Trang trong tổng số 98 trang (973 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [87] [88] [89] [90] [91] [92] [93] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Hoàng Mạnh Phan

Một số bài thơ dịch sang tiếng Pháp của Phan Hoàng Mạnh

              BÃI  BIỂN  CUỐI  HÈ
                                          Huy Cận

          Bãi biển cuối hè dần vắng lặng
Vô tâm biển vẫn đẹp tưng bừng.
Mai đây ta vắng, đời không vắng,
Vũ trụ điềm nhiên đẹp dửng dưng.

Sóng trắng bờm phi hí gió mai,
Mây bay tới tấp ngợp chân trời.
Phải chăng vũ trụ thừa dư sức
Thỉnh thoảng chồm lên như trẻ chơi.

      LA  PLAGE  EN  FIN  D’ÉTÉ

La plage en fin d’été se vide de jour en jour.
Ínsouciante la mer demeure belle splendidement
Un jour, je serai absent, mais la vie est présente
                                                                 toujours
Et l’univers indifférent reste beau impassiblement .


Les vagues blanches du matin hennissent, crinières
                                                                  au vent,
Les nuages par flots redoublés, s’entassent  à l’horizon
Est-ce vrai que l’univers, trop plein d’énergie féconde,
Parfois se cabre comme s’amusent les enfants?

                           ====
               CÔ  LÁI  Đ Ò         Nguyễn Bính

Xuân đã đem mong nhớ trở về
Lòng cô lái ở bến sông kia.
Cô hồi tưởng lại ba xuân trước
Trên bến cùng ai đã nặng thề...

Nhưng rồi người khách tình quân ấy
Đi mãi không về với bến sông.
Đã mấy lần Xuân trôi chảy mãi
Mấy lần cô gái mòn mỏi trông.

Xuân này đến nữa đã ba xuân,
Đốm lửa tình duyên tắt nguội dần.
Chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi,
Cô đành lỗi ước với tình quân.

Bỏ thuyền, bỏ lái, bỏ dòng trong,
Cô lái đò kia đi lấy chồng.
Vắng bóng cô em từ dạo ấy
Để buồn cho những khách sang sông.

          LA   PASSEUSE

L’espoir dans l’attente par le printemps est ramené
Dans l’âme de la passeuse de ce débarcadère.
Elle se remémore le printemps de trois années passées
Où elle et lui ont échangé des serments sincères.

Mais cet amant de l’amour printanier
Est parti sans retour de ce débarcadère.
Combien de fois le printemps a passé
Combien de fois la jeune fille languit dans son
                                                   espoir éphémère !

Ce printemps vient déjà pour la troisième fois,
Le feu de son amour s’éteint peu à peu.
Devrait-on garder l’amour dans l’attente sans espoir?
Elle se résigne à manquer à son serment de bonheur.

Abandonnant le cours d’eau, et barque, et
                                                           débarcadère,
La passeuse s’en est allée se marier.
Depuis lors, n’apparaît plus son image bien chère
Laissant tant de mélancolie aux coeurs des passagers.
                            ====
                                  ====


               NHẠN TRONG SƯƠNG
                                                          Ngân  Giang

         Tôi buồn lặng dạo cánh đồng quê
Mải ngắm thôn xa chẳng tưởng về.
Bỗng quạ kêu vang trong khoáng dã
Giật mình thức tỉnh mảnh hồn mê.

Thì đây quán nước một bên đường
Bà lão nhìn tôi vẻ mến thương
-“Cô đẹp sao cô buồn ủ rủ ?”
Mỉm cười tôi ngắm nhạn trong sương.

  L’HIRONDELLE DANS LE BROUILLARD

      Mélancolique, je me promène sur la route vicinale,
      Plongée dans la contemplation du lointain hameau
       Sans songer au retour.
     Soudain retentissent des cris de corbeau
       Dans l’ambiance pastorale.
    Tressaillant, je me réveille de l’extase vespérale.

    Voici une auberge tout au bord de la piste.
    La vieille hôtesse me couvre de son doux regard:
    “Ô ma fille, si belle, pourquoi es-tu si sombre et
                                                                     triste ?”
     Souriant, je suis des yeux une hirondelle dans le
                                                             brouillard.

       MỘT  TIẾNG  ĐỜN
                                                        Tố Hữu
      Mới bình minh đó đã hoàng hôn
Đang nụ cười tươi bỗng lệ tuôn.
Đời thường sớm nắng chiều mưa vậy
Khuấy động lòng ta biết mấy buồn !.

Ôi ! Kiếp trăm năm được mấy ngày
Trời xanh không gợn bóng mây bay !
Gian nan vẫn thuỷ chung bè bạn
Êm ấm tình yêu mỗi phút giây !
Có khổ đau nào đau khổ hơn
Trái tim tự xát muối cô đơn.
Em ơi, nghe đó ... Trong đêm lạnh
Đằm thắm bên em một tiếng đờn.
                             Giải thưởng Văn học ASEAN 1966

                UN   SON   DE   LUTH
    L’aube vient de poindre que déjà c’est le soir,
    Au milieu du sourire soudain coulent des larmes.
    Telle est la vie, ensoleillée le matin et pluvieuse
                                                                     au soir.
    Ce qui m’étreint le coeur tout agité d’alarmes.

    Oh combien de journées durant cent ans de vie
    Où le ciel n’est taché d’aucun léger nuage !
    Dans les périls, on reste fidèle aux amis
    Leur réservant toujours son doux et chaud
                                                                    partage.
  
    Y a-t-il de douleur encore plus amère
    Que dans un coeur meurtri rapé de solitude?
    Écoute, mon amie, dans la nuit froide et claire,
    Résonne chaleureux pour toi un son de luth.
                      Prix de Littérature ASEAN 1996
                                  ==
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Chân

十五夜大風
高伯适
一 夜 長 風 撼 海 臺
順 安 門 外 浪 如 雷。
千 秋 尚 作 周 郎 氣
要 打 紅 毛 巨 艦 迴。
THẬP NGŨ DẠ ĐẠI PHONG
Cao Bá Quát
Nhất dạ trường phong hám hải đài
Thuận An môn ngoại lãng như lôi.
Thiên thu thượng tác Chu Lang khí
Yếu đả Hồng Mao cự hạm hồi.

Dịch nghĩa: ĐÊM RẰM GIÓ LỚN
Suốt đêm gió lộng lay động toà hải đài
Ngoài cửa Thuận An, (tiếng) sóng (gầm) như sấm.
Hùng khí của Chu Du ngàn năm vẫn còn đây
Phải đánh cho tàu lớn của quân Hồng Mao lùi.

Hám (撼): lay động [Bài “Phú khiêu thạch”: “Hải đào hám sơn thạch”]. Thuận An: tên kinh thành Huế thời Nguyễn. Hải đài: Thời Tự Đức ở cửa biển Thuận An có các toà đài kiên cố theo dõi động tĩnh trên biển.  Thượng (尚):  để cho (như : thượng hưởng); ưa chuộng (như: thượng võ); Còn (nghĩa trong bài, như ‘thượng hữu”: còn có). Chu Lang tức Chu Du đời Tam Quốc nhân gió Đông thắng trận Xích Bích. Hồng Mao: người Phương Tây. Hạm (艦): tàu chiến.
Trần Văn Trạch chuẩn bị, tháng 06/2015




ĐÊM RẰM GIÓ LỚN
CAO BÁ QUÁT
Suốt đêm gió lộng hải đài
Sóng gầm như sấm bên ngoài Thuận An
Chu Du hùng khí chưa tàn
Hồng Mao hạm đội đánh làm cho lui

Gió lộng suốt đêm trước hải đài
Nghe như sấm động Thuận An ngoài
Chu Du hùng khí ngàn năm dậy
Hạm đội Hồng Mao đánh, đẩy lùi.

LE TYPHON À LA NUIT DU QUINZIÈME
CAO BA QUAT
Toute la nuit, fait rage la bourrasque contre le poste maritime
Hors de l’estuaire Thuan An
Grondent les flots tels tonnerres
La volonté de Zhou You persiste pendant des millénaires
Il faur combattre contre la Flotte des Roux
Et la repousser

БУРЯ НОЧЪЮ ПЯТНАЦТОГО ДНЯ
RАО БА КУАТ
Всю ночъ бушует буря перед морским постом
Вне Тхуан Ан лимана волны шумят как гром
Воля Чжоу Юоу оставляется тысятилетние
Нужно сражатся с Флотой Рыжих и её отталкиватъ

NGUYỄN CHÂN 20.06.2015
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Chân

檳園雨後
  高伯适
昨夜霜花似著鹽
曉來忽作雨纎纎。
快看霰掃雲收後
一半檳園湧玉蟾。

TÂN VIÊN VŨ HẬU
Cao Bá Quát
Tạc dạ sương hoa tự trứ diêm
Hiểu lai hốt tác vũ tiêm tiêm.
Khoái khan tản tảo vân thu hậu
Nhất bán tân viên dũng ngọc thiềm.

Dịch nghĩa:
VƯỜN CAU SAU CƠN MƯA
Đêm qua, hạt sương tựa  như hạt muối kết tụ
Sáng ra bỗng có mưa lất phất.
Vui nhìn sau khi tuyết hết, mây tan
Nửa vườn cau loáng ánh trăng.

Tân (檳): cây cau. Trứ (著): sáng rõ (như: trứ danh); Diêm (鹽): muối; Tản (霰): tuyết, hạt do hơi nước lạnh đột ngột kết thành: Tảo
(掃): quét, hết sạch (nghĩa trong bài); Dũng (湧): vọt ra, loáng nước (nghĩa trong bài); Thiềm (蟾) thừ: con cóc. Ngọc thiềm: Vầng trăng. Người xưa coi những vết đen trên mặt trăng là con cóc, nên gọi mặt trăng là; ngọc thiềm,, ngân thiềm, minh thiềm, thiềm cung…



VƯỜN CAU SAU CƠN MƯA
CAO BÁ QUÁT
Sương rơi như muối đêm qua
Ban mai lất phất mưa sa trước thềm
Tuyết tan, mây tản, vui nhìn
Vườn cau lấp loáng trăng chìm còn soi.

Sương rơi như muối suốt đem qua
Lất phất mưa bay mới sáng ra
Mây tản, tuyết tan, vui đứng ngắm
Vườn cau trăng lặn, ánh trăng tà..

JARDIN D’ARÉQUIERS APRÈS LA PLUIE
CAO BA QUAT
Nuitament les rosées tombent comme du sel
À l’aube se répand partout un fin crachin
On se réjouit de voir les nues qui disparaissent
Et la neige en dégel
S’élance au jardin la clarté de la lune en déclin.

САД АРЕКОВЫЙ ПОСЛЕ ДОЖДЯ
LАО БА КУАТ
Ночъю как солъ падала роса
Идёт моросящтй дождъ утром
Рядъ смотрят на таящую снегу и
разбегающиеся облака
Свет ущербой луны блескнул над  садом

NGUYỄN CHÂN 19.06.2015
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Chân

THẬP NGŨ DẠ ĐẠI PHONG
Cao Bá Quát
Nhất dạ trường phong hám hải đài
Thuận An môn ngoại lãng như lôi
Thiên thu thượng tác Chu lang khí
Yếu đả Hồng Mao cự hạm hồi

Dịch nghĩa : ĐÊM RẰM GIÓ LỚN
Cao Bá Quát
Suốt đêm gió lộng lay dộng tòa hải đài
Ngoài cửa Thuận An (tiếng ) sóng( gầm) như sấm
Hùng khí của Chu Du ngàn năm hãy còn đây
Phải đánh cho tàu lớn của quân Hồng Mao lùi.

Dịch thơ : GIÓ LỚN ĐÊM RẰM
Cao  Bá Quát
Gió lớn thâu đêm táp hải đài
Thuận An cửa biển sóng gầm oai
Hùng khí Chu Du đây muôn thủa
Tàu lớn phương Tây  cút chạy dài.

BOURRASQUE DANS LA QUINZIEME NUIT (lunaire)
CAO BA QUAT
Toute la nuit, la bourrasque ébranle le poste bordant la mer,
Au-delà du port Thuân An, l’océan gronde comme le tonnerre,
Règne encore ici  de Chu Du l’ambiance audacieuse millénaire,
Combattons à repousser ces grands vaisseaux de l’Occident!

TRỊNH PHÚC NGUYÊN dịch
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

trinhphucnguyen24

NHỮNG BÓNG NGƯỜI TRÊN SÂN GA
(Thơ Nguyễn Bính)
1. Những cuộc chia lìa khởi tự đây
Cây đàn sum họp đứt từng dây.
Những đời phiêu dạt thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tối ngày.

2. Có lần tôi thấy hai cô bé
Áp má vào nhau khóc sụt sùi
Hai bóng chung lưng thành một bóng
Đường về nhà chị chắc xa xôi…
Anh:

THE SHADOWS OF PASSENGERS
       ON A RAILWAY STATION PLATFORM
(Poem by Nguyễn Bính – Translated by TMCS)

Here is the departure of every separation
One after another, the guitar strings broken
In the tune of the happy unions.
One after another, the alone passengers
Took their departure
Since early morning till late night

Once I saw two little girls,
Cheek to cheek they sobbed sorrowfully.
They stood side by side
And made on the platform one shadow only
“Your return way will be so long, maybe.”
Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

trinhphucnguyen24

NHỮNG BÓNG NGƯỜI TRÊN SÂN GA
(Thơ Nguyễn Bính)
1. Những cuộc chia lìa khởi tự đây
Cây đàn sum họp đứt từng dây.
Những đời phiêu dạt thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tối ngày.

2. Có lần tôi thấy hai cô bé
Áp má vào nhau khóc sụt sùi
Hai bóng chung lưng thành một bóng
Đường về nhà chị chắc xa xôi…
Anh:

THE SHADOWS OF PASSENGERS
       ON A RAILWAY STATION PLATFORM
(Poem by Nguyễn Bính – Translated by TMCS)

Here is the departure of every separation
One after another, the guitar strings broken
In the tune of the happy unions.
One after another, the alone passengers
Took their departure
Since early morning till late night

Once I saw two little girls,
Cheek to cheek they sobbed sorrowfully.
They stood side by side
And made on the platform one shadow only
“Your return way will be so long, maybe.”

EN FRANCAIS:
En francais:

         LES OMBRES DES PASSAGERS  AU QUAI DE LA GARE
(Poème de Nguyễn Bính-Traduit par TRỊNH PHÚC NGUYÊN)

            Par ici,commencent toutes les séparations,
           Se brisent de la guitare les fils d’union,
          Nuit et jour,se succèdent sucessivement
         les vies d’aventure des solitaires passants.

           Une fois,j’ai vu deux petites jeunes filles,
           Joue appliquée contre joue,elles pleurnichèrent,
          Dos appliqué contre dos,leurs ombres fusionnèrent.
          “Ah! Ton chemin de retour,certes,sera long!”
Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

trinhphucnguyen24

4-5-Những bóng người trên sân ga
                               (Nguyễn  Bính)
.
4-Có lần tôi thấy vợ chồng ai
Thèn thẹn đưa nhau bóng chạy dài
Chị mở khăn giầu, anh thắt lại
“Mình về nuôi lấy Mẹ, mình ơi!”

Có lần tôi thấy một bà già
Đưa tiễn con đi trấn ải xa
Tầu chạy lâu rồi bà vẫn đứng
Lưng còng đổ bóng xuống sân ga.


4-J’ai vu une fois un couple d’époux,un soir,
Avec pudeur,ils se quittèrent,leurs ombres s’allongèrent. Elle ouvrit le sac à bétel,il le ferma;
“Au revoir,chérie,prends bien soin de notre Ma!”

5-Une autre fois,j’ai vu une vieille femme,
Reconduisant son fils soldat,partant bien loin,
pour un poste de garde à la frontière.
Le train parti longtemps,elle était encore là,
Jetant l’ombre de son dos courbé sur la gare.
                                
    Traduction de Trịnh Phúc Nguyên
Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

trinhphucnguyen24

NHŨNG BÓNG NGƯỜI TRÊN SÂN GA
                                   Nguyễn Bính
3-Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chièu
 Ở một ga nào xa vắng lắm
Họ cầmtay họ bóng xiêu xiêu.

4-Hai người bạn cũ tiễn chân nhau
Kẻ ở trên toa kẻ dưới tầu
Họ giuc nhau về ba bốn bận
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu


3-Il y avait une fois,au coucher du soleil,
Sur le quai d’une gare déserte,éloignée,
J’ai vu un couple d’amants se faisant leurs adieux,
Leurs mains s’entrelacaient,leurs silhouettes s’inclinaient..

4-A la gare,deux anciens amis se quittaient,
L’un dans le wagon,l’autre encore sur le quai,
Maintes fois déjà,ils s’échangeaient:”Au revoir!”
Depuis longtemps,leurs ombres plongeaient dans la nuit noire!

                Traduction de TRỊNH PHÚC NGUYÊN
Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

trinhphucnguyen24

NHŨNG BÓNG NGƯỜI TRÊN SÂN GA
                                   Nguyễn Bính
3-Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chièu
 Ở một ga nào xa vắng lắm
Họ cầmtay họ bóng xiêu xiêu.

4-Hai người bạn cũ tiễn chân nhau
Kẻ ở trên toa kẻ dưới tầu
Họ giuc nhau về ba bốn bận
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu


3-Il y avait une fois,au coucher du soleil,
Sur le quai d’une gare déserte,éloignée,
J’ai vu un couple d’amants se faisant leurs adieux,
Leurs mains s’entrelacaient,leurs silhouettes s’inclinaient..

4-A la gare,deux anciens amis se quittaient,
L’un dans le wagon,l’autre encore sur le quai,
Maintes fois déjà,ils s’échangeaient:”Au revoir!”
Depuis longtemps,leurs ombres plongeaient dans la nuit noire!

                Traduction de TRỊNH PHÚC NGUYÊN
Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

trinhphucnguyen24

7,8 NBNTSG

7-Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly

8-Những chiếc khăn mầu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt
Buồn ở đâu hơn ở chốn này?


En francais:

7-Une fois,j’ai vu au départ un passager,
“Ou va-t’il?A qui il pense?”,je ne l’ai su;
Ses pas nonchalands suivaient son ombre esseulée,
Il fit tout seul son acte de séparation.

8-Des mouchoirs colorés flottaient tristement,
Des mains agitées s’appelaient vivement,
Des yeux larmoyants se cherchaient chaleureusement,
Trouverait-on ailleurs un site plus touchant?

                        Traduction de TRỊNH PHÚC NGUYÊN
Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 98 trang (973 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [87] [88] [89] [90] [91] [92] [93] ... ›Trang sau »Trang cuối