo
Đi phỏng vấn Chí Phèo
Lão chết từ tám hoánh
Đời mày vẫn gieo neo

Còn cái lão Bá Kiến
Đục bản in thơ mày
Bao giờ mày say rượu
Bao giờ thì ra tay.

76.
Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao được
Quan họ đã vào hợp tác
Đông Hồ gà lợn nuôi chung
Bên kia sông Đuống em trông
Còn đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng.

77.
Người về đồng cói người ơi
Phía ấy mặt trời mọc lại
Một thời xa vắng, xa rồi
Phủ Khoái xin tương oai oái

Ở đời gặp may hơn khôn
Nào ai dám ghen dám cãi
Người đã đi Mĩ hai lần
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!

78.
Anh đứng thành tro em có biết
Hôm qua lại gặp chuyến xe bò
Vẫn anh đi với vầng trăng cũ
Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ.

79.
Ôi màu tím hoa sim
Nhuộm tím cuộc đời dài đến thế
Cho đến khi tóc bạc da mồi
Chưa làm được nhà

còn bận làm người
Ngoảnh lại ba mươi năm
Tím mấy ngàn chiều hoang biền biệt.

80.
Kòn trô dấn bước đường chinh chiến
Nửa gánh giang hồ nửa ái ân
Ngàn sau sông Dịch còn tê lạnh
Tráng sĩ có về với bến xuân.


81.
Văn chương thuở ấy như bèo
Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời
Giấc mộng lớn đã bốc hơi
Giấc mộng con suốt một đời bơ vơ
Ước chi cụ sống tới giờ
Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn

82.
Cũng muốn tin vào hoa hồng
Tin vào điều không thể mất
Cả tôi và cả chúng ta
Đứng trong đầm lầy mà hát

Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm đã chết
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm ai giết!

83.
Bốn mươi tuổi mới vào đời
Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ
Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
Trong lòng Hà nội bây giờ ở đâu?

84.
Vỡ lòng câu thơ viết
Mời bác ngủ bác ơi
Đêm nay bác không ngủ
Nhà thơ ngủ lâu rồi.

85.
Thiên thai từ giã về dương thế
Nhắc chi ngày ấy buồn lòng ta
Sân đình ngất ngưởng ngôi tiên chỉ
Uống rượu say rồi hát quốc ca.

86.
Khi về xuôi anh mang theo

đồng bạc trắng hoa xoè
Với một mối tình sơn cước
Mùa lá rụng trong vườn

năm này qua năm khác
Đám cưới vẫn không thành

vì giấy giá thú chửa làm xong.

87.
Sắp cưới bỗng có thằng phá đám
Nên ông chửi bố chúng mày lên
Đầu chày đít thớt đâu còn ngán
Không viết văn thì ông viết phim

88.
Biết mấy mươi chiều khói thuốc bay
Quê nhà vạn dặm khuất trùng mây
Lui về kí ức chân trời cũ
Uống chén rượu buồn không dám say.

89.
Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ôi
Cái nợ lên xanh rũ sạch rồi
Cửa Việt tung hoành con sóng vỗ
Sông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôi
Sử thi thành cổ buồn nao dạ
Chuyện mới Đông Hà tái nhợt môi
Từ biệt chốn xưa nhiều ánh lửa
Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ôi!

90.
Dẫu chín bỏ làm mười
hay mười hai cũng mặc
Chẳng ai dung thiên sứ đất này
Dụ đồng đội vào trong mê lộ
Rồi bỏ đi du hí đến năm ngày.


91.
Giặc giã yên rồi

về xoay khối vuông Ru bích
Đoán hậu vận rủi may

thưa quí vị, xin mời
Xanh tím trắng đỏ vàng đều đủ hết
Ta cùng vào cuộc chơi
Không gian bốn năm chiều

thời gian xin tuỳ thích
Đảo lộn tùng phèo thật giả trắng đen
Tôi như cục xà bông thứ thiệt
Cứ đổ rượu vào

hình quí vị sẽ hiện lên.

92.
Người người lớp lớp

xông ra trận
Cờ đỏ

mưa sa
suốt dặm dài
Mở đột phá khẩu

tiến lên
nhất định thắng
Lô cốt mấy tầng

đè nát vai
Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng
Hồn vẫn treo trên

Vọng hải đài.

93.
Ba lô trên vai từ đêm mười chín
Một tiếng chim kêu sáng cả rừng
Thì cứ khắc đi rồi khắc đến
Sao còn ngồi đó cụ già Khương?

94.
Tuổi hai mươi xung phong lên Tây bắc
Nguyện hi sinh chiến đấu dưới cờ
Lại xung phong vào Nam đánh giặc
Với bà mẹ đào hầm đầu bạc phơ phơ

Hoà bình rồi tiến lên đổi mới
Bất ngờ ngã ngựa chốn non cao
Dẫu nhiều lần bị lừa như thế
Thì cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao!

95.
Trái tim với nỗi nhớ ai
Như cây trong phố đứng hoài chờ trăng
Như người đàn bà ngồi đan
Sợi dọc thì rối, sợi ngang thì chùng.

96.
Ra đi từ bến My Lăng
Bao năm dấu kín ánh trăng trong lòng
Tuổi già về lại bến sông
Trăng kia đã lặn phải chong đèn dầu.

97.
Giấu một chùm thơ trong chiếc khăn tay
Em hăm hở đi tìm người trao tặng
Những kẻ phong lưu, những tên du đãng
Mấy ai biết được hương thầm của cô gái xóm đê.

98.
Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát
Hát thành thơ như nước triều lên
Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa
Biển một bên và em một bên.

99.
Người đàn bà mà tôi ao ước
Trên vành đai chống Mĩ những năm xưa
Tình yêu đã lụi tàn cùng kí ức
Nhưng còn đây tội lỗi đến bao giờ


Tự hoạ

Cô giáo làng tôi đã chết rồi
Một đêm ra trận đất bom vùi
Xót xa Đình Bảng người du kích
Đau đớn Bạch Đằng lũ trẻ côi
Đường tới chiến công gân cốt mỏi
Lối vào lửa đạn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương cũ
Ở một cung đường rách tả tơi.



Lời cuối sách

Tiếp theo cuốn Thương nhớ tài hoa của Nguyễn Vũ Tiềm, phác thảo chân dung của năm mươi nhà thơ, nhà văn đã quá cố, những cây bút có những đóng góp đặc sắc cho nền văn học của đất nước, hôm nay Nhà xuất bản Văn học gửi tới bạn đọc một tập hợp khác về chân dung các nhà văn.

Đây là những kí hoạ có tính đặc tả của Xuân Sách, những chân dung vốn đã khá phổ biến trong và ngoài giới văn học suốt vài chục năm qua.

Tác giả không nêu đích danh ai, nhưng dưới nét bút phác thảo, những độc giả quan tâm tới văn học và người làm văn học, vẫn có thể nhận ra từng đối tượng. Dĩ nhiên thể loại này thường cố ý phóng to các đặc điểm và khi nhìn vào nét đặc tả ấy – tuy mất cân đối và đôi khi phiến diện - vẫn dễ dàng nhận ra diện mạo, cốt cách từng nhân vật.

Chất vui, hóm và nhất là khả năng chơi chữ có thể khiến người ta ngạc nhiên một cách thú vị, nhưng cũng có thể gây nên những sự không hài lòng đây đó...

Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào của giới cầm bút, cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên những chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái nhìn của người cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí, ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.

Với ý nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa lột tả được thần thái của từng chân dung.

Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình.

Rất mong bạn đọc và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết.


Nhà xuất bản Văn học
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan

http://i193.photobucket.com/albums/z206/laoxichlo/nhavan/NguyenThanhLong.jpg
21.  NHÀ  VĂN NGUYỄN THÀNH LONG

Tiểu sử:

Tên thật: Nguyễn Thành Long.
Sinh năm: 1925
Mất năm:  1991
Nơi sinh: Duy Xuyên - Quảng Nam.
Bút danh: Nguyễn Thành Long, Phan Minh Thảo, Lưu Quỳnh.
Thể loại: ký, truyện ngắn.

Các tác phẩm:

         Bát cơm cụ Hồ (tập bút ký, 1952)
         Gió bấc gió nồm (tập bút ký, 1956)
         Hướng điền (tập truyện ngắn, 1957)
         Chuyện nhà chuyện xưởng (tập truyện ngắn, 1962)
         Trong gió bão (truyện, 1963)
         Giữa trong xanh (tập truyện ngắn, 1972)
         Nửa đêm về sáng (tập truyện ngắn, 1978)
         Lý Sơn, mùa tỏi (tập truyện ngắn, 1981)

Giải thưởng văn chương:

         Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Chi hội văn nghệ liên khu V trao tặng năm 1953 cho tập bút ký “Bát cơm cụ Hồ”.

Giới thiệu một tác phẩm:

Lặng lẽ Sapa (truyện ngắn, tập “Giữa trong xanh” )

Rời cầu cây số bốn một quãng, xe trèo lên núi. Mây hắt từng chiếc quạt trắng lên từ các thung lũng. Chỉ thấy thấp thoáng trong màu xanh bao la, ở phía trước một vệt hình ba góc màu vàng, chính là đoạn đường mình vừa đi qua. Đi một lúc lâu, ngửng lên, vẫn thấy cái vệt ba góc đó. Đến bây giờ, người lái xe già mới cất tiếng nói:

-          Con suối có thác trắng xoá ta vừa qua là trạm rừng. Một lúc nữa thì tới Sapa. Bác không ghé thăm Sapa ư? Hoạ sỹ nào cũng đến Sapa. Ở đấy tha hồ vẽ. Tôi đi đường này 32 năm. Trước cách mạng tháng 8, tôi chở lên chở về mãi nhiều hoạ sỹ như bác. Hoạ sỹ Tô Ngọc Vân này, hoạ sỹ Hoàng Kiệt này…

Thật là đột ngột! Nhà hội hoạ có tuổi mỉm cười thay lời đáp. Lúc nãy, ở bến Lao Cai, lúc xe sắp nổ máy, thấy hàng ghế thứ ba chật vì đôi vợ chồng Mèo trẻ mua vé không cùng chuyến nhưng nhất định không rời nhau, bác lái xe mời ông lên ghế đầu, ngồi giữa bác và một cô gái. Ông vừa yên chỗ, bác lái xe ngắm nghía thế nào hỏi ngay: “Bác là hoạ sỹ à?” À, ra thế - ông nghĩ thầm – bác từng quen nhiều hoạ sỹ cũng là một tay lái có máu nghệ thuật đây.

-          Nực cười, lúc còn trẻ, tôi cũng qua đường này nhiều lần chứ. Gía vẽ, hộp màu, cuộn giấy, lích kích lắm thứ. Thế nhưng chẳng ai nhận ra tôi. Bây giờ già rồi, đi đâu trong túi cũng mỗi cuốn sổ con này thôi, vậy mà ai cũng nói đúng mình làm nghề gì, không lẫn đi đâu được. Cô đấy, hôm qua cô chẳng hỏi tôi thế là gì?

Cô gái nhếch mép cười, có vẻ rất bằng lòng về việc ông được chuyển lên ngồi cạnh cô, sau một đêm và một ngày đi tàu từ Hà Nội, cùng ngồi trên một ngăn toa xe chật dần lên, đến nơi lại không có cách nào khác đành gộp hành lý luồn vào một chiếc đòn gánh cùng khênh đến khách sạn cách thị xã bốn cây, sau một đoạn đường như vậy, người ta coi nhau như là bà con. Nhà hoạ sỹ có cái cảm giác lẫn lộn thường có ở tuổi già, nhanh chóng coi cô gái là con.

- Tuần lễ này, ở nhà, anh em định làm tiệc tiễn tôi về hưu. Tôi xin anh em hoãn bữa tiệc đến cuối tuần sau, đợi tôi đi chuyến “thực tế” này về đã. Đối với một nghệ sỹ, trong cuôc đời có hai hồi thích nhất, đó là hồi mình còn trẻ và hồi này của tôi. Mình có thể  năng nổ đi, vẽ, như thời thanh niên, mình có thêm sự chín chắn hồi ấy mình chưa có. Không bi quan, không ảo tưởng, tôi cho tôi cũng còn được mười năm sống nữa. Phải vẽ đựơc cái gì suốt đời mình thích, cô nhỉ?

Nxb Văn học, 2005
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan

http://i193.photobucket.com/albums/z206/laoxichlo/nhavan/DaoVu.jpg
22. NHÀ VĂN ĐÀO VŨ

Tiểu sử:

Tên thật: Đào Văn Đạt
Sinh năm: 1927
Nơi sinh: Ân Thi - Hưng Yên
Bút danh: Đào Vũ
Thể loại: Tiểu thuyết, truyện ngắn, văn học dịch, kịch

Các tác phẩm:

Trâu thóc qua đồi sim (1954 - 1955)
Cái sân gạch (1959)
Chim mùa xuân (1960)
Lớp tre đang lên (1961)
Vụ lúa chiêm (1961 - 1972)
Trăng rơi xuống giếng (1961)
Danh dự chúng em (1961)
Người cửa sông (1966)
Đội quân nhỏ làng Dương (1967)
Xóm nhà thờ (1967)
Mảnh đất đồng chua (1976)
Con đường mòn ấy (1971)
Đất ta dậy rồi (1972)
Lưu lạc (1973)
Hoa lửa (1973)
Dải lụa (1974)
Chiến trường xanh (1976)
Bí thư cấp huyện (1983)
Một mùa mưa (1966- 1994)
Trận tuyến chiều dài (1986)
Con than ngơ ngác (1988)
Người đi xa để lại (1993)
Cây đa thằng Cuội (1994)
Tuyển tập Đào Vũ (tập I và tập II, 1994)

Giải thưởng văn chương:

Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt I

Giới thiệu một tác phẩm:

Người đi xa để lại

Cuộc gặp gỡ lại ngẫu nhiên và ly kỳ đến mức cả tôi cũng khó tin là thật. Nhưng không thật sao được? Rõ ràng là cô Gon đang ở trước mặt tôi chứ còn ai nữa!

- Kìa, có phảo cô … cô Gon không?

- Vâng, em.

- Có việc gì lại lên tận đây?

Cô Gon không trả lời câu hỏi ấy của tôi, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, không vồn vã, thậm chí còn hơi lạnh lùng và có phần dè dặt.

- Em cứ tưởng anh không nhận ra em nữa.

… Những sự tình cờ ở đời thật không biết thế nào mà lường được. Có khi sự này được xâu chuỗi vào với sự khác, có khi như bàn tay vô hình nào sắp đặt hẳn hoi chứ không phải sự tình cờ.

Miền Nam vừa mới được giải phóng, tôi vào thăm, rồi bây giờ trên đường trở ra Bắc bằng ô tô. Như bình thường thì ai nấy đều đi đường số 1, vừa là đường nhựa dễ đi, vừa nhanh hơn không phải vòng vèo. Tôi vì cái tính nghề nghiệp, lại muốn vòng lên Trường Sơn, trở ra bằng hệ thống đường thời chiến mà ta vẫn quen gọi là đường mòn Hồ Chí Minh. Tôi đã đi nhiều lần trên những con đường này. Nhưng vì là thời chiến, toàn phải đi đêm, lại đi trong hoàn cảnh lúc nào cũng có máy bay địch và bom mìn đủ kiểu, nên có nhiều hạn chế. Nay không có máy bay địch, lại được đi ban ngày, chắc hẳn mọi sự sẽ khác lắm. Tôi phải giáp mặt trở lại với những con đường và những quang cảnh ấy xem sao.

Hơn nữa, tôi còn muốn lên thăm - tôi nghĩ riêng là lên thăm lần cuối - những binh trạm thân yêu kia, nơi tôi đã sống bao nhiêu năm tháng, có bao nhiêu kỷ niệm với những người đang sống và những  người đã chết. Tôi nghĩ thăm lần cuối là vì, không những từ ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, mà ngay từ ngày quân xâm lược Mỹ buộc phải rút chân khỏi miền Nam, lực lượng máy bay nguỵ không đủ sức vươn cổ ngó tới vùng này nữa, thì cả anh em họ mạc ngành giao thông vận tải quân sự nhà ta đã "lật cánh" từ tây sang đông, rời bỏ những tuyến đường tây Trường Sơn không sử dụng nữa rồi. Các binh trạm chỉ còn để lại những bộ phận chưa thể chuyển được hoặc không cần chuyển. Tôi chắc, không trở lại chuyến này, ít lâu nữa có trở lại cũng chỉ là rừng núi hoang vu. Mà rừng núi thì tôi có nhiều kinh nghiệm, nó có sức phản công ghê gớm lắm. Chỉ cần một thời gian ngắn không có vết chân người, nó đã phản công trở về dạng nguyên thuỷ của nó. Bởi vậy, dù phải đi đường xa, đường xấu, tôi cũng cố đi vòng lên, ít nhất cũng vòng lên binh trạm 14 và binh trạm 16.

Có lẽ cũng phải nói đôi lời về binh trạm để cắt nghĩa tại sao tôi lại có sự gắn bó và yêu cầu nghề nghiệp như vậy.

Hệ thống binh trạm của quân đội như thế này, thực ra chỉ có tổ chức trong thời chiến. Gọi là trạm nhưng quy mô không phải nhỏ, thông thường không bằng một sư đoàn thì cũgn lớn hơn lữ đoàn, cho nên chúng tôi vẫn gọi đùa cá thủ trưởng binh trạm lã "lữ già, sư non". Nhiệm vụ của các binh trạm trên tuyến đường Hồ Chí Minh này bao gồm bốn việc chính: giao thông, vận tải, giao liên và tải thương. Nghe thì gọn ghẽ như vậy nhưng côgn việc thì dài dòng lắm. Ví dụ: nhiệm vụ giao thông có nghĩa là mở đường, làm đường, sửa đường, giữ đường (bao gồm cả cầu cống, đò phà), làm bằng lực lượng công binh, thanh niên xung phong và cả công nhân nếu có, chiến đấu với đất đá, với mưa lũ và nhất là với bom đạn quá nhiều của giặc Mỹ. Nhiệm vụ vận tải thì như tên gọi của nó, làm nhiệm vụ vận tải hàng vào và hàng ra, dù hàng vào hay hàng ra cũng là để nuôi cuộc chiến đấu chống Mỹ ở miền Nam. Vậy là có công việc quản lý bao nhiêu đơn vị xe cộ thuyền bè vận tải, quản lý một hệ thống kho tàng;



Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Văn học, 2005
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan

http://i193.photobucket.com/albums/z206/laoxichlo/nhavan/yNguyenBinh.jpg
23. NHÀ THƠ NGUYỄN BÍNH http://thivien.net/viewau...ID=RCNj-sNk__lhbIGhKuntfw
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

bao anh

KÍNH GỬI BÁC XUÂN SÁCH


Một góc trời nam anh tá túc
Hồn vẫn phiêu diêu tận quê nhà
Văn chương đâu phải là bếp núc
Để anh xào nấu chuyện ngày xưa
Cô giáo làng nay thành bà lão
móm mém nhai trầu đất Lam kinh
Vẫn hỏi anh sao không về chốn cũ
Rùa vàng ngủ quên bên góc hoàng thành
Anh em bốn bên mà ta ở giữa
Xin hỏi anh ,anh có thấy cô đơn
Hố bom hoa lên màu cỏ mới
Sóng gió tan rồi mặt trời lên
Vẫn biết văn chương là cái nghiệp
Bỏ thì thương mà vương thì đau
Xin anh hãy bao dung vì nghĩa cả
Vì đàn em đang lớp lớp cơ cầu !
Quê người lần lữa nắng mưa
Nỗi vui nay với duyên xưa ngậm ngùi
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 4 trang (35 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4]