Trang trong tổng số 6 trang (58 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Vanachi

Vài nét về thơ Đường
Tác giả: Ngô Văn Phú



Thơ Đường là một hiện tượng thi ca đặc biệt được cả nền và đỉnh. Kéo dài suốt từ thời Đường, từ khi Đường Cao tổ Lý Uyên dựng triều đại, cho đến khi nhà Đường mất, ròng rã ba trăm năm(618-907 sau công nguyên). Số lượng có tới hàng vạn bài thơ của khoảng hai ngìn ba trăm nhà thơ…Cái nền vĩ đại ấy, lại có những thi hào nổi danh trở thành những danh nhân thế giới như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị … Một phong trào thơ, mở đầu và phát triển, luôn luôn có những tên tuổi mới, vượt trội lên. Phong cách của những nhà thơ nổi tiếng của đời Đường rất đa dạng: Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy, Trần Tử Ngang, Cao Thích, Lý Thương Ẩn, Trương Tịch, Đỗ Mục, Lưu Vũ Tích, Đỗ Tuân Hạc, Tào Đường…. Thơ của họ, đã rất khác nhau, nói chi đến Lý Bạch và Đổ Phủ. Đề tài thể hiện từ những sinh hoạt sa hoa quý tộc, đến cảnh nghèo túng nhất của dân chúng, cảnh đời, cảnh tiên, cảnh thiền, núi non, song nước, trận mạc, biên tái, hoa cỏ, rất phong phú; ở tài thơ này với tài thơ khác, một đề tài lại có vẻ chung, những phong vị riêng. Vua chúa như Đường Thái Tôn, Đường Cao Tôn, Võ Tắc Thiên, Đường Minh Hoàng, Hiến Tông, Mục Tông, Tuyên Tông, nữ thi sĩ như Đỗ Thu Nương, Trần Ngọc Lan, Dương Quý Phi… hoặc nhưng dân chúng bình thường ở thành thị hoặc thôn dã đều làm thơ, yêu thơ. Sinh hoạt ngâm thơ, thưởng thơ ở các nhà giàu đã đành, mà trong quân, những tiệc lớn của nhà vua hay tết nhất lễ hội của dân chúng, thơ cũng là một thứ được nhiều người mến mộ.

Nhiều bài thơ hay đã được lưu truyền hàng ngàn năm nay, không những ở trong nước mà đã vượt ra ngoài nước. Thơ đã là một quy định trong thi cử… Thơ Đường có ảnh hưởng lớn trong nền văn hóa Trung Hoa.

Thành tựu thơ ca đời Đường nhờ một thời kỳ phát triển của đời sống kinh tế, xã hội phong kiến ở Trung Quốc…Chính sách khoa cử, tôn giáo, những chủ trương lớn về văn hóa của triều đại Đường khiến triết học cũng rất phát triển. Thời nhà Đường đã quy định ngoài Tứ thư Ngũ kinh, Đạo Đức Kinh và Trang Tử là sách các sĩ tử phải học, do đó Đạo giáo và tư tưởng Lão Trang được quảng bá. Những tư tưởng triết học được hấp thụ từ những tư tưởng tiến bộ đưa vào, đã góp phần nâng cao kiến thức cho sĩ tử đương thời, nhất là các thi sĩ, cũng vốn là những người nhậy cảm và ham tìm hiểu cái mới. Một trong những chủ tướng của thi đàn lúc đó như Lý Bạch, người có một cá tính mạnh, quyết liệt, cuối cùng, chịu ảnh hưởng của Đạo Giáo khiến thơ ông giàu tính lãng mạn. Cơ sở tư tưởng của thơ sơn thủy, điền viên gần gũi với thiên nhiên của Vương Duy, là do chịu ảnh hưởng của Đạo Phật và đạo Lão. Còn phái Tân Nhạc Phủ Nguyên Vi Chi Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên và Bạch Cư Dị, thì cùng một trường phái. Thơ của các ông đậm sâu tư tưởng Nho giáo trong cảm xúc, lấy nhân nghĩa, lấy sự quan tâm đến đời sống xã hội làm chủ đạo…

Không riêng gì thơ ca mà các ngành khác như họa, múa nhạc đều phát triển. Do đó, ngành này đem những vẻ đẹp cho ngành khác. Thơ Đường rất trọng âm nhạc, hình ảnh, khắc họa. Sự trau chuốt khổ công đi đôi với những cảm hứng tự nhiên, không phải tự dưng hái được, mà do những kiến thức thu hái từ nhiều nguồn của các nhà thơ đời Đường. Vương Duy không những là một nhà thơ, còn là một họa sĩ, một nhà thư pháp. Do đó trong thơ ông , thơ và họa kết hợp rất điêu luyện. Sau này, thi hào Tô Đông Pha đời Tống đã phải thốt lên rằng: “mỗi bài thơ của ông (Vương Duy) là một bức họa, và trong mỗi bức học của ông la.i có một bài thơ”. Vương Xương Linh, Vương Chi Hoán, Cao Thích nghe hát ở Kỳ Đình, thẩm âm sành điệu chẳng khác gì nhạc công, nhạc sĩ…

Thơ Đường sâu sắc về nội dung, nhiều phẩm chất đệp về hình thức; hiện thực và lãng mạn đều đạt tới những đỉnh cao…

Thơ Đường được chia ra hai loại: cổ thể và tân thể (luật). Trong cổ thể lại có bài năm lời(ngũ ngôn) và bảy lời (thất ngôn).

Trong thơ luật lại có loại tuyệt cú (bốn câu) và bát cú (tám câu), mỗi phần trong bài bát cú đều có quy tắc cụ thể để thành một quy định về cấu trúc (phá, thừa, thực, luận, kết). Ngoài ra, còn có luật bằng trắc, bắt buộc để tạo thành âm điệu và vần, làm phong phú cho bài thơ.

Thơ Đường có mấy thời kỳ:
Sơ Đường
Thịnh Đường
Trung Đường
Vãn Đường

(Tài liệu trích từ cuốn "Thơ Đường Ở Việt Nam" của Ngô Văn Phú)

Nguồn: http://thivien.maihoatran...php?p=thamkhao&tkid=1
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Xuân tình trong Đường thi
Tác giả: Trần Doãn Nho



Trường hu giải la đái
Khiếp kiến thượng không sàng
(Hàn Ốc)

Nhà Đường vốn là đỉnh cao trong thi ca Trung Quốc. Phong cách rất đa dạng, trường phái thì nhiều, nội dung đề tài rất rộng răi so với bất cứ thời kỳ nào trước đó. Thi nhân mặc tình chọn lựa phong cách, trường phái, đề tài để sáng tác. Đề tài đủ loại: Ứng Chế, Tống Biệt, Cung Oán, Biên Tái, Điền Viên, Sơn Thuỷ, Hành Lữ, Kư Tặng, Hoài Cổ, Vịnh vật. Thậm chí, ta còn thấy nhiều bài có khuynh hướng hiện thực xă hội, mô tả cuộc sống khổ cực của nhân dân cũng như châm biếm cảnh quan trường hắc ám, phè phỡn. Số thơ hiện còn lưu giữ rất nhiều: 48.000 bài của hơn 2.300 thi sĩ (1).

Điều đáng nói là với một số lượng thơ và thi nhân như thế, mà thơ Đường lại hầu như rất nghèo nàn về thể loại thơ mô tả cụ thể mối quan hệ trai gái, mô tả cái thú vị trong cuộc sống lứa đôi. Hay nói như kiểu chúng ta hôm nay, Đường Thi rất nghèo nàn về thơ tình. Hẳn nhiên, cũng có một số thơ khai thác đề tài tình ái như Cung oán, Biên muộn, Khuê từ…Cũng có thể gọi là thơ tình đấy, nhưng ngôn ngữ lại dè dặt, kín đáo, hình ảnh sơ sài và thường đi chệch qua những đề tài khác. Trong số lượng thơ dồi dào của một số thi hào, thi bá thời đó như Lư Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, ta hầu như khó có thể tìm thấy một bài thơ tình đúng nghĩa. Ngay cả một đầu đề mang dáng vẻ thơ tình cũng ít oi, huống hồ gì mô tả một cách cụ thể , trắng trợn hơn quan hệ lứa đôi. Một vài bài của Trương Bí, Triệu Hổ có đề cập đến tình ái thì cũng một cách chung chung, đơn sơ, trừu tượng, phác vài nét sơ sơ về nỗi nhớ nhung, mến mộ - thường thì có tính cách tượng trưng hơn là đi sâu vào tình cảm thực sự. Thêm vào đó, cìn có một số bài gọi là "tặng nội" (tặng vợ) thì lại chỉ nói lên cái nghĩa phu thê, ca ngợi công lao "thờ chồng nuôi con" của người vợ, hơn là tình vợ chồng .

Ta thử đọc một bài thơ có tựa đề rất là "thơ tình" sau đây: "Oán tình" của Lý Bạch:

Mỹ nhân quyển châu liêm
Thâm tọa tần nga mi
Đản kiến lệ ngân thấp
Bất tri tâm hận thùy

Tản Đà dịch:

Người xinh cuốn bức rèm châu
Ngồi im thăm thẳm nhăn chau đôi mày
Chỉ hay giọt lệ vơi đầy
Đố ai biết được lòng này giận ai.

Kể ra thì trong cái không khí thi ca đầy cả phong, hoa tuyết nguyệt rồi những hoàng hạc lâu, thuyết khách, phong kiều dạ bạc…, thì làm một bài thơ thuần tả tình như thế cũng đă là can đảm. Bài thơ nói lên nỗi giận hờn của một người con gái đối với tình nhân. Và chỉ thế thôi. Hình ảnh duy nhất, đầy tính cách tượng trưng là giọt lệ. Ngoài ra, không có gì khác.

Một bài khác của Vương Xương Linh có tựa đề Khuê Oán:

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu

Tản Đà dịch:

Trẻ trung nàng biết đâu sầu
Buồng xuân trang điểm lên lầu ngắm gương
Nhác trông vẻ liễu bên đường
"Phong hầu" nghĩ dại xui chàng kiếm chi

Tuởng là nàng nhớ chàng, hóa ra nàng giận mình. Rốt cuộc, bài thơ chỉ nói đến sự tiếc rẻ thời xuân sắc của con người trước thớ gian qua mau.

Cũng nàng nhớ chàng, nhưng Lý Bạch đi xa hơn, tình hơn, cụ thể hơn:

Đương quân hoài quy nhật
Thị thiếp đoạn trường thì
Xuân phong bất tương thức
Hà sự nhập là vi

Tản Đà dịch:

…Ḷòg em đau đớn muôn phần
Phải chăng là lúc phu quân nhớ nhà
Gió xuân quen biết chi mà
Cớ chi lọt bức màn là tới ai?

Chàng và nàng trong hai bài thơ trên đây là hai vợ chồng; còn chàng và nàng là trai gái, ta thấy trong "Thái Liên Khúc" (khúc hát hái sen), cũng của Lý Bạch, đề cập đến một cô gái hái sen và một chàng trai qua đường. Hai câu cuối như sau:

Tử lưu tê nhập lạc hoa khứ
Kiến thử trù tŕ không đoạn trựng

(ngựa kêu lần bước hoa rơi
Đoái trông ai đó, ngậm ngùi tiếc thương)

Thế cũng đă tình lắm, đă "thoát" lắm rồi!

Sao mà sợ thơ tình lắm thế!?

Cũng dễ hiểu thôi. Thi nhân, dù có mộng mơ, có khinh thế ngạo vật, thì cũng là nho gia. Mà đối với nho gia thì tình ái không nên đưa vào văn chương, chữ nghĩa. Đó là vùng đất cấm. Nếu có ai làm một bài thơ tình, thì người ta xem đó là một thứ ti tiện, không thèm lưu ư đến. Một vị minh chủ trên thi đàn đời nhà Thanh nhận xét: "Bậc vương giả bàn đến phong tục dân gian, nghiên cứu chuyện được mất, chứ chẳng nên nói đến tình ái". Tư tưởng này ảnh hưởng mạnh mẽ đến thi nhân của Sơ Đường, Thịnh Đường, Trung Đường. Đến thời Văn Đường, ảnh hưởng này giảm bớt. Những thi nhân nỗi tiếng của giai đoạn này đều có làm thơ tình như Lý Thương Ẩn, Ôn Đình Quân, Vi Trang. "Tình yêu quán triệt trong tất cả các bài thơ vô đề và một số bài thơ khác của Lý Thương Ẩn. Ông chủ yếu là một nhà thơ trữ tình" (2). Trong thơ của họ, ta đă thấy khuynh hướng thiên về tình yêu nam nữ, hoa cỏ khuê pḥng, nhưng thi phong đa phần theo lối "tiểu nhă", nội dung chủ yếu cũng dựa theo thi giáo của nho gia, nghĩa là dè dặt, kín đáo, tượng trưng.

Đặc biệt, chỉ có một thi nhân vượt hẳn khỏi vòng kiềm tỏa của khuôn sáo cũ, mở một đi cho riêng mình, với một cách làm thơ mới lạ, táo bạo. Đó là Hàn Ốc (hay Hàn Ác) (3). Ông sống cùng thời với các thi nhân trứ danh thời Văn Đường như Lư Thương Ẩn, Ôn Đình Quân…Trừ những nhà nghiên cứu ra, những người hâm mộ thơ Đường chẳng mấy ai biết đến ông. Trong tập "Đường Thi Tam Bách Thủ" (300 bài thơ Đường nỗi tiếng), ông được xếp vào những khuôn mặt lớn của thời Văn Đường. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến ông như một thi nhân của tình yêu, hay nói đúng hơn, một thi nhân của tình dục.

Hàn Ốc sinh vào khoảng năm 844 và mất vào khoảng năm 933. Ông tự là Trí Nghiêu, hoặc Trí Quang, tiểu tự Đông Lang, người quê ở Kinh Triệu, Vạn Niên nay thuộc ngoại ô thị trấn Tây An, tỉnh Thiểm Tây. Lúc mới lên mười, có lần giữa chỗ khách khứa đông đúc, ông làm ngay một bài thơ tiễn khách, khiến mọi người có mặt đều kinh hăi. Do đó mà về sau, Lư Thương Ẩn tặng ông một bài thơ, trong đó có hai câu:

Thập tuế tài thi tẩu mă thành
Sồ phụng thanh ư lăo phụng thanh

(Mười tuổi làm thơ nhanh hơn ngựa
Chim phụng non rành rơi hơn chim phụng già)

Ông viết Hàn Lâm Tập (một cuốn) và Hương Liễm Tập (ba cuốn). Về sau Toàn Đường Thi hợp hai tập thành bốn cuốn. Do ở chỗ trong Hương Liễm Tập của ông, đa phần mô tả chuyện trai gái nhớ nhung, tương tư, thậm chí mô tả chuyện ái ân, lại thêm cảnh phấn son lụa là trong chốn pḥng the, nên đời sau gọi thi tập của ông là Hương Liễm Thể hay Diễm Thể.

Trước hết, đối tượng làm thơ của ông là người phụ nữ. Thi ca Trung Quốc từ Hàn Ốc trở về trước chẳng bao giờ tả chính diện người phụ nữ. Trong "Mạch thượng tang", Tần La Phu chỉ tả phần bên và cũng là hư tả, không cho ta cảm nhận được hết vẻ đẹp mỹ miều , sống động của người đẹp. Bài "Thạc nhân" trong thiên Vệ Phong của Kinh Thi tập trung mô tả diện mạo và da dẻ bên ngoài, có đi xa hơn: tả đôi tay và cổ. Hàn Ốc mô tả cụ thể hơn:

Uyển bạch bì hồng ngọc manh nha
Điệu cầm trừu tuyến lộ tiêm tà
Bối nhân tế nhiên thuỳ yên tấn
Hương kính khinh quân sấn kiểm hà.

Tạm dịch:

Tay trắng, da hồng như búp măng
Sửa đàn, gảy dây để lộ ngón tay thon nhọn
Quay người lấy tay xoắn tóc rủ xuống cổ
Trước kính, trang điểm mặt diễm kiều

Ông đă nhìn từ nhiều phía khác nhau để tả phần da thịt nơn nà, mềm mại.

Tả cái cổ, ông viết:

Tấn thừa hương cảnh vân già ngẫu

(Tóc buông xuống cổ tụ lại như mây che cái ngó sen)

Tả bộ ngực, ông viết:

Phấn trứ lan hung tuyết áp mai

(phấn thoa lên ngực như tuyết áp trên hoa mai)

Trong bài "Vịnh dục" (vịnh cảnh tắm), ông mô tả cụ thể khung ảnh và tâm lý của người phụ nữ trong cung cấm:

Tái chỉnh ngư tê long thúy tâm
Giải y tiên giác băng dâm dâm
Giáo di lan chúc tần tu ảnh
Tự thí hương thang cánh phạ thâm
Sơ tựa tẩy hoa nan ức án
Chung ưu ốc tuyết bất thắng nhân
Khởi tri thị nữ liêm huy ngoại
Thừa thủ quân vương kỷ bính kim

Tạm dịch:

Sửa soạn bới tóc lại cho đàng hoàng
Mới cởi áo cảm thấy hơi lạnh
Dặn bưng đèn đi vì thẹn
Tự thử xem nước tắm vừa chưa
Lúc đầu kỳ cọ nhẹ nhàng
Sau tắm gội thỏa thích
Chẳng biết người hầu đứng ngoài kia
Có chịu khó nài nĩ vua vào ngủ không.

Có thuyết cho rằng ông tả cảnh Dương Quý Phi đang tắm. Điều đáng lưu ý là, thông qua việc miêu tả thân thể, và vác sinh hoạt thường ngày, ông nêu bật được những nét tâm lư đặc thù của người phụ nữ trong một hoàn cảnh đặc thù. Xem thêm bài "Trú Tẩm" (ngủ ngày) sau đây:

Phác phấn canh thiêm hương thể hoạt
Giải y duy kiến hạ thường hồng
Phiền khâm sạ xúc băng hồ lănh
Quyện chẫm từ y bảo kế tông

(Đánh phấn thêm cho thân thể thơm mát
Cởi áo mới thấy quần màu hồng ở dưới
Chạm phải chiếc mền, thấy lạnh như băng
Mệt mỏi tựa búi tóc vào gối)

Ta dễ dàng nhận thấy nhân tố tạo thành hành vi , thái độ của người đàn bà ở đây là do t́nh cảnh cô đơn, buồn bă trong chốn cung cấm. Và rõ ràng hơn nữa là do tình cảnh đau khổ và ức chế về tình dục. Hàn Ốc chẳng đề cập đến nỗi buồn, đến giọt lệ. Ông chỉ mô tả cử chỉ, thái độ. Torng phòng riêng, người đàn bà tắm rửa, trang điểm và… đợi chờ. Nhưng chờ hoài, chờ măi…chẳng thấy ai. Chỉ có lạnh và cô đơn .

Nhiều bài thơ của Hàn Ốc phản ảnh tình ảnh nhớ nhung, sầu năo, sự vắng lặng, khổ đau và nhất là sự ức chế tình ảm (cũng như tình dục) triền miên của người đàn bà. Các bài như Ngũ canh (năm canh), Khuê tình, Áp hoa lạc(ép hoa rụng), Trù trướng (buồn bă), Kế tông (bới tóc), Ư tự (mối sầu) đều tả hoạt động tâm lý của phụ nữ. Tuy Lư Bạch, Vương Xương Linh, Lưu Phương Bình, Trương Trọng Tố, Trần Đào đều có một ít bài về khuê tình, khuê tư, khuê oán đề cập đến tâm trạng đau khổ, phiền muộn, nhưng về tính cụ thể, táo bạo thì không bằng Hán Ốc. Như bài Xuân khuê:

Nhân uân trướng lư hương
Bạc bạc thụy thời trang
Trường hu giải la đái
Khiếp kiến thượng không sàng

(Trong màn hương thoảng thoảng dễ chịu
Ăn mặc sơ sài để ngủ
Cởi thắt lưng quần, than dài một tiếng
Vì thấy cái giường không mà kinh hăi)

Một câu như "Trường hu giải là đái" thì thi ca khuê tình thời Sơ Đường, Thịnh Đường, Trung Đường chẳng hề thấy có. Chỉ đến Văn Đường, đặc biệt là ở Hàn Ốc, ta mới thấy. Phải nói, đó là một sự phát huy thi ca khuê tình đời Đường đến một mức độ táo bạo không ngờ. Người trước chỉ "hư tả", người sau "thực tả". Người trước "súc thủ" (co tay), người sau "phóng thủ"(phóng tay). Phải thừa nhận thi ca trước Hàn Ốc cũng có đề cập đến sự ức chế, sầu khổ, nhưng phản ảnh tính manh động, khao khát thì hầu như không có. Ở Hàn Ốc, những bài thơ như thế rất nhiều:

Bách Thiệt năo triêu miên
Xuân tâm động cơ bàn

(chim Bách thiệt phá giấc ngủ sáng
Khiến động lòng xuân)

Kiều nhiên ý thái bất thắng tu
Nguyện kư lang biên vĩnh tương trứ

(Ý nũng nịu vô cùng xấu hổ
Muốn kề vai chàng măi măi không thôi)

Đến đây, tính cách của Hàn Ốc trong Hương Liễm Thể hiện ra rất rõ: tình trai gái ở đây chứa đầy chất tính dục. Nó không chỉ là nhớ nhung, mơ mộng, sầu thương…vơ vẩn mà chứa đựng một đòi hỏi, khát khao mănh liệt hướng về người khác phái. Có phải đây là những phụ nữ bệnh hoạn không? Có thể. Lý do thật dễ hiểu: do những quy định quá khắc nghiệt của lễ giáo Nho gia, số phận của người phụ nữ dưới thời phong kiến rất đỗi tội nhgiệp. Họ không được quyền yêu và bị cư xử như những người nô lệ cho vua chúa, và những người giàu sang quyền quý. Nói rộng hơn, họ được đàn ông xử dụng như những dụng cụ. Thê rồi thiếp. Thiếp một, thiếp hai, thiếp ba…Đàn ông có quyền thay thê đổi thiếp, sang nhượng đàn bà như những vật đổi chác, mua bán. Đă thế, nhu cầu sinh lý bình thường cũng không có điều kiện thỏa măn. Họ bị giam cầm trong chờ đợi và chờ đợi, không được than van, đòi hỏi. Tình trạng sinh lý và tâm lý bị ức chế đến mức tột cùng. Bài "Ngẫu kiến bối diện, thị tịch kiêm mộng" (vô tình thấy phía sau mà đêm về mộng tưởng) là một bài tiêu biểu về trạng thái bị ức chế đó:

Tô ngưng bối giáp ngọc tha kiên
Khinh bạc hồng tiêu phúc bạch liên
Thử dạ phân minh lại nhập mộng
Dương th trù trướng bất thành miên
Nhăn ba hướng ngă vô đoan diễm
Tâm hoả nhân quân đặc địa nhiên
Mạc đạo nhập sinh nan tế hội
Tần lâu loan phụng hữu thần tiên

(Lưng mịn màn trắng trẻo, vai tựa ngọc
Lụa hồng mỏng mảnh che thân trắng như sen
Đêm nay rõ ràng người đẹp nhập mộng
Còn bây giờ buồn bă không ngủ được
Sóng mắt nhìn đẹp vô cùng
Khiến cho lòng ai phải thèm khát
Chẳng biết có cách gì gần gũi
Để được ân ái cùng nhau)

"Nhăn ba hướng ngă vô đoan diễm". Sóng mắt của người đàn bà (hẳn là phải quá cô đơn trong phòng the) gặp người đàn ông là liếc mắt đưa tình, đôi mắt rực sáng những khát khao khiến dục vọng trong lòng nỗi lên như thiêu như đốt, khiến đêm về mơ mộng không ngủ được.

Do ảnh hưởng của quan niệm về thi giáo phong kiến chính thống, cho nên chỉ trừ một số dân ca dùng thứ ngôn ngữ bình dân để diễn tả sự khoan khoái, sung sướng trong quan hệ tình ái nam nữ, còn thì chẳng ai dám cầm bút làm thơ về chuyện ái ân. Hàn Ốc, bất chấp thi giáo, dám trái lễ nghĩa phong kiến, làm thơ mô tả một cách trần trụi quan hệ nam nữ như bài "Ngũ canh" sau đây:

Văng niên tằng ước Úc Kim sàng
Bán dạ tiềm thân nhập động phòng
Hoài lư bất tri kim điền lạc
Ám trung duy giác tú hài hương
Thử thời dục biệt hồn câu đoạn
Tự hậu, tương phùng nhăn cánh cuồng
Quang cảnh toàn tiêu trù trướng tại
Nhân sinh doanh đắc thị thê lương

(Năm xưa từng hẹn trên giường Úc Kim
Nửa đêm lén đến động phòng
Trong lúc ôm nhau chẳng biết trâm rơi đâu mất
Ở trong bóng tối chỉ cảm thấy mùi đôi hài thêu
Lúc đó, muốn rời nhau nhưng hồn ră rời
Từ đấy hễ gặp nhau là nhìn nhau điên cuồng
Cảnh ấy giờ đấy chẳng còn nữa
Chỉ còn nỗi buồn suốt đời)

Một bài thơ Đường như thế, được viết cách đây cả trên nghìn năm, thì quả là hết nói nỗi! Hình ảnh mà bài thơ mô tả vừa cụ thể, táo bạo nhưng không kém phần thi vị. Bạn có thâm cảm được hết cái ý vị của cái cảnh "bất tri kim điền lạc" và "duy giác tú hài hương" không ? Ái ân vụng trộm vừa có cái gì khôi hài lại vừa tội nghiệp. Phải sống qua mới có thể có những hình ảnh sống động như thế. Nó vừa thực vừa thơ.

Viết đến đây, tôi chợt có ý nghĩ chép thử ra đây một đoạn thơ thuộc loại mới nhất, hiện đại nhất mà tôi tình cờ đọc được của một nữ thi sĩ Việt Nam:

Năm mười bảy tuổi
Trong đêm đen
Lần đầu tiên
Khám phá ra thân thể kỳ lạ của người đàn ông
Sau nụ cười; giọt nước mắt dâng hiến
Là khoảng cách
Hun hút dài
Thăm thẳm dài
Chập chùng dài

Ơi! Em lạc mất em (4)

Tôi không định so sánh hai bài thơ, vì không cần thiết. Đây chỉ là một sự liên tưởng ngộ nghĩnh (tôi nghĩ thế). Đằng nào cũng là thơ. Đằng nào cũng là con người.

Trở lại với Hàn Ốc.
Hương Liễm Thể của ông - như chúng ta vừa đọc qua một số bài tiêu biểu - với những lời thơ đầy màu sắc, hình ảnh dồi dào, đầy chất "Đường thi', nhưng vì đa phần mô tả đồ trang sức của phụ nữ, có khi tả đến những đồ vật bẩn thỉu khác nữa, nội dung thì toàn chuyện tình ái nam nữ, nên văn nhân đời sau thường khinh thị, dè bỉu, phần nhiều cho là dâm từ. Phương Hồi nhà Nguyên lên án là "bày cho người ta làm điều dâm loạn" (hối dâm chi ngôn). Trầm Đức Tiềm nhà Thanh nghiêm khắc phê bình Hương Liễm Thể chỉ khiến cho con người bỏ đi những tập quán tốt đẹp (khứ nhân phong viễn).

Nhưng những nhà nghiên cứu Đường thi hiện đại đánh giá Hàn Ốc từ một nhăn quan khác. Tôn Cầm An nêu lên mấy nhận xét như sau:

- Thi ca đời Đường , tuy có vượt qua được ngôn ngữ cung đình, nhưng diễn tả tình ái nam nữ thì quá hiếm hoi. Nếu không có Hương Liễm Thể bổ khuyết vào thì quả là một điều vô cùng thiếu sót.

- Quan hệ tình ái nam nữ là chuyện thông thường, một nhu cầu phổ biến trong sinh hoạt con người,nên được diễn tả rất nhiều trong dân ca. Còn thi nhân thì chẳng ai dám viết. Chỉ có Hàn Ốc cam đảm chọn lựa đề tài này, quả là điều đáng trân trọng.

- Quan niệm thi giáo phong kiến do Khổng Tử đề xuất được văn nhân thi sĩ mọi thời xem như một tín điều, một tiêu chuẩn để định giá một bài thơ. Hợp thì cho là cao, không hợp thì cho là thấp. Chuyện quan hệ nam nữ hoàn toàn bị cấm chỉ. Ngay cả những đại thi nhân như Lư Bạch , Đỗ Phủ cũng chẳng dám sai phạm. Do đó mà các sáng tác của Hàn Ác mang tính cách đả phá sự trói buộc, câu thúc tinh thần thi nhân và chứa đựng khuynh hướng chống phong kiến.

- Từ Văn Đường, Ngũ Đại trở về sau, từ ngữ thường thiên về tả tình ái nam nữ, hoa cỏ khuê phòng. Để diễn tả cho được hết các hình ảnh, ý tứ trong sinh hoạt tình yêu, tình dục, họ không có cách nào khác hơn là phải sáng tạo thêm từ, thêm ý - và do đó, góp phần đẩy mạnh sự phát triển về từ. Thơ của Lý Thương Ẩn, Ôn Đình Quân, Vi Trang cố nhiên đóng một vai trò rất lớn trong việc phát triển đó. Còn Hàn Ốc, với Hương Liễm Thể - do đi sâu vào chi tiết, táo bạo trong cách diễn đạt - về thân phận so với Ôn Lý là nhỏ, nhưng sự đóng góp có phần trực tiếp hơn.

Hàn Ốc rõ ràng là một khuôn mặt độc đáo của Đường Thi. Sở dĩ ông không được đề cập nhiều chỉ vì ông đi ngược lại hẳn và vượt qua không những chỉ thời đại mình mà còn cả những thời đại về sau. Trên văn đàn chính thống, người ta không đề cập đến, có lẽ vì sợ mất tác phong đứng đắn của nhà nho, nhưng thực tế Hương Liễm Thể cũng được cẩn trọng lưu giữ và âm thầm truyền tụng. Điều đó cho thấy thơ Hàn Ốc đâu có thiếu chất Đường thi. Cái tài hoa ở chỗ ông đă vận dụng từ ngữ một cách tài tình để đột phá vào một lănh vực được xem như là khó đưa vào văn chương, nhất là thi ca. Phải vừa nói được hết ý, lại phải vừa không tầm thường, dung tục. Ta cứ tưởng tượng sự ức chế vừa về tình yêu vừa về tình dục của người phụ nữ trong cung cấm được Hàn Ốc diễn tả bằng hình ảnh của một tiếng kêu, một cử chỉ và một cái nhìn:

Trường hu giải la đái
Khiếp kiến thượng không sàng

Hết chỗ chê! Tất nhiên, theo tôi nghĩ.

* Ghi chú của người viết: Tài liệu về Hàn Ốc được lấy từ bài viết của Tôn Cầm An, đăng ở "Minh Báo Nguyệt San" Hồng Kông, bản Hán văn, số tháng 8-1991. Phần dịch nghĩa tiếng Việt các bài thơ chữ Hán có sự giúp đỡ của anh Vĩnh Cao (con cụ Bửu Kế) và anh Nguyễn Phố , hiện ở Huế ,Việt Nam.

(1) Nam Trân,Thơ Đường, Văn Học số 90, tháng 10-1993
(2) Nam Trân, sđd, tr. 12
(3) Hàn Ốc hay Hàn Ác. Để tránh chữ "ác", nghe không thuận tai trong tiếng Việt, ta nói trại ra "ốc"
(4) Lê Thị Thấm Vân, Bài học vỡ lòng, Hợp Lưu 13 tháng 10-1993, tr. 154

Nguồn: http://thivien.maihoatran...hp?p=thamkhao&tkid=18
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Đặc trưng mỹ học của thơ Đường
Tác giả: Lương Duy Thứ



Đặc trưng mỹ học của thơ Đường trước hết biểu hiện ở tính hàm súc, ít lời nhiều ý, ý ở ngoài lời. Kết cấu thơ Đường luật hết sức chặt chẽ, mỗi bài thơ giống như một bài toán giải đáp một vấn đề xã hội bằng hình tượng nghệ thuật. Thơ Đường luật đúc kết những kinh nghiệm quá khứ nâng lên thành luật bằng trắc đối xứng. Đối xứng chính là mâu thuẫn thống nhất trong âm thanh, đối xứng càng cao, hài hòa càng lớn.

Do đó câu số chữ của một bài thơ được hạn định, nên các nhà thơ phải tìm tòi những tinh hoa của dân gian, kết hợp với điển cố lịch sử và từ hoa lệ của văn học thành văn. Sự quy định niêm luật cho một thể thơ có thể hạn chế sự biểu đạt những tình cảm bay bổng, phóng khoáng, nhưng nó buộc phải sáng tạo ngôn ngữ hàm súc, cấu tứ chặt chẽ. Thơ Đường có phong độ một tâm hồn Á Đông, gắn tâm tư tình cảm con người với thiên nhiên đất nước. Tình cảm biểu hiện trong thơ Đường thực muôn màu muôn vẻ, có khi bồng bột, bay bổng, có khi thâm trẩm, uẩn khúc quanh co. Có thể nói, nó như những dòng thác đổ dồn về một con sông lớn cuồn cuộn.

Những nhà thơ Đường sử dụng đề tài hết sức rộng rãi, đề tài xã hội, thiên nhiên, lịch sử và cá nhân, đề tài về chiến tranh, đề tài về cuộc sống của những con người trong xã hội. Ngòi bút thi nhân đã lên sâu vào tất cả mọi nơi, xung phá và chốn cung đình u ám cũng như vào giữa quần chúng nhân dân.

Một bài thơ năm chữ tuyệt cú vẻn vẹn chỉ có hai mươi chữ, nhưng càng ít chữ, càng phải cân nhắc cho nên từ ngữ ở thơ Đường luật phần lớn được sử dụng rất đắt. Tuy hàm súc như vậy nhưng thơ Đường luật không phải là những lời thuyết lý khô khan. Người ta lấy làm kinh ngạc là một bài thơ chỉ ngắn gọn 20 chữ mà lại là một bức tranh có cả sương, trăng, cử chỉ ngẩng lên cúi xuống vì nhớ quê:

TĨNH DẠ TỨ

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sơn.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu ức cố nhân.
(Lý Bạch)

CẢM NGHĨ TRONG ĐÊM THANH TĨNH
Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
TƯƠNG NHƯ dịch

Lê Đức Niệm (Trích Thơ Đường)

Âm Vang Thơ Đường

Đọc một bài thơ Đường, nhất là loại tứ tuyệt bốn câu 5 hoặc 7 chữ, có khi người ta phải lắng nghe cái âm vang của nó, tưởng tượng ra những đường nét và màu sắc của nó, để có thể cảm nhận hình tượng chung của bài thơ như kiểu nghe một bản xô-nát chứ không phải dựa vào những chi tiết ngôn ngữ cụ thể của bài thơ. Mặt khác, do truyền thống gắn bó giữa thi, nhạc và học, một bài thơ hay bao giờ cũng gợi lên những âm thanh và đường nét, chính cái đó đã tạo nên âm vang sâu xa của thơ Đường.

Phải chăng có thể hiểu âm vang thơ Đường từ mấy đặc điểm sau đây:

Trong cách cảm nhận, thơ Đuờng chú ý khám phá sự thống nhất, sự giao cảm mà trước hết là sự thống nhất giữa con người và thiên nhiên.

Trong cách cấu tứ, cái "tôi" trữ tình thường hòa lẫn vào thiên nhiên và ngoại cảnh .Trong cách biểu hiện, ba yếu tố thi, nhạc, họa thường quấn quyện làm một. Về cấu trúc, bài thơ thường gọn nhẹ, cô đúc, ngôn ngữ gợi nhiều hơn tả, ý tại ngôn ngoại. Thơ Đường đã thăng hoa được cái chân thật mộc mạc của Kinh Thi, cái bay bổng và trang nhã của Sở từ, cái hào sảng của Hán nhạc phủ, được chắp cánh bởi tư duy cởi mở của một thời Phật thịnh mà bước vào thời đại hoàng kim của thơ ca.

Lương Duy Thứ (trích Âm vang thơ Đường)

Nguồn: http://thivien.maihoatran...php?p=thamkhao&tkid=2
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Thi nhân đời Minh
Tác giả: Nguyễn Hiến Lê



(Trích Đại cương Văn học sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê)

a. Minh Sơ. Trong thời này thi sĩ tuy mô phỏng cổ nhân mà còn biết biến hoá như Tống Liên, Phương Hiếu Nhụ, Lưu Cơ, Cao Khải...
Tống Liêm rất siêng học, nổi tiếng nhất về cổ văn, có giọng ung dung hồn nhiên.
Lưu cơ thì lời hào phóng hung hồn.
Còn Phương Hiếu Nhụ có khí tiết, được người đương thời rất trọng. Khi Yên Vương Lệ con thứ ba vua Thái Tổ cướp ngôi của cháu là Huệ Đế, một vị hoà thượng khuyên: "Đến kinh đô, xin đừng giết Phương Hiếu Nhụ; nếu giết thì giống người giữ đạo thánh hiền sẽ tuyệt mất".
Yên Vương cướp ngôi rồi, sai Phương Hiếu Nhụ thảo chiếu lên ngôi, Nhụ không chịu. Yên Vương doạ giết cả 9 họ. Nhụ đáp "Dẫu giết cả 10 họ cũng chẳng sao". Yên Vương dí bút vào tay Nhụ, Nhụ viết 4 chữ lớn: " Yên tặc thoán vị". Sau đó, 9 họ của Nhụ bị chu di.
Thơ của Nhụ có giọng hùng tráng như thơ Tô Đông Pha, song không xuất sắc.
Cao Khải lời trong trẻo, diễm lệ mà tự nhiên, bài Mai hoa:

Mai hoa

Quỳnh chi chỉ hợp tạo Dao đài,
Thuỳ hướng Giang Nam xứ xứ tài?
Tuyết mãn sơn trung cao sĩ ngoạ,
Nguyệt minh lâm hạ mỹ nhân lai.
Hàn y sơ anh tiêu tiêu trúc,
Xuân yểm tàn hương mịch mịch đài.
Tự khứ Hà lang, vô hảo vịnh
Đông phong sầu tịch kỷ hồi khai?

Hoa mai

Cây quỳnh đang ở chỗ tiên đài,
Trồng khắp Giang Nam bởi sức ai?
Cao sĩ nằm coi khi tuyết phủ,
Mỹ nhân đi ngắm lúc trăng soi.
Trúc nương bóng mát hiu hiu thổi,
Rêu phủ hương tàn lớp lớp rơi.
Một vắng chàng Hà đề vịnh kém,
Ngày xuân hoa nở mấy phen rồi?
Bài Sơn trung biệt hữu có giọng cao khiết của phái tự nhiên mà tình, cảnh đủ cả:

Sơn trung biệt hữu

Nhất thượng hương đài khán vị huy
Sa thôn cô thụ vãn y y.
Lão tăng bất xuất thanh sơn tự.
Chỉ hữu chung thanh tống khách quy.

Trong núi biệt bạn

Lên chốn đài hương ngắm cảnh tà,
Xóm làng cây cối bóng la đà.
Sư già không thể lìa sơn tự,
Chỉ gióng hồi chuông để tiễn ta.
Trong bộ Tứ khố toàn thư chỉ yếu có đoạn phê bình ông: " Ông bắt trước Hán, Nguỵ thì như Hán, Nguỵ; bắt chước Lục triều thì như Luc triều; bắt chước Đường thì như Đường; bắt trước Tống thì như Tống; những sở trường của cổ nhân ông đều có đủ".
Đó là sở trường mà cũng là sở đoản của ông vậy.

b. Phái phục cổ. Sau Cao Khải, thi nhân chỉ biết mô phỏng một cách nô lệ mà không biết biến hoá. Những nhà có danh là Ly Đông Dương, Lý Mộng Dương, Hà Cảnh Minh. Họ đều phục cổ mà lại chỉ trích lẫn nhau. Họ chủ trương:
- Lời phải cổ, nhã.
- Ý phải hùng
- Phải dùng nhiều thực từ (tức danh từ, động từ, tính từ)
Họ lấy những câu này của Đỗ Phủ làm tiêu chuẩn, những câu chắc nịch, nghe rất kêu:

Ngũ canh cổ dác thanh bi tráng
Tam giáp tinh hà ảnh động dao

Năm canh còi trống nghe bi tráng,
Ba núi tinh hà bóng động lay.

hay

Vạn lý bi thu thường tác khách
Bách niên đa bệnh độc đăng đài.

Muôn dặm thương con quen ở khách,
Trăm năm nhiều bệnh một lên đài.

Trong phái họ, Vương Thế Trinh và Lý Phàn Long rất có danh vọng một thời. Cả hai đều sống ở đời Gia Tĩnh (1522-1566).

Tính tình của Lý thực quái dị. Ông cất một ngôi lầu gọi là Bạch Vân, có 3 tầng. Tầng cao nhất là chỗ ông nhâm vịnh, tầng giữa để người ái thiếp ở, tầng dưới để tiếp khách. Lầu xây ở giữa mặt hồ. Hễ khách lạ tới thăm thì ông thử tài khách đã, bắt làm một bài thơ. Nếu là hợp cách - cách nô lệ cổ nhân của ông - thì ông chèo thuyền ra đón; bằng không thì ông nói thẳng vào mặt "về đọc sách nữa đi, đừng bắt ta ra uổng công tiếp đón".
Ông sốt ngày đêm đọc cổ thư, trên tường chỗ nào cũng dán đầy kiệt tác của cổ nhân. Lúc nào ông cao hứng muốn làm thơ thì ông triệt thang, không cho ai lên. Khô thân với thơ như vậy mà thơ cũng chẳng hay gì.
Vương Thế Trinh là bạn thân của Lý. Từ khi Lý chết. Vương lên thay lãnh chức minh chủ trên thi đàn suốt 20 năm. Thi nhân nào cũng trọng uy danh của ông; từ xưa chưa ai được người đương thời hâm mộ như ông. Nhưng đời sau thì chẳng ai thích thơ ông cả.

c. Phái lãng mạn. Gần cuối đời Minh, phái lãng mạn xuất hiện, do Đường Dần, Chúc Doãn Minh, Dương Thận dẫn đầu.

- Chúc Doãn Minh mê tửu sắc, đổ bác, hễ có tiền là họp bạn nhậu cho hết.
- Dương Thuận còn quá tệ, đồi phế đến như cuồng, thường thoa phấn, tô son, ăn bận thành một ả liễu hoàn cầm giỏ đi hái hoa, cùng với các kỹ nữ nhởn nhơ ngoài phố, say sưa ca hát. Thơ ông rất đẹp song toàn là ngâm hoa vịnh nguyệt, nội dung kém lắm, như khúc hát dưới đây:

Minh nguyệt trung thiên
Chiếu kiến trường giang vạn lý thuyền.
Nguyệt quang thuỷ,
Giang thuỷ vô ba
Sắc dữ thiên liên
Thuỳ dương lưỡng ngạn tĩnh vô yên
Sa cầm kỷ xứ kinh tương hoán
Tí lãm đình khiên
Thừa phong trực thượng Ngân hà bạn.

dịch

Trăng tỏ trời yên
Chiếu thẳng tràng giang vạn dặm thuyền.
Trăng sáng như nước
Nước lặng như tờ
Sóng với trời liền.
Đôi bờ không khói, liêu buông im.
Chim bãi mấy nơi kêu kinh động
Ngừng kéo dây tơ,
Gió đưa lên thẳng bến Ngân đặng.

Nguồn: http://diendan.maihoatran...com/viewtopic.php?t=21840
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Giai thoại văn học Trung Quốc - Dương Úc
Tác giả: Vũ Ngọc Khánh



Đời vua Tống Chân Tông, Dương Úc người Phố Thành đỗ tiến sĩ, làm quan giữ việc chế cáo và chức Tu soạn trong sử quán. Triều Tống sai ông sang sứ nước Liêu.

Đúng vào dịp này, hoàng hậu nước Liêu qua đời, triều đình đang lo việc quốc táng. Hoàng đế nước Liêu muốn thử tài sứ giả nước Tống, bèn mời ông đọc bài văn tế.

Trước văn võ bá quan nước Liêu tề tựu quanh đám tang đầy đủ nghi thức của một đại lễ nghiêm trang, kính cẩn, Dương Úc bước vào trước linh sàng. Viên lễ quan chuyển cho ông cái khay đựng chúc bản (thông thường, văn tế phải được soạn trước và viết sẵn trên tờ giấy dán trên tấm gỗ sơn son, ngoài phủ nhiễu điều, tấm gỗ ấy gọi là chúc bản). Dương Úc quỳ xuống, trịnh trọng giở tấm nhiễu ra để đọc văn. Không ngờ tờ giấy dán trên chúc bản chỉ là một tờ giấy trắng!

Lúng túng một vài giây, Dương Úc hiểu ngay đây là một cách thử tài quái ác. Không đọc văn tế, buổi lễ sẽ không thành, ông sẽ bị tội nặng, và sẽ gây bất hòa giữa hai nước Liêu, Tống. Đọc một bài văn tế có sẵn mà người như ông có thể thuộc lòng, sẽ không hợp cảnh tang của một bà hoàng hậu, và sẽ bị người nước Liêu khinh bỉ. Biết làm thế nào?

Nhưng sự băn khoăn của ông không kéo dài lắm. Thoáng một chút suy nghĩ, Dương Úc bình tĩnh, lên giọng ngân nga:

Duy linh:
Vu sơn nhất đóa vân
Lãng uyển nhất đoàn tuyết
Đào nguyên nhất chi hoa
Thu không nhất phiến nguyệt
Khởi kỳ: vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn nguyệt khuyết!
Phục duy thượng hưởng!

Kính nghĩ anh linh:
Một đám mây núi Vu, một khối tuyết vườn Lãng, một cành hoa nguồn đào, một vầng trăng trời thu.
Ngờ đâu: vây tan, tuyết rã, hoa tàn, trăng khuyết!
Kính xin âm hưởng!

Thật là mẫn tiệp, tài hoa! Dương Úc được cả triều đình nước Liêu vô cùng khâm phục. Khi Dương Úc trở về nước, ông được Tống Chân Tông rất khen ngợi, cho là ông đã giữ được thể diện quốc gia, làm vinh dự cho trí thức nước Tống.
_________________

Mẩu chuyện trên đây, giai thoại nước ta ghép cho Mạc Đĩnh Chi. Câu chuyện tương tự như trên, còn bài văn tế có khác một số chữ:

Thanh thiên nhất đóa vân
Hồng lỗ nhất điểm tuyết
Thượng uyển nhất chi hoa
Dao trì nhất phiến nguyệt
Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!

Lê Quý Đôn, trong sách Kiến văn tiểu lục cũng đã đính chính sai lầm này. Nhưng ông lại ông lại nói dân gian ghép câu chuyện này cho... Nguyễn Đăng Cảo. Chúng ta đều biết Mạc Đĩnh Chi (thế kỷ XIII) sống sau Dương Úc hơn hai trăm năm. Còn Nguyễn Đăng Cảo lại muộn hơn nữa. Nguyễn Đăng Cảo đỗ tiến sĩ năm 1646, sau Dương Úc trên sáu trăm năm.

Nguồn: http://diendan.maihoatran...com/viewtopic.php?t=12731
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Phú
Tác giả: Phương Lan



Đây là thể-tài xuất-hiện tương-đối muộn mà sớm đã thành-công

Lai-lịch - (phú: phô-bày): Phú là một thể văn vần, có cấu-trúc về câu rất phức-tạp (câu, vế, ngắn, dài), lại có lối diễn-đạt giống lối diễn-đạt của văn xuôi. Nói khác đi, phú là một thể văn vần lai văn xuôi.

Nguyên-thể phú đã có từ lâu trong văn-chương Trung-quốc. Đời Đường, thế-kỷ 7, 8, 9, đã có nhiều tác-giả nổi danh, đặc-biệt là Tô Đông-Pha với Tiền Xích-Bích phú và Hậu Xích-Bích phú.

Sử sách có ghi chép Hàn Thuyên là người đầu tiên mượn luật-tắc của thơ phú đời Đường sang làm thơ văn bằng chữ Nôm (xem Tiết 5) hồi hậu bán thế-kỷ XIII. Tiếc rằng các bài thơ văn bằng chữ Nôm đều đã thất-lạc. Người ta nhắc-nhở tới bài "Văn-tế cá-sấu" của ông và sách báo thời mới có sưu-tầm được một số đoạn, nhưng những đoạn này không phải viết theo thể phú vì lẽ một bài văn-tế chính-thống đều được viết theo thể phú Đường-luật. Theo sao-lục đó, bài Văn-tế cá sấu không phải là một bài phú Đường-luật, ta có thể nói: thể phú Đường-luật chưa xuất-hiện vào thế-kỷ XIII.

Truy-cứu di-sản văn-chương chữ Nôm từ khởi-thuỷ đến hết thế-kỷ XVI (xem Tiết 6), cũng không thấy có bài nào là bài phú cả. Tuy-nhiên về thế-kỷ XV, sử-sách có nhắc tới tên một tập phú gọi là Quần Hiền phú-tập (cũng đã thất-lạc) nhưng không nói rõ là tập phú đó được làm ra vào năm nào và chỉ ghi là do Hoàng Sằn-Phu sưu-tập (không rõ năm) và Nguyễn Thiên-Túng đề tựa vào năm 1457 (đời vua Lê Nhân-Tông).

Qua thế-kỷ XVI và XVII cũng không thấy có các tác-giả thành-danh nào để lại tác-phẩm là phú cả. Phải sang thế-kỷ XVIII mới có vài tác-giả làm phú Nôm có để lại tác-phẩm như Nguyễn Lân (1701-1785) với Ngã Ba Hạc phuù, Nguyễn Hữu-Chỉnh (?-1787) với Quách Tử Nghi phú. Vậy ta có thể nói rằng thể phú trong văn-chương của ta đã xuất-hiện muộn-màng vào khoảng hậu-bán thế-kỷ XVIII (thời Lê mạt).


Luật-tắc:

Phép gieo vần: Phú dùng cả vần bằng lẫn vần trắc. Vần đó gieo ở cuối câu. Và có hai cung-cách dựng vần:

Phú độc-vận: Toàn bài chỉ gieo có một vần. Thí-dụ: Tụng Tây-hồ, Chiến Tụng Tây-hồ, Tài-tử Đa-cùng, Thầy Đồ Dạy Học.

Phú liên-vận: Một bài dùng nhiều vần nối-tiếp nhau; thí-dụ bài Bạch-Đằng phú của Trương Hán-Siêu do Nguyễn Hữu-Tiến dịch. Loại liên-vận không được phổ-thông như loại độc-vận. Loại này lại có hai cách: Hạn-vận (vần chỉ-định truớc như trong các khoa-thi) và phóng-vận (vần được tự-do chọn).

Kiến-trúc của câu: Mỗi câu chia làm hai vế đối nhau như trong câu đối. Về số chữ trong câu lại có 5 cách:

* Câu tứ-tự với mỗi vế bốn chữ. Thí-dụ:


Đau quá đòn hằn; rát hơn lửa bỏng.
Hổ bút hổ nghiên; tủi lều tủi chõng.

(Phú Hỏng Thi - Trần Tế-Xương)


* Câu bát-tự với mỗi vế tám chữ. Thí-dụ:


Bấy nhiêu đã lấy chi làm khẳng-khái; còn những đâu mà dám nói nhàn ngu.
(Chiến Tụng Tây-hồ)


* Những câu khác: Những câu 5, 6, 7, 9...chữ lại có ba lối cắt đoạn trong vế câu:

Nếu mỗi vế chỉ có một đoạn duy-nhất thì gọi là câu song-quan (hai cửa dòm nhau); nếu mỗi vế chia làm hai đoạn thì gọi là câu cách-cú; và nếu chia làm ba đoạn trở lên thì gọi là câu gối hạc (gẫy khúc như chân con hạc). Thí-dụ:


Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu;
Khăn lau giặt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.

(Hàn-nho Phong-vị - Nguyễn Công-Trứ)


Cách bố-cục: Tương-tự như một bài thơ Đường-luật:

Lung: mở bài
Biện-nguyên: nguyên-uỷ của đầu bài
Phu-diễn: mở rộng ý của đầu bài
Nghị-luận: bàn thêm
Kết: kết-thúc


Thể phú tương-đối được dùng nhiều trong văn-học thế-kỷ XIX. Những bài có giá-trị nên tìm đọc thêm là(mức tối thiểu): Tụng Tây-hồ của Nguyễn Huy-Lượng đời Lê mạt - Tây-sơn, Chiến Tụng Tây-hồ của Phạm Thái đời Nguyễn sơ, Hàn-nho Phong-vị của Nguyễn Công-Trứ, Tài-tử đa-cùng của Cao Bá-Quát, Thầy Đồ Dạy Học và Hỏng Thi của Trần Tế-Xương.


VÀI ĐIỀU VỀ VĂN-TẾ: Văn-tế -nhất là văn-tế viết theo thể phú Đường-luật theo như trên đây- là một bài văn được xướng lên long-trọng trong một nghi-thức chặt-chẽ của phép tế người chết để khóc thương và ngợi ca công-đức của người đó. Lối văn-tế này, ngày nay không còn được dùng nữa. Để thay thế, xưa đã có một phần nào linh-hoạt, ngày nay lại còn rộng-rãi rất nhiều mà thành những bài điếu-văn bằng văn xuôi. Ít nhất, nên tìm đọc hai bài văn-tế nổi danh là: Tế Trận-Vong Tướng-Sĩ của Nguyễn Văn-Thành và Tế Võ Tánh và Ngô Tòng-Châu của Đặng Đức-Siêu.

Phương Lan (Việt Học)

Nguồn: http://diendan.maihoatran....com/viewtopic.php?t=5799
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Đạo đức kinh
Tác giả: Lão Tử



Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là đạo.

Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự tới, bình thản vô tâm mà khéo mưu tính mọi việc. Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt.

Lời nói chân thật thì không hoa mỹ, lời nói hoa mĩ thì không chân thật. Người thiện thì không cần phải biện giải [vì hành vi tốt rồi], người nào phải biện giải cho mình là người "không thiện". Người biết thì không nói, người nói là người không biết.

Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng đơ. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết đi thì lại khô cứng.
Cho nên cứng mạnh là cùng loài với chết, mềm yếu là cùng loài với sống. Vì vậy binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì bị chặt. Cứng mạnh thì phải ở dưới, mềm yếu lại được ở trên.

Mạnh mẽ về dám làm [tức quả cảm, cương cường] thì chết, mạnh mẽ về không dám làm [tức thận trọng, nhu nhược] thì sống. Hai cái đó cùng là mạnh mẽ, mà một cái thì được lợi, một cái lại bị hại; ai mà biết được tại sao trời lại ghét cái đó [quả cảm, cương cường]?

Người nào hứa một cách dễ dàng quá thì khó tin được, người nào cho việc gì cũng dễ làm thì sẽ gặp nhiều cái khó. Cho nên người hiểu đạo coi việc gì cũng khó mà rốt cuộc không gặp cái gì khó.Cái có từ cái không mà ra. Không có nghĩa là không có gì cả nhưng phải có cái gì thì mới có cái không có.

Cái gì an định thì dễ nắm, giòn thì dễ vỡ, nhỏ thì dễ phân tán. Ngăn ngừa sự tình từ khi chưa manh nha, trị loạn từ khi chưa thành hình.

Cây lớn một ôm, khởi sinh từ một cái mầm nhỏ; đài cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân.
Người ta làm việc , thường gần tới lúc thành công thì lại thất bại, vì không cẩn thận như lúc ban đầu, dè sau như trước thì không hỏng việc.

Người hiểu đạo trị thiên hạ theo chính sách vô vi, giữ thái độ điềm đạm. Xem cái nhỏ cũng như cái lớn, cái ít như nhiều, lấy đức báo oán. Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ [vì việc khó trong thiên hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn khởi từ nhỏ]. Cho nên thánh nhân trước sau không làm việc gì lớn mà thực hiện được việc lớn.

Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa, mưu trí xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu từ, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung.

Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh nhân bất nhân, coi trăm họ như chó rơm [Luật thiên nhiên không có tình thương của con người, cứ thản nhiên, vô tâm với vạn vật, mùa xuân tươi tốt, mùa đông điêu tàn...].
Khoảng giữa trời đất như cái ống hơi; hư không mà không kiệt, càng chuyển động hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự hư tĩnh.

Muốn cho vật gì thu rút lại thì tất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi thì tất hãy làm cho họ mạnh lên đã. Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ lên đã. Muốn cướp lấy vật gì thì tất hãy cho đã. Hiểu như vậy là sâu kín mà sáng suốt. Vì nhu nhược thắng được cương cường.

Ngũ sắc làm cho người ta mờ mắt; ngũ âm làm cho người ta ù tai; ngũ vị làm cho người ta tê lưỡi, ruỗi ngựa săn bắn làm cho lòng người ta mê muội, vàng bạc làm cho hành vi người ta đồi bại. Cho nên bậc đắc đạo cầu no bụng mà ko cầu vui mắt, bỏ cái xa xỉ, đa dục mà chọn cái chất phác, vô dục. Bậc đắc đạo bận áo vải thô mà ôm ngọc quý trong lòng.

Trời đất trường cửu. Sở dĩ trời đất trường cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được.
Vì vậy thánh nhân [người đắc đạo] đặt thân mình ở sau mà thân lại được ở trước, đặt thân mình ra ngoài mà thân mới còn được. Như vậy chẳng phải vì thánh nhân không tự tư mà thành được việc riêng của mình ư ?

Người quân tử gặp thời thì mặc áo gấm mà ngồi xe ngựa, không gặp thời thì mặc áo vải thô mà đi chân đất.

Không trọng người hiền để dân không tranh, không quý của hiếm để dân không trộm cắp, không phô bày cái gì gợi ham muốn, để lòng dân không loạn.
Chính trị của thánh nhân là làm cho dân lòng thì hư tĩnh, bụng thì no, không ham muốn, không tranh giành, xương cốt thì mạnh.
Khiến cho dân không biết, không muốn mà bọn mưu trí thì không dám hành động. Theo chính sách vô vi thì mọi việc đều trị.

Không học thì không phải lo. Càng theo học thì mỗi ngày dục vọng, "hữu vi" càng tăng, theo đạo thì mỗi ngày dục vọng càng giảm, vô vi càng tăng.

Ta có ba vật báu mà ta ôm giữ cẩn thận, một là lòng nhân ái, hai là tính tiết kiệm, ba là không dám đứng trước thiên hạ. Vì nhân ái mà sinh ra dũng cảm, vì tiết kiệm mà sinh ra sung túc, rộng rãi, vì không dám đứng trước thiên hạ mà làm chủ được thiên hạ.

Nếu không nhân ái mà mong được dũng cảm, không tiết kiệm mà mong được rộng rãi, không chịu đứng sau mà tranh đứng trước người thì tất hỏng việc. Trời muốn cứu ai thì cho người đó lòng nhân ái để tự bảo vệ, lấy lòng nhân ái mà giúp người đó.

Người sáng suốt nghe đạo thì gắng sức mà thi hành, người bình thường nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ, người tăm tối nghe đạo thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là đạo nữa ?

Nước là vật cực mềm mà lại thắng được vật cực cứng là đá [nước chảy đá mòn]. Nước là vật cực kì mềm mại, nó luôn tìm chỗ thấp mà tới [khiêm nhường], ngày đêm chảy không ngừng, bốc lên thì thành mưa, chảy xuống thì thành sông rạch, thấm vào lòng đất để nuôi vạn vật. Tự nó không ngừng biến đổi, lại sinh ra mọi loài. Nó không tranh với ai, lựa chỗ thấp mà tới, gặp cái gì cản thì nó uốn khúc mà tránh đi, cho nên đâu nó cũng tới được.

Vật gì bén nhọn thì dễ gẫy. Ráng giữ cho chậu đầy hoài, chẳng bằng thôi đi; con dao cố mài cho bén nhọn thì lại không bén lâu.
Vàng ngọc đầy nhà, làm sao mà giữ nổi ? Giàu sang mà kiêu căng là tự rước họa vào thân.

Ba mươi nan hoa cùng qui vào 1 cái bánh, nhưng chính nhờ khoảng trống không trong cái bánh mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ cái khoảng trống không ở trong mà chén bát mới dùng được. Đục cửa, cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà mới dùng được.
Vậy ta tưởng cái "có" [bánh, chén bát, nhà] có lợi cho ta mà thực ra cái "không" mới làm cho cái "có" hữu ích.

Người đời được vinh hay bị nhục thì lòng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh ra rối loạn. Tại sao vinh, nhục thì lại sinh ra rối loạn ? Là vì vinh thì được tôn, nhục thì bị hèn; được thì lòng rối loạn [mừng rỡ mà!]; mất thì lòng rối loạn [rầu rĩ mà!]; cho nên mới bảo là vinh, nhục sinh ra rối loạn. Vậy phải làm sao ? Chúng ta sỡ dĩ sợ vạ lớn là vì chúng ta có cái thân. Nếu chúng ta quên cái thân mình đi, thì còn sợ gì lòng sinh ra rối loạn nữa ?!
Cho nên kẻ nào coi trọng sự hy sinh thân mình cho thiên hạ, thì có thể tin cậy vào kẻ đó được.

Ai có thể đang đục mà lắng xuống để từ từ trong ra ? Ai có thể đang hư tĩnh mà phát động để lần lần sinh động lên ? Người nào giữ được đạo ấy thì không tự mãn, không cố chấp, cũng không tự ái. Vì vậy nên mới có thể bỏ cái qua cái cũ mà chấp nhận cái mới được.

Kẻ đứng 1 chân thì không thể đứng được lâu, kẻ xoạc chân ra thì không thể đi được, kẻ tự biểu hiện mình thì không bao giờ chói lọi, kẻ tự kể công thì không có công, kẻ tự phụ thì chẳng khuyên bảo được ai, kẻ vẽ rắn thêm chân thì không trường cửu. Thái độ đó được ví như đồ ăn thừa, những ung nhọt ai ai cũng ghét.

Ai cũng cho cái đẹp là đẹp do đó mà phát sinh ra quan niệm cái xấu; ai cũng cho cái thiện là thiện do đó mà phát sinh ra quan niệm về cái ác. Tại sao con người thích cái đẹp mà lại không thích cái xấu ? Là vì "có" và "không" sinh ra lẫn nhau, "dễ" và "khó" tạo nên lẫn nhau, cao thấp dựa vào nhau mà tồn tại ...

Kẻ biết người là người khôn, kẻ tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kiên cường. Kẻ biết thế nào là đủ là người giàu; kẻ gắng sức là người có chí. Kẻ nào ko rời bỏ những điều trên thì sẽ được lâu dài, chết mà không mất là trường thọ.

Hồn nhiên, vô tư, vô dục như đứa trẻ mới sanh là có đức dày, ai cũng yêu quý, muốn đạt như vậy không phải là dễ. Đứa trẻ mới sinh độc trùng ko chích, mãnh thú không ăn thịt, ác điểu ko vồ. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, suốt ngày gào hét mà giọng ko khản, như vậy là khí cực hòa.

Dứt thánh hiền, bỏ mưu trí dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ; dứt trí xảo bỏ lợi, không có trộm giặc.

Ba cái đó (thánh trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì là cái văn vẻ bề ngoài không đủ để trị dân nên phải bỏ; khiến cho dân quy về điều này: ngoài thì mộc mạc, trong thì giữ sự giản phác, giảm tư tâm bớt dục vọng mới là tích cực.

Dạ (giọng kính trọng) khác với ơi (giọng xem thường) bao nhiêu ? Thiện với ác khác nhau như thế nào ? Cái mọi người sợ ta không thể không không sợ. Việc học rộng lớn thay, không sao hết được.

Mọi người hớn hở như hường bữa tiệc lớn, như mùa xuân lên đài; riêng ta điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ chưa biết cười, rũ rượi mà đi như không có nhà để về. Mọi người có thừa, riêng ta như thiếu thốn, lòng ta ngu muội, đần độn thay ! Mọi người đều có chỗ để dùng, riêng ta ngoan cố mà bỉ lậu. Riêng ta khác người mà quý mẹ của muôn loài (tức đạo)

Vạn vật tuần hoàn, âm cực dương sinh, lúc sinh lúc tử, trăng tròn trăng khuyết. Vạn vật biến đổi rồi trở lại cái bản thể của nó (trở về với đạo). Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo ra vạn vật. Chúng ta do đâu biết được bản chất vạn vật ? Đó là do đạo.

Thánh nhân ôm giữ lấy đạo làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải nên mới chói lọi, không tự kể công nên mới là có công, không tự phụ cho nên mới hơn người. Chỉ vì không tranh với ai nên không ai tranh với mình được.

Người xưa bảo: "Cong (chịu khuất phục) thì sẽ được bảo toàn", đâu phải hư ngôn! Nên chân thành giữ vẹn cái đạo mà về với nó. Trong trời đất có bốn cái lớn mà người là một. Người bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên.

Ít nói thì hợp với đạo. Cho nên gió lốc không thể thổi suốt buổi sáng, mưa rào không suốt ngày. Ai làm nên những cái ấy? Chính là do trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống hồ là con người ?

Vì binh khí là vật bất tường (chẳng lành, gây họa), ai cũng ghét cho nên người giữ đạo không dùng binh khí. Bất đắc dĩ phải dùng đến nó, mà dùng đến thì điềm đạm là hơn cả. Thắng cũng không cho là hay, nếu cho là hay tức là thích giết người. Kẻ nào thích giết người thì không trị được thiên hạ.

Việc lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trọng bên phải. Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử. Thắng mà không bức người, vì vật mạnh thì có lúc suy. Nếu không như vậy thì là trái Đạo. Trái Đạo thì sớm bị tiêu diệt. Trị nước phải được tiến hành cẩn thận, giống như việc nấu cá nhỏ. Người khôn ngoan làm việc mà không bao giờ xảo trá, tư lợi.

Lão Tử tức Thái Thượng Lão Quân  là một nhà tư  tưởng vĩ đại của Trung Hoa cổ đại, là người sáng lập trường phái Đạo gia (đạo Lão). Ông tên thật là Lý Nhĩ, tên thường gọi là lão Đam, người làng Khúc Nhân, hương Lệ, nước Sở. Ông làm chức quan giữ sách nhà Chu, học rộng biết nhiều, sau về quê ở ẩn. Tương truyền, trước khi về ở ẩn đến cửa quan, viên quan coi cửa là Doãn Hỉ bảo:"Ông sắp đi ở ẩn, rán vì tôi mà viết sách để lại".  Thế là Lão Tử viết một cuốn sách chỉ gồm khoảng năm ngàn chữ bàn về "Đạo" và "Đức" (tức Đạo Đức Kinh). Viết xong rồi bỏ đi, về sau không ai còn nghe đến, không biết sống chết ra sao.

Tương truyền, Khổng Tử qua Chu thăm Lão Tử. Lão Tử cởi trâu ra tận đầu làng đón Khổng Tử. Hai người đàm đạo với nhau trong ba ngày về Đạo. Đến khi chia tay, Lão Tử bảo với Khổng Tử rằng:

"Những người ông nói đó, thịt xương đều nát cả rồi, chỉ còn lại lời của họ mà thôi. Tôi nghe nói người giàu sang tiễn nhau bằng vàng bạc, người nhân tiễn nhau bằng lời nói. Tôi không phải là người giàu sang, tạm coi mình là người nhân mà tiễn ông bằng lời này: Người buôn giỏi thì giấu kĩ vật quý, xem ngoài như không có gì; người đức cao thì tướng mạo như ngu độn. Ông nên bỏ cái khí kiêu căng, cái lòng đa dục, cái vẻ hăm hở cùng cái chí quá hăng của ông đi, những cái đó không có ích gì cho ông đâu. Tôi chỉ khuyên ông có bấy nhiêu thôi"

Khổng Tử về đến nhà suốt ba ngày không ra khỏi cửa, bảo với môn sinh rằng:

"Loài chim, ta biết nó bay được; loài cá ta biết nó bơi được; loài thú ta biết nó chạy được. Chạy thì ta dùng lưới để bẫy, bơi thì dùng câu để bắt, bay thì dùng tên để bắn. Còn loài rồng cưỡi gió cưỡi mây mà bay lên trời thì ta không sao biết được. Nay ta gặp ông Lão Tử; ông là con rồng chăng ?"

Thực là ngược đời, cái triết học "ngược ngạo" của Lão tử lại sản sinh ra cái lý tưởng cao thượng nhất về hòa bình, khoan dung, giản phác và tri túc. Giáo huấn của ông gồm bốn điểm: trí tuệ nên như ngu độn, đời sống nên ẩn dật, xử thế nên nhu nhược và tánh tình nên giản phác. Ngay đến nghệ thuật Trung Hoa, từ ý thơ, ảo tưởng đến những lời tán tụng đời sống bình dị của tiều phu, ngư phủ cũng không thể thoát ly triết học đó mà tồn tại. Nguồn gốc của chủ nghĩa hòa bình của Trung Hoa là do cái quan niệm chịu nhận sự thất bại tạm thời để chờ cơ hội thuận tiện, và do lòng tin rằng vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo cái luật vận hành phản phục; do đó không một kẻ nào vĩnh viễn "u mê" bao giờ.

Đến đời Tần-Hán, các đạo sĩ thuộc phái Đạo gia thờ Lão Tử nhưng không còn quan tâm nghiên cứu triết học Lão-Trang mà chỉ toàn lo bàn chuyện tu tiên, luyện thuốc trường sinh bất tử. Phái Đạo gia suy dần, tuy nhiên những tư tưởng của Lão Tử thì đã trở nên bất tử với thời gian. Theo các nhà nghiên cứu, tư tưởng của Lão Tử không chỉ là một triết học nhân sinh mà còn là vũ trụ quan tiên báo khoa học hiện đại.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Bát nhã tâm kinh
Tác giả: Đường Huyền Trang



LỜI NÓI ĐẦU

Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó, để thấy pháp xưa nay bình đẳng và rồi một phen các hành giả đủ cụ nhãn sẽ thể nhận chân lý hoát thông giải thoát.

Bộ Bát-nhã 600 quyển của ngài Huyền Trang, một bậc Thánh triết đã dày công sưu tầm Phạn bản từ Ấn Độ và đã dịch sang Hán ngữ vào giữa thế kỷ thứ VII, đời Đường. Đồng thời quyển Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm kinh, gọi tắt là Bát-nhã Tâm kinh, cũng được vị pháp sư Thánh triết này chuyển sang văn Hán. Tuy vỏn vẹn chỉ có 260 chữ, nhưng nội dung hàm chứa cả thực chất, là viên bảo châu vô giá của chánh pháp Như Lai.

Từ khi bộ kinh thần diệu này có mặt ở Trung Hoa, nôi Phật giáo Bắc truyền Đông Á, chẳng những chư Tổ Không tông tích cực quảng bá, mà liệt Tổ các phái cũng lấy đó làm chỗ lập cước để hoằng dương Phật pháp, mở cửa Đại thừa, Tối thượng thừa, dọn một con đường thông suốt thẳng vào đất trời pháp giới thể tánh Chân Không. Lại, một phen giúp các hành giả trong Tông môn thật sự từ đây, một nhảy vào thẳng đất Như Lai, cũng khiến biết bao chuyên gia chuyên thu cái hay, nhặt cái quí của pháp bảo, phải choáng mắt, kinh tâm trước cửa mở vào chân trời thậm thâm Bát-nhã với bạt ngàn hoa thơm cỏ lạ.

Riêng bộ Tâm kinh này, cho dù chỉ có 260 chữ, mà vẫn đảm nhận vai trò cương lĩnh của Thánh giáo. Thời khóa tu tập xưa nay của các hành giả trong tùøng lâm, Tổ Tổ đều công nhận không thể vượt qua kinh này được. Có lẽ do đây mà có quan niệm Tâm kinh là kinh bổ khuyết các kinh trong mọi thời khóa khi hành trì.

Nay tại các Thiền viện ở Việt Nam, Hòa-thượng Viện trưởng chủ giảng kinh này, là bài pháp mở đầu cho các khóa thiền tại các Thiền viện Chân Không, Thường Chiếu… Bộ Bát-nhã Tâm kinh Giảng giải Việt văn này được ra mắt quí vị độc giả vốn ngưỡng mộ nó lâu nay, và lần ra mắt này với sự đóng góp ghi chép, tu chỉnh của các thiền sinh, hy vọng bản kinh sẽ hoàn bị hơn.


Thiền viện Thường Chiếu, ngày 26-08-1997
Kính ghi,
THÍCH NHẬT QUANG

I. GIẢNG ĐỀ KINH

Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.

Bát-nhã Tâm kinh nói đủ là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh, gồm một phần chữ Phạn phiên âm là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa và một phần chữ Hán là Tâm kinh.

Ma-ha, Trung Hoa dịch là đại, nghĩa là lớn. Bát-nhã là trí tuệ. Ba-la-mật-đa là đáo bỉ ngạn, nghĩa là đến bờ kia, gần đây dịch là cứu kính. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa là trí tuệ rộng lớn cứu kính.

Tâm kinh là kinh nói về tâm. Nếu hiểu rõ thì Ma-ha bát-nhã ba-la-mật-đa tức là tâm kinh. Vì sao? Vì trí tuệ rộng lớn cứu kính, còn gọi là trí tuệ Bát-nhã, tức là Tâm vậy.

Trong kinh Bát-nhã có nói: Bát-nhã vô tri vô sở bất tri, nghĩa là Bát-nhã không biết mà không chỗ nào chẳng biết. Không biết tức Bát-nhã đối vớùi cảnh không khởi vọng thức phân biệt. Không chỗ nào chẳng biết vì Bát-nhã là trí tuệ hằng sáng hằng giác dụ như gương sáng, tất cả cảnh vật hoặc người qua lại đều hiện rõ ràng không thiếu sót. Biết mà không khởi vọng thức phân biệt là cái biết của Tâm.

II. GIẢNG VĂN KINH

Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Khi Bồ tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã ba-la-mật-đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách.

Trong đây khó nhất là chữ Không. Toàn bộ Đại Bát-nhã gồm 600 quyển, rất rộng rất nhiều, ở đây vì bài kinh rút quá gọn, nên người đọc khó nhận ra được ý nghĩa.

Soi thấy năm uẩn đều không bằng cách nào? Chữ Không ở đây là soi thấy năm uẩn đều không có tự tánh, chớ không phải là không ngơ hay là chân không.

Không ngơ là không có gì hết, tức là chấp không. Hiểu chữ Không như vậy là sai lầm, không đúng tinh thần Bát-nhã là phá chấp, phá chấp có và phá chấp không.

Không nếu hiểu là chân không lại không ổn, vì chân không không thể giải thích bằng ngôn ngữ văn tự được.

Để hiểu rõ chữ Không, chúng ta cần biết qua ba thời kỳ Phật giáo:

1- Sơ kỳ Phật giáo: Giải thích pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, cho đây là chân lý. Như thế là còn nằm trên hình thức, nói về tướng hoặc có, hoặc không, hoặc thiện, hoặc ác v.v…

2- Trung kỳ Phật giáo: Nói về lý tánh không tức là lý Bát-nhã.

3- Hậu kỳ Phật giáo: Nói về lý chân không diệu hữu.

Chữ Không trong Bát-nhã là không tự tánh, hay không tánh. Học Bát-nhã là học về lý tánh không. Tánh không là gì ? Tánh là danh từ chỉ cái gì cố định, bất di bất dịch. Tánh không chỉ tất cả pháp thế gian này đều không có cái gì cố định, bất di bất dịch, nghĩa là hằng đổi dời, không thật. Tinh thần Bát-nhã chống lại nghĩa tánh hữu, tức là các pháp đều có tự tánh, đều cố định, đều là thật. Quan niệm tánh hữu là không đúng theo lý Bát-nhã.

Các pháp thế gian không cố định nên không phải là thật, do duyên hợp nên không phải là không ngơ.

Soi thấy năm uẩn đều không tức là soi thấy năm uẩn đều không có tính cách cố định. Khi soi thấy năm uẩn đều không cố định, nên qua hết tất cả khổ nạn. Vì sao? Vì tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay bị bệnh chấp ngã.

Bệnh thứ nhất của chấp ngã là chấp thường nhất. Chấp thường nhất là mỗi người đều chấp thân tâm mình thật có, tức là thường còn thường nhất không thay đổi. Thử hỏi trong chúng ta, ai thấy được con người mình luôn luôn thay đổi? Từ thuở bé đến ngày nay khôn lớn bốn, năm mươi tuổi, con người mình khi trước và ngày nay là một hay là hai? Nếu nhận thấy nó không khác, là thường nhất, gọi là chấp ngã. Nhưng kiểm lại xem con người mình về tâm sanh lý từ lúc bé thơ đến tuổi già nua có thật là thường nhất, có thật là không thay đổi, có thật là một chăng? Nhận xét như vậy mới biết chấp ngã là một quan niệm sai lầm của con người .

Bệnh thứ hai của chấp ngã là chấp chủ tể. Chấp chủ tể tức là chấp mình làm chủ trọn vẹn con người mình về cả hai mặt sanh lý và tâm lý. Ai cũng thầm nghĩ thân này là của tôi, tức là tôi làm chủ nó trọn vẹn, cũng như tôi có cái nhà và bàn ghế trong nhà, tôi làm chủ trọn vẹn tức là tôi có trọn quyền sử dụng nó không ai ngăn cản hay sửa đổi được.

Nhưng tôi có thật sự làm chủ con người tôi hay không? Về mặt sanh lý, tôi luôn luôn muốn cho thân thể được khỏe mạnh hồng hào, nhưng đôi khi nó cũng bị đau yếu nhức nhối, đòi hỏi phải thuốc thang chữa trị. Như vậy tôi đâu có thật làm chủ thân tôi. Về mặt tâm lý, tôi không làm chủ được tư tưởng của tôi. Như trong lúc ngồi thiền tôi suy nghĩ miên man hết việc này đến việc khác, tôi muốn tâm thanh tịnh mà có mấy khi được như vậy.

Hai quan niệm chấp ngã: Ngã là thường nhất và ngã là chủ tể, là hai quan niệm sai lầm và lệch lạc. Do bệnh chấp sai lầm này nên chúng ta đau khổ. Nếu chúng ta nhận thấy rõ con người mình không thường nhất và không có chủ tể là chúng ta phá được bệnh chấp ngã.

Trong thời sơ kỳ Phật giáo, để phá bệnh chấp ngã, đức Phật bảo thân này do tứ đại hòa hợp là cho những người thiên chấp về vật chất, thân này do ngũ uẩn hòa hợp là cho những người thiên chấp về tinh thần.

Nếu thân này đã do tứ đại hòa hợp, tức là đất nước gió lửa hòa hợp, thì thân này không có nghĩa là thường nhất được. Trong bốn đại, không đại nào làm chủ, nên biết thân này không có chủ tể.

Nếu thiên chấp về tâm, Phật dạy thân này do ngũ uẩn hòa hợp, tức là ngoài sắc uẩn chỉ cho thân, còn có bốn uẩn thuộc phần tâm lý là: thọ, tưởng, hành, thức.

Thọ là cảm giác, lãnh thọ. Ví dụ khi mắt nhìn thấy cảnh đẹp, mình nhận đây là cảnh đẹp, rồi vui thích gọi là thọ lạc của mắt, khi nhìn cảnh xấu, mình nhận đây là cảnh xấu và cảm thấy chán ghét gọi là thọ khổ của mắt. Khi tai nghe tiếng nhạc hay tiếng khen, mình cảm thấy vui thích gọi là thọ lạc của tai, nếu nghe tiếng dở và tiếng chê, mình cảm thấy ghét giận gọi là thọ khổ của tai. Như vậy khi mắt tai mũi lưỡi thân ý tiếp xúc với sáu trần bên ngoài, khi cảm thấy vừa ý và vui thích gọi là thọ lạc, khi cảm thấy trái ý và chán ghét gọi là thọ khổ. Cảm nhận sự vui buồn thương ghét gọi là thọ uẩn, tức thuộc phần tâm lý hay tâm thức.

Tưởng là những nghĩ tưởng về các cảnh đã thấy, như khi chúng ta tưởng lại các cảnh đã thấy ở thành phố hay núi non, thì các cảnh ấy hiện ra với mình. Hoặc khi chúng ta tưởng đến việc vị lai, thì những việc ấy hiện ra với mình. Như vậy những nghĩ tưởng trở về quá khứ hay hướng đến tương lai là thuộc về tinh thần hay tâm thức.

Hành là những suy tư tiếp nối miên man sanh diệt chẳng dừng ở một điểm. Như khi chúng ta đang suy nghĩ một vấn đề gì, tâm tư chúng ta luôn luôn nghĩ từ việc này sang việc khác liên tục không ngừng, như người bộ hành đi đường, bước này tiếp nối bước kia không dừng. Hành cũng thuộc về tâm thức.

Thức là cái phân biệt. Ví dụ mắt thấy sắc, phân biệt là đẹp là xấu, tai nghe tiếng, phân biệt là hay là dở v.v… Phân biệt gọi là thức, thuộc về tinh thần.

Thọ, tưởng, hành, thức bốn uẩn này thuộc về tâm. Vì tâm do bốn uẩn kết hợp không thể là thường nhất, cũng không có chủ tể, vì không uẩn nào là chủ. Tại sao năm thứ đều gọi là uẩn? Uẩn nghĩa là chớa nhóm hay tích tụ. Sắc chớa nhóm bốn đại hay tích tụ bốn đại, thọ chớa nhóm sáu thọ của sáu căn…

Trong thời sơ kỳ Phật giáo tức là thời kỳ nguyên thủy, Phật thuyết pháp vô ngã để phá bệnh chấp ngã về thân và tâm. Con người chúng ta là tướng duyên hợp do tứ đại hay ngũ uẩn kết hợp không thật, nên không thường nhất và không chủ tể. Vô ngã là không có một cái ngã thường nhất và chủ tể.

Nhiều người hiểu lầm nghĩa vô ngã, cho rằng vô ngã là không ngơ tức là không có mình, không có thân này. Nếu không có thân này thì ai đang sống đây, ai đang hoạt động, ai đang thọ khổ thọ vui? Có thân này nên chúng ta mới có cảm giác nóng lạnh, đau nhức hay êm dịu; có tâm này nên chúng ta mới cảm nhận, suy tư hay phân biệt. Nhưng thân và tâm này là do duyên hợp tạo thành, nên không thường nhất và không chủ tể, gọi là vô ngã.

Lại có nhiều người nghĩ lầm thân tâm mình, từ xưa đến nay là một không biến đổi, mình làm chủ mình hoàn toàn, mình được tự tại, không ai có quyền làm chủ mình. Nhưng thật sự thể xác và tinh thần chúng ta, từ xưa đến nay đã đổi thay không biết bao nhiêu lần và chúng ta thật sự có bao giờ làm chủ chúng ta đâu! Nếu chúng ta nhận không đúng lẽ thật mà khăng khăng bám chặt vào quan niệm sai lầm, gọi là chấp. Có một quan niệm sai lầm về thân và tâm là thường nhất và có chủ tể, gọi là chấp ngã. Và chấp ngã là nguyên nhân của tất cả khổ đau trong cuộc đời.

Đến giai đoạn thứ hai là thời trung kỳ Phật giáo, đức Phật không còn nói thân này không thật, do tứ đại hay ngũ uẩn duyên hợp giả có, mà đức Phật đi thẳng vào năm uẩn, soi thấy từng uẩn một đều không cố định. Vì mỗi uẩn không có tánh cố định, luôn luôn biến chuyển và đổi dời nên không thường nhất, không chủ tể, còn gọi là không tự tánh. Năm uẩn còn không cố định huống là cái hợp thể do năm uẩn hợp lại tức là thân, là bản ngã của chúng ta làm sao cố định được.

Lấy một ví dụ cho dễ hiểu là bàn tay chúng ta. Năm ngón tay co lại hợp thành nắm tay, nắm tay này không cố định, nếu cố định thì đâu đợi năm ngón co lại mới hợp thành? Nếu xòe bàn tay chia ra từng ngón một thì đâu có nắm tay. Năm ngón co lại thành nắm tay, thử hỏi ngón tay nào là chủ của nắm tay? Trong năm ngón không có ngón nào làm chủ, nên nghĩa chủ tể của nắm tay không thành được. Nắm tay do năm ngón co lại nên không thường nhất, nếu thường nhất thì đâu đợi năm ngón co lại mới thành, nếu thường nhất thì khi xòe bàn tay ra từng ngón một, nắm tay ở đâu? Cái thường nhất có còn không?

Như vậy nghĩa thường nhất của nắm tay cũng không. Nắm tay trước không có, do duyên hợp tạm có, duyên tan thì mất, không thường nhất, không chủ tể, nên gọi là không cố định.

Tiến sâu hơn, chúng ta không nhắm vào nắm tay nữa, mà nói từng ngón tay, mỗi ngón tay có thật hay không? Có đủ hai nghĩa thường nhất và chủ tể hay không? Mỗi ngón tay cũng là tướng duyên hợp do xương gân máu thịt hợp thành, nên không có đủ hai nghĩa thường nhất và chủ tể. Một ngón tay không thường nhất và không chủ tể, năm ngón tay cũng thế, huống là nắm tay. Ngón tay là đơn vị hợp thành nắm tay, chính mỗi ngón tay ấy cũng là một hợp thể, cũng là tướng duyên hợp tạm bợ không thật, không cố định.

Đức Phật đi thẳng vào từng uẩn một của thân năm uẩn, soi thấy mỗi uẩn đều không cố định nên gọi là soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách. Làm sao qua được khổ ách? Khổ ách gốc từ đâu mà có? Nếu hỏi ai khổ thì trả lời tôi khổ, tôi bị tai nạn. Tôi là gì? Là bản ngã, là cái tôi trước sau như một, là cái tôi làm chủ. Nếu cái tôi trước sau như một, gặp điều gì trái sở thích gọi là khổ, gặp việc gì làm nó bị suy giảm gọi là nạn. Sở dĩ có khổ nạn là vì chấp bản ngã, nếu bản ngã không còn thì khổ nạn còn không? Bản ngã không còn không có nghĩa là không ngơ, mà có nghĩa là không cố định. Bởi bản ngã không cố định vì là tướng duyên hợp, bởi là tướng duyên hợp nên tạm bợ hư dối, đổi dời luôn luôn không dừng; không chủ tể, không thường nhất, đó là nghĩa “vô ngã”. Nếu ngay nơi năm uẩn, thấy rõ mỗi uẩn luôn luôn đổi dời không chủ tể và không thường nhất, thì cái thân do năm uẩn hợp lại làm sao có chủ tể và thường nhất được. Nên nói soi thấy năm uẩn đều không, tất cả khổ nạn theo đó liền dứt.

Nếu chúng ta thấy rõ thân này, về sanh lý cũng như tâm lý đều là tướng duyên hợp đổi dời không cố định, thì mới biết thân này là hư dối không thật, cái ngã này là hư dối không thật. Và những gì đến với cái ngã hư dối không thật này, dù là tốt xấu hay vui buồn cũng đều hư dối không thật, thì còn gì gọi là khổ ách nữa. Nên nói soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết tất cả khổ nạn.

Người tu hành chỉ cần soi thấy năm uẩn đều không là qua hết khổ nạn, là được giải thoát. Nhưng chúng ta phải soi trong thời gian bao lâu mới thấy năm uẩn đều không? Bồ-tát Quán Tự Tại hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời… Soi đây là hành, thâm là sâu xa đến bao giờ thâm nhập được trí tuệ Bát-nhã, khi ấy xem thấy năm uẩn đều không cố định nên tất cả khổ nạn đều qua.

Trên đường tu tập Bát-nhã, chúng ta soi thấy năm uẩn đều có rõ ràng, như vậy lời Phật dạy không đúng sao? Đó là vì chúng ta chưa hành thâm Bát-nhã, thâm đây không phải năm mười ngày, đôi ba tháng hay hai ba năm, thâm đây là thâm nhập sâu xa trí tuệ Bát-nhã, khi ấy xem thấy năm uẩn đều không cố định nên tất cả khổ nạn đều qua.

Sở dĩ chúng ta đau khổ là vì mê lầm về bản thân nên sanh chấp ngã. Với trí tuệ Bát-nhã chúng ta thấy đúng như thật thân tâm này là tướng hư dối, luôn luôn biến chuyển không cố định, nên không còn mê chấp nữa. Không mê lầm chấp ngã nên hết khổ nạn. Giả sử có ai gọi tên ta và sỉ vả đủ điều, nếu chúng ta dùng trí tuệ Bát-nhã thấy đúng như thật thân tâm là tướng hư dối, không còn chấp ngã thì các đau khổ liền dứt. Người học Phật phải thấy đúng như vậy, vì đó là căn bản của sự tu hành.

Xá-lợi tử sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.

Này Xá-lợi-phất! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế.

Đến đây Phật đi vào chi tiết, bảo ngài Xá-lợi-phất: Sắc uẩn chẳng khác với không, không chẳng khác với sắc uẩn. Không đây chẳng phải là không ngơ, hay trống không như hư không. Không đây là không tự tánh tức là không cố định. Sắc uẩn là phần thân tứ đại, thân tứ đại này là tướng duyên hợp đổi dời không cố định. Chính bản chất thân tứ đại này không cố định, nên không khác với không. Nếu thân tứ đại là cố định tức khác với không rồi. Cho nên nói sắc uẩn chẳng khác với cái không cố định và cái không cố định chẳng khác với sắc uẩn.

Ví dụ cái bàn là tướng duyên hợp nên không cố định, như vậy cái không cố định chẳng khác với cái bàn. Vì sao ? Vì ngay nơi cái bàn tự nó đổi dời sanh diệt nên không cố định, và cái không cố định là sẵn nơi cái bàn và ngay nơi cái bàn. Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc là như vậy.

Sắc tức là không, không tức là sắc.

Trong đoạn trước còn so sánh, thấy dường như hai, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Đến đây Phật chỉ thẳng chính sắc uẩn là không cố định, không cố định chính là sắc uẩn. Nghĩa là thân tứ đại này là tướng biến đổi không cố định, không cố định là thân tứ đại này. Nếu thân tứ đại cố định thì không diệt, nhưng thân bị sanh diệt tức bản chất nó không cố định.

Như cái bàn này là không cố định, cái không cố định tức là cái bàn này, không phải rời cái bàn này có cái không cố định ở ngoài.

Nhiều người cho rằng sắc là sắc, không là không, vì sao lại nói sắc tức là không, không tức là sắc ? Phải hiểu chữ không đây là không cố định, là sanh diệt đổi dời.

Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Nghĩa là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, bốn uẩn này cũng lại như thế. Thọ uẩn chẳng khác với không cố định, không cố định chẳng khác với thọ uẩn, thọ uẩn tức là không cố định, không cố định tức là thọ uẩn. Tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cũng đều như vậy, chẳng khác với không cố định và tức là không cố định.

Xá-lợi tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.

Này Xá-lợi-phất, tướng không của các pháp, không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.

Tướng không của các pháp tức là tướng không cố định của các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Tướng không cố định ấy chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Vì sao? Vì là không cố định. Nếu nói sanh tức là cố định mất rồi, nếu nói diệt tức là cố định mất rồi; nếu sanh thì đâu có diệt, nếu diệt làm sao có sanh? Cho nên nói tướng không cố định không phải sanh, không phải diệt, là như vậy. Nó không phải nhơ, không phải sạch, vì nếu là nhơ tức không bao giờ đổi thành sạch được , nếu là sạch tức không bao giờ biến thành nhơ được. Nên nói tướng không cố định không phải nhơ, không phải sạch. Cũng như vậy, tướng không cố định của các pháp không phải thêm, không phải bớt.

Nói tóm lại, tướng không cố định của các pháp không phải sanh, không phải diệt, không phải nhơ, không phải sạch, không phải tăng, không phải giảm. Tướng không cố định ấy không phải tất cả những tướng đối đãi. Vì sao? Vì nếu nó là cái này hay là cái kia tức là nó cố định mất rồi. Vì tướng không cố định, nên sanh có thể biến thành diệt, nhơ biến thành sạch, tăng biến thành giảm, hoặc diệt biến thành sanh v.v… Tướng của các pháp tùy duyên đổi thay nên không cố định.Vì tùy duyên đổi thay nên không thể xác nhận nó là cái gì được. Tỉ dụ chúng ta có một ly nước đang trong sạch, nếu đem bỏ đất vào thì ly nước biến thành nhơ đục mất rồi. Như vậy ly nước không cố định phải là sạch hay là nhơ mà tùy duyên, tức là từ sạch do duyên đổi, biến thành nhơ. Nếu là cố định, khi sạch phải sạch mãi không nhơ, khi nhơ phải nhơ mãi không sạch, mà thật ra nó tùy duyên thay đổi làm sao gọi là cố định. Đó là ý nghĩa tướng không cố định của các pháp, nó không phải là cái gì hết vì nó là tướng tùy duyên.

Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.

Cho nên trong tướng không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới.

Ở đây Phật dạy tướng không cố định không phải là năm uẩn, không phải là sáu căn, không phải là sáu trần, không phải là mười tám giới. Nếu nó là cái nào tức là cố định rồi. Vì nó không phải là cái nào hết, nên nó mới tùy duyên không cố định. Nên nhớ chữ Vô ở đây là không phải: không phải sắc, không phải thọ,ï tưởng, hành, thức v.v… vì căn cứ trên tướng không cố định mà nói như vậy.

Khi chúng ta chấp nặng sắc thân, đức Phật dùng tứ đại để phá chấp; khi chấp nặng phần tâm lý, đức Phật dùng ngũ uẩn để phá chấp. Khi chúng ta chấp về căn thân và trần cảnh, đức Phật dùng thập nhị xứ để phá chấp; khi chấp căn, trần và thức, đức Phật dùng thập bát giới để phá, cho nên nói không phải nhãn giới cho đến không phải ý thức giới. Nói tóm lại, trong cái không cố định không phải là sáu căn, không phải là mười hai xứ, không phải là mười tám giới, nghĩa là cái không cố định không phải là tất cả pháp thế gian.

Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc.

Không có vô minh cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết cũng không có hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí tuệ cũng không có chớng đắc.

Đây là chỉ pháp xuất thế gian. Thập nhị nhân duyên thuộc về sơ kỳ Phật giáo, bắt đầu là vô minh, hành, thức, danh-sắc v.v… cho đến lão tử, đó là chiều lưu chuyển. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt … cho đến lão tử diệt, đó là chiều hoàn diệt. Như vậy, cái không cố định, không phải là mười hai nhân duyên trong chiều lưu chuyển, cũng không phải mười hai nhân duyên trong chiều hoàn diệt.

Không phải khổ, tập, diệt, đạo.

Tức là không phải pháp Tứ đế, nghĩa là cái không cố định không phải khổ đế, không phải tập đế, không phải diệt đế, không phải đạo đế. Pháp Tứ đế thuộc về sơ kỳ Phật giáo, là bốn pháp chân thật không dời đổi, tức là cố định. Nhưng ở đây nói không phải khổ tập diệt đạo là để phá cái chấp cố định của Tiểu thừa.

Tiểu thừa đối với giáo pháp Phật nói cho là chân lý, nên chấp chặt đó là thật. Nhưng ở đây phá luôn cái chấp Mười hai nhân duyên và Tứ đế. Vì sao? Vì Mười hai nhân duyên và Tứ đế là tướng không thật, đổi dời và không cố định.

Không phải trí, cũng không phải đắc. Đây là nói đến quan niệm Bồ-tát. Thường thường Bồ-tát dùng Sáu ba-la-mật để độ chúng sanh, nhưng trong Sáu ba-la-mật, trí ba-la-mật là căn bản. Nếu Bồ-tát dùng sáu ba-la-mật độ chúng sanh, sẽ đắc quả Sơ địa đến Thập địa Bồ-tát, tức là có trí có đắc. Nhưng sự thật ở đây nói không trí cũng không đắc, vì không có sở đắc, tức là không có cái để chớng được.

Sự thật của pháp thế gian, tại sao nói không cố định, không phải tất cả pháp thế gian? Không phải tất cả pháp thế gian, nghĩa là không phải tất cả pháp đối đãi của thế gian. Cái không cố định đó, nó không phải là cái gì trong các pháp đối đãi thế gian, bởi vì nếu nó là cái gì thì thành cố định cái đó rồi, cho nên nói cái không cố định không phải tất cả pháp thế gian, nhưng là tất cả pháp thế gian. Tất cả pháp đối đãi thế gian không khác với không cố định, mà chính là không cố định. Đây là ý nghĩa thâm trầm của tinh thần Bát-nhã.

Thường thường tất cả pháp thế gian, khi lập ra cái gì người ta đều cố định cái ấy, xét cho kỹ có pháp thế gian nào mà chúng ta không chấp là thật đâu? Khi nói phải chúng ta chấp phải là thật, khi nói quấy chúng ta chấp quấy là thật, nói tốt xấu dài ngắn đều chấp là thật, nói cái gì đều chấp cái đó là thật. Nhưng thử hỏi tất cả cái ấy có thật không? Có cố định không? Nếu nói phải, có cố định là phải chăng? Nói quấy, có cố định là quấy chăng?

Ở thế gian khi người ta nói như thế này là phải, thì tất cả người nghe theo nhận đó là phải và cho cái phải đó là cố định. Nhưng người khác lại nói như thế kia là phải, thì sao? Tức nhiên cái phải quấy chỉ là cái bày ra đấy thôi. Cái bày ra đó của ai? Tức nhiên là của những người lớn có uy quyền, rồi người sau bắt chước, chấp đó là phải, là cố định. Tỉ dụ hồi xưa các cụ nho nói người nữ là “Khuê môn bất xuất”, cho đó là phải. Lúc ấy mọi người đều thấy như thế là phải. Nhưng ngày nay người nữ ngang quyền với người nam, có quyền ra ứng cử… Như vậy quyền bình đẳng đó là phải hay là quấy? Nếu hiện nay là phải, thì cái phải ngày xưa với cái phải ngày nay còn là một được không? Có khác nhau không? Nếu ngày xưa là phải, thì hiện nay đâu phải. Nếu ngày nay là phải thì ngày xưa hết phải. Như vậy ai phải? Cái nào phải?

Qua tỉ dụ trên, chúng ta thấy cái phải không cố định, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp, tùy theo sự sắp đặt của người trên trước có uy quyền. Thời đó phải sống như vậy mớùi là phải, tức là cái phải của thời đó, của lúc đó mà thôi, chớ đâu phải là cái phải miên viễn muôn đời. Nếu chúng ta chấp cái đó là phải, mà có người nói khác đi tức nhiên ta phản đối lại, do đó sanh ra bao nhiêu tranh cãi phiền phức.

Xét kỹ lại tất cả cái phải đều không cố định, đã không cố định thì đâu có thật. Phải đã như vậy, thì quấy cũng như vậy. Giả sử có những việc ngày xưa cho là quấy, ngày nay trở thành phải, cũng có những việc ngày xưa cho là phải, ngày nay trở thành quấy. Mỗi thời mỗi lúc đều mỗi khác, cho nên phải quấy đều không cố định, nếu chúng ta chấp sự việc là cố định, tức nhiên là sai lầm, là không đúng sự thật.

Thiện ác có cố định được không?

Thường thường chúng ta hay nói làm việc này là thiện, làm việc kia là ác. Nhưng, tỉ dụ vào một buổi chiều ngồi trên thiền thất, tôi thấy một con kỳ nhông đang bò trên thân cây tràm. Bỗng từ xa bay nhanh lại một con chim bìm bịp chực chụp mổ kỳ nhông, chú kỳ nhông hoảng sợ chạy loanh quanh thân cây, bìm bịp cũng bay loanh quanh đuổi theo. Đứng trước cảnh đó, tôi phải làm sao? Tôi ra đuổi con bìm bịp để cứu con kỳ nhông, việc làm đó là thiện hay ác? Thấy qua dường như là thiện, cứu được sanh mạng con vật bé nhỏ, đuổi được con vật lớn hiếp đáp, đó là việc thiện chớ gì? Nhưng xét kỹ lại, quí vị thấy việc thiện đó đã thật là thiện hay chưa? Đứng về bên con kỳ nhông đây là việc thiện. Nhưng đứng về bên con bìm bịp thì thế nào? Buổi chiều đang đói, chim bìm bịp đi kiếm ăn, gặp được miếng mồi, sắp mổ ăn, mà bị người ngăn lại, làm sao khỏi sanh tức giận. Khiến kẻ khác tức giận đó là việc ác chớ gì? Như vậy việc đuổi chim bìm bịp chỉ thiện đối với con kỳ nhông mà ác đối với chim bìm bịp, thiện ác có cố định không? Xét xa hơn nữa, chẳng những ác với chim bìm bịp mà còn ác với con mồi khác nữa, vì chim bìm bịp đâu chịu nhịn đói, tức nhiên phải kiếm một con mồi khác để ăn. Và con mồi này là nạn nhân của tôi vì nó đã thế mạng con kỳ nhông, nếu nó biết việc này tức nhiên nó sẽ oán thù tôi luôn!

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy phải định thiện ác như thế nào? Thiện ác có cố định chăng? Một việc làm mới nhìn dường như là thiện, nhưng nhìn qua một khía cạnh khác lại là ác, chính đó là trong đối đãi không cố định, nghĩ làm việc thiện mà việc ác đã ở bên cạnh rồi. Thiện ác không cố định mà chấp là cố định, là chúng ta đã sai lầm. Tuy nhiên trong đối đãi, làm việc gì lợi mình lợi người là thiện, hoặc hại mình mà lợi nhiều người là thiện, còn làm việc gì lợi mình hại người là ác.

Nói lại tỉ dụ ly nước khi nãy, nó có cố định là nhơ hay sạch chăng? Một ly nước đang trong sạch, bỏ đất vào thành nhơ mất, đâu có cố định. Ly nước thành nhơ ấy, để lóng lại, lọc qua ly khác thì trở thành trong sạch. Ly nước luôn luôn đổi thay tùy duyên không cố định, nếu chấp vào một cái gì cố định là chúng ta sai lầm.

Đến tỉ dụ sự dài ngắn, một cây dài một thước để gần cây năm tấc, thì cây một thước là dài, cây năm tấc là ngắn. Khi cây một thước để gần cây hai thước thì cây một thước là ngắn, cây hai thước là dài. Như vậy chúng ta thấy tùy duyên mà cây một thước biến thành dài ngắn trong đối đãi, chớ không cố định.

Sự tốt xấu của sự vật cũng như vậy. Một món vật trung bình để gần một vật tốt thì trở thành xấu, nếu để gần một vật xấu hơn thì trở thành tốt. Cái tốt biến thành xấu hay cái xấu biến thành tốt là tùy duyên thay đổi, không có cái xấu tốt cố định, nếu chấp vào sự vật cố định tức là sai lầm.

Cũng như vậy, tất cả các pháp thế gian đều là đối đãi không cố định, nếu thấy các pháp không cố định là thấy đúng như thật, nếu thấy các pháp cố định là thấy sai lầm, tức là khổ vậy.

Học kinh Bát-nhã là phá chấp, nếu biết tất cả là không cố định thì còn chấp vào cái gì? Cho nên nói không phải tất cả, không có nghĩa là không có, mà ngay nơi đó thành tất cả. Bởi vì cái không cố định này không phải là cái gì hết, không phải tất cả mà tùy duyên thành lập tất cả.

Tinh thần Bát-nhã chỉ cho chúng ta thấy rõ tất cả các pháp đối đãi ở thế gian này là không có thật. Không thật là tướng tùy duyên không cố định, không cố định nên luôn luôn thay đổi theo duyên, theo duyên thay đổi nên không ở mãi một vị trí, không ở mãi một hình thức, không ở mãi một hoàn cảnh nào, luôn luôn tùy thời chuyển biến đổi thay.

Như vậy cái chuyển biến đổi thay tùy thời tùy duyên gọi là không cố định. Nhìn thấy rõ như vậy là thấy đúng như thật, gọi là thấy bằng trí tuệ Bát-nhã. Nếu thấy một bên là thấy bằng thiên chấp, tức là thấy lầm. Nếu thấy bằng thiên chấp là cái thấy của vô minh, không bao giờ thấy đạo. Nếu thấy đúng như thật là thấy bằng trí tuệ, là thấy đạo.

Câu chuyện thiền sau đây cho chúng ta thấy các pháp tùy duyên chuyển biến. Thiền sư Đạo Ngô và đệ tử là Tiệm Nguyên đi đám tang của một thí chủ. Khi ấy Tiệm Nguyên vỗ quan tài hỏi thầy: Đây là sanh hay tử? Ngài Đạo Ngô trả lời: Sanh không nói, tử cũng không nói. Tiệm Nguyên tức quá hỏi lại thầy: Tại sao không nói? Ngài Đạo Ngô chỉ trả lời: Không nói! Không nói!

Tiệm Nguyên càng tức, vì sao thầy không nói tử mà cũng không nói sanh. Sau khi xong đám ra về, đi ngang qua cánh đồng, Tiệm Nguyên lại thưa: Thầy phải nói cho con nghe, thầy không nói con sẽ đánh thầy. Vị thầy bảo: Đánh thì đánh, nhất định không nói. Ông học trò liền thoi vị thầy. Khi về đến chùa vị thầy bảo: Thôi chú hãy cuốn gói đi đi, nếu Tri sự hay việc này chú sẽ không yên. Tiệm Nguyên đành phải ra đi. Sau khi rời thầy, Sư cất một cái am ở xa để tu, Sư cứ mãi băn khoăn vấn đề tại sao không phải sanh, không phải tử, vì sao sanh tử đều không nói? Cho đến một đêm nghe am ở gần bên tụng kinh Phổ Môn, đến câu: “ Ưng dĩ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thân nhi vị thuyết pháp…” Khi nghe đến đây Sư liền ngộ. Như vậy tại sao Tiệm Nguyên ngộ? Tại sao ngài Đạo Ngô không chịu nói sanh hay tử? Chúng ta quen sống trong đối đãi cho nên chấp cái gì cũng thật hoặc là sanh hoặc là tử. Nhưng theo tinh thần Bát-nhã thì sanh tử không cố định; nếu là sanh thì không tử, nếu là tử thì không sanh. Nhưng trong vòng luân hồi sanh tử không dừng: tử rồi lại sanh, sanh rồi lại tử, không cố định, nếu nói là sanh hay là tử là nói một bên. Cho nên vị thầy thà để học trò đánh mà không nói. Sau này ngài Viên Ngộ bình rằng: “ Thật là ông thầy vì trò mà máu ra lênh láng”. Thầy đã hy sinh tột độ để nhờ đức hy sinh đó người học trò mới ngộ. Nhưng Tiệm Nguyên đã ngộ cái gì? Khi nghe tụng: Nếu cần dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để độ, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà vì đó nói pháp… Như vậy là tùy duyên mà hiện chớ không có cái gì cố định cả. Đó là chỗ Tiệm Nguyên đã ngộ. Ngài đã thấy đạo.

Trong kinh Pháp Bảo Đàn, lời di chúc của Lục tổ cũng dạy như vậy. Lục tổ bảo: Nếu người hỏi tối thì lấy sáng đáp, hỏi có thì lấy không đáp. Ví dụ hỏi thế nào là tối, đáp không sáng. Hỏi thế nào là có, đáp chẳng phải không. Dạy cách đối đáp như vậy, Lục tổ muốn chỉ cho chúng ta thấy tối sáng là tướng đối đãi không thật, không thật là không cố định, là tướng tùy duyên. Nếu nói là tối là sáng, là cố định, tức nhiên khiến người ta chấp vậy. Thà nói không phải tối, không phải sáng để người nghe thầm nhận tối và sáng là tướng đối đãi không cố định. Có và không cũng lại như vậy, sở dĩ có là đối với không mà nói, chớ đâu có thật. Biết các pháp không thậât là thấy đạo. Lục tổ đã ứng dụng triệt để tinh thần Bát-nhã trong cách đối đáp về các tướng đối đãi tùy duyên.

Trong nhà Thiền, khi được hỏi những gì còn chấp một bên, các thiền sư thường đưa hai ngón tay lên để chỉ rằng người hỏi còn kẹt ở hai bên, tức chưa thấy đạo. Dùng trí tuệ Bát-nhã thấy các pháp là tướng tùy duyên không cố định, đó là cửa vào nhà thiền, là cửa không, tức là không cố định vậy. Các pháp biến chuyển tùy duyên, vật này biến thành vật kia thấy đúng như vậy gọi là trí tuệ Bát-nhã thấy đúng như thật, và đó cũng hợp với tinh thần khoa học hiện nay.

Pháp thế gian không cố định, còn pháp xuất thế có cố định không? Pháp Phật nói như những thứ thuốc để trị bệnh cho chúng sanh, chúng sanh có những bệnh gì đức Phật lập ra những thứ thuốc ấy, vì vậy thuốc và bệnh là hai cái đối đãi nhau thì làm sao thật được? Nếu cố chấp là thật tức là cố định, là sai lầm mất rồi. Cho nên nói không phải vô minh… cho đến không phải hết lão tử là để phá chấp của Tiểu thừa cho Tứ đế và Thập nhị nhân duyên là thật pháp. Chẳng qua vì chúng sanh có những bệnh nên đức Phật phải lập những phương thuốc để trị, nếu bệnh hết rồi thì thuốc cũng phải bỏ. Vì vậy pháp Tứ đế và Thập nhị nhân duyên đức Phật tạm lập ra để trị bệnh cho chúng sanh, nếu chúng ta chấp cho là thật pháp thì sai lầm.

Trí và đắc của Bồ-tát cũng không thật. Thật ra trên thế gian này không có cái sở đắc. Nếu có cái sở đắc là có cái bị được, tất phải có cái hay được; hay được và bị được là đối đãi nhau, năng và sở đối đãi nhau thì làm sao thật được. Cho nên nói không trí cũng không đắc để phá luôn cái chấp trí đắc của Bồ-tát.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu kính Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề .

Vì không có chỗ được, nên Bồ-tát y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu kính Niết-bàn. Chư Phật trong ba đời cũng nương Bát-nhã ba-la-mật-đa, được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Niết-bàn là vô sanh, tức là không sanh không diệt. Chúng sanh vì bị các thứ điên đảo và mộng tưởng, tức là những cái nhìn trái với sự thật, và những cái tưởng mơ màng không đúng lẽ thật, cho bản thân mình về tâm lý cũng như sinh lý là thường nhất và có chủ tể. Thấy như vậy là điên đảo, sai lầm không sáng suốt. Vì không sở đắc, nên Bồ-tát nương trí tuệ cứu kính xa lìa được các điên đảo mộng tưởng. Nhờ trí tuệ cứu kính ấy, các Ngài hoàn toàn thoát ly sanh tử nên nói là cứu kính Niết-bàn.

Chư Phật trong ba đời cũng nương Bát-nhã ba-la-mật-đa, được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tức là thành Phật.

Vì không sở đắc, Phật nhân trí tuệ Bát-nhã mà được thành Phật. Vì không sở đắc, Bồ-tát nhân trí tuệ Bát-nhã mà xa lìa tất cả sai lầm được an ổn Niết-bàn. Chính là vô đắc mà đắc, đây là tinh thần Bát-nhã. Như trong kinh Kim Cang, Phật nói: “…Do thật không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên đức Phật Nhiên Đăng mới thọ ký cho ta rằng: Ở đời sau, ông sẽ được thành Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni”.

Chúng ta tu theo Phật phải đi đường nào để được Niết-bàn, để xa lìa điên đảo mộng tưởng, để thành Phật? Tức là phải dùng trí tuệ Bát-nhã, nên ở đây nói:

Cố tri Bát-nhã ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.

Nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ được hết thảy khổ, chân thật không dối.

Vì sao trí tuệ Bát-nhã lại có diệu dụng như là đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú? Vì ngày xưa ở Ấn Độ, những chú này thường được dùng để trừ hết các khổ của chúng sanh. Cũng như vậy, trí tuệ Bát-nhã có đủ công dụng như những thần chú ấy, chân thật không dối, đó là diệu dụng của Bát-nhã.

Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú tức thuyết chú viết: Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha.

Vì vậy nói chú Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền nói chú rằng: Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha.

Vì sao đã nói trí tuệ Bát-nhã là đại thần chú, là đại minh chú… có diệu dụng trừ tất cả khổ, chân thật không dối, lại còn nói thêm câu chú Yết-đế, yết-đế… chi cho thừa.

Cách kết thúc bài Bát-nhã Tâm kinh này là một nghi vấn cho chúng ta. Có những nhà khảo cứu giải rằng: Trong thời trung kỳ Phật giáo (thời kỳ Bát-nhã), Mật tông đã chen vào trong giáo tức là trong kinh điển cho nên rốt sau bài Bát-nhã Tâm kinh có một câu chú để kết thúc.

Nhưng với cái nhìn của Thiền sư thì không phải như vậy. Thiền sư thấy câu chú ở phần kết thúc là đúng nghĩa Tâm kinh. Vì sao? Chúng tôi xin trích dẫn câu nói của Thiền sư Duy Tín: “Trước khi gặp thiện tri thức, tôi thấy núi sông là núi sông. Sau khi gặp thiện tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Sau ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông”. Chúng tôi sẽ lần lượt giải thích để quí vị nhận rõ:

1- Trước khi gặp thiện tri thức, thấy núi sông là núi sông: Khi chưa học Bát-nhã, chúng ta thấy núi sông là núi sông, vì chúng ta thấy tất cả pháp thế gian đều là thật. Núi thật là núi, sông thật là sông. Pháp nào cũng thật, pháp nào cũng cố định cả.

2- Khi gặp thiện tri thức chỉ dạy, thấy núi sông không phải là núi sông: Khi học Bát-nhã rồi, chúng ta thấy tất cả pháp tùy duyên, tất cả pháp không cố định, cho nên núi không phải là núi, sông không phải là sông. Ví dụ như vì một nguyên do nào, quả đất chúng ta đang ở bỗng rung rinh sụp đổ, núi cao có thể biến thành biển cả, sông ngòi lại hóa thành đồi nổng v.v... Vì vậy các pháp đều tùy duyên, không cố định, nên núi sông không phải là núi sông, tức là thấy đúng trí tuệ Bát-nhã.

3- Sau ba mươi năm, thấy núi sông là núi sông: Ba mươi năm hành thâm Bát-nhã rồi, mới thấy núi sông là núi sông. Nhận thấy núi sông là núi sông ở đây, có giống với nhận thấy núi sông là núi sông thuở trước, khi chưa gặp thiện hữu tri thức không? Chắc hẳn là không! Khi xưa thấy núi sông là thật, đến khi dùng trí tuệ Bát-nhã quán chiếu, biết núi sông là tướng tùy duyên không cố định. Khi biết các pháp hư dối, tùy duyên nên tâm không còn chấp một pháp nào, tức không còn dính mắc vào một pháp nào cả, gọi là tâm vô quái ngại, được cứu kính Niết-bàn, đó là đến chỗ như như. Tâm như như rồi, thấy núi là núi, sông là sông, không khởi phân biệt, không còn dính mắc. Thấy núi là núi, sông là sông là cái thấy của Thiền sư, là sống được với bản tâm thanh tịnh của mình tức là tâm kinh vậy. Kết thúc bằng tâm kinh, tức là kinh này nói thẳng vào tâm, là chỗ không có ý niệm, không khởi phân biệt: núi là núi, sông là sông.

Chúng tôi xin dẫn thêm bài kệ của Thiền sư Trì Bát đời Lý, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Khi sắp tịch Ngài nói kệ:

Hữu tử tức hữu sanh
Hữu sanh tức hữu tử
Tử vi thế sở bi
Sanh vi thế sở hỉ
Bi hỉ lưỡng vô cùng
Hốt nhiên thành bỉ thử
Ư chư sanh tử bất quan hoài
Án tố rô tố rô tất rị.

Dịch:

Có tử tức có sanh
Có sanh tức có tử
Tử là người đời buồn
Sanh là người đời vui
Buồn vui hai không cùng
Bỗng nhiên thành bỉ thử
Đối với sanh tử không bận lòng
Án tố rô tố rô tất rị.

Có tử tức có sanh, có sanh tức có tử. Tử là người đời buồn, sanh là người đời vui. Vì vậy để kỷ niệm ngày sanh, người ta gọi là ăn mừng sinh nhật, còn nhớ tưởng đến ngày mất, người ta buồn sợ nên gọi là ngày kỵ cơm. Vui buồn, hai cái không cùng tột, bỗng nhiên thành ra có kia, có đây, trong vòng đối đãi. Đối với sanh tử không bận lòng, tức không còn thấy hai bên, nghĩa là không còn cố chấp hai bên nữa. Không còn cố chấp thật sanh, không còn cố chấp thật tử, thì như thế nào? Án tố rô tố rô tất rị! Ý nghĩa câu thần chú này là gì? Tức là khi người ta không còn chấp hai bên thì tâm hết dính mắc. Tâm hết dính mắc tức đến chỗ như như. Đọc câu chú ấy lên mà không dấy niệm phân biệt, đó là như như. Như vậy, khi kết thúc bằng mấy câu thần chú là để nói dùng trí tuệ Bát-nhã đến chỗ cứu kính rồi, thì tâm thể như như, đó tức là Tâm kinh. Các Thiền sư thời xưa hay dùng câu thần chú để kết thúc, như Quốc sư Tông Cảnh đã dùng “Án tố rô tố rô tất rị” để kết thúc bài tán ngài Tuệ Trung Thượng sĩ.

III. KẾT THÚC

Bát-nhã chia làm ba phần: Văn tự Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã, Thật tướng Bát-nhã. Văn tự là chữ nghĩa để chúng ta đọc tụng, hiểu nghĩa. Quán chiếu là xem xét soi thấu. Thật tướng là chỗ chân thật Niết-bàn. Văn tự Bát-nhã ví như con thuyền, quán chiếu Bát-nhã ví như ra công chèo bơi, thật tướng Bát-nhã ví như bờ bên kia. Người muốn qua bờ bên kia, khi xuống thuyền rồi hài lòng ở đó thì không bao giờ toại nguyện, cần phải chèo bơi mới mong tới bờ kia, đến bờ rồi chúng ta mới tự tại đạt được sở nguyện của mình. Vì thế kinh này đặt nặng ở hai chữ chiếu kiến, tức là quán chiếu Bát-nhã.

Trong bài Bát-nhã Tâm kinh, nếu chúng ta ứng dụng triệt để thì con đường tu hành đã sẵn đầy đủ trong đó chớ không đâu xa. Nếu chúng ta hằng dùng trí tuệ Bát-nhã soi mãi, thấy rõ ràng tất cả thân cảnh đều là duyên hợp không có tự tánh, tức là không cố định. Bởi tất cả pháp đều là tùy duyên biến đổi không cố định, thử hỏi chúng ta nhằm vào đâu mà chấp? Nếu chấp là chấp vào cái gì cố định. Bây giờ không cố định là phải, không cố định là quấy, không cố định là hơn, không cố định là thua, tất cả đều không cố định thì thử hỏi chấp vào cái gì? Phá hết các chấp rồi là hết khổ, hết khổ thì tâm không còn bị ngăn, bị chướng, dứt hết các điên đảo mộng tưởng, được hoàn toàn không sanh không diệt. Đây tức là Tâm kinh. Tâm kinh là con đường chư Bồ-tát đã đi, chư Phật cũng từ đó mà chứng đạo. Ngày nay chúng ta tu, đâu có lối nào khác hơn, cho nên các thời kinh đều dùng bài Bát-nhã Tâm kinh để kết thúc.

Thế mà có lắm người hiện nay không nhận thấy Bát-nhã là trí tuệ phá các chấp mê lầm của chúng sanh, mà cho bài Bát-nhã là để bổ túc những thiếu sót trong bài tụng ở trước, đó là một điều hết sức sai lầm. Ông cha quá thông minh, đến con cháu quá dốt nát, không hiểu được ý người xưa, nên nói lệch lạc ngược lại với ông cha của mình.

Người học đạo nếu thật tình muốn tiến tu để thoát ly sanh tử, thì không ai mà không ứng dụng trí tuệ Bát-nhã. Chính Lục tổ ngộ cũng từ kinh Kim Cang Bát-nhã, đến khi dạy Ngài cũng lấy phẩm Bát-nhã làm quan trọng; và đến giờ phó chúc Ngài cũng dùng tinh thần Bát-nhã để nhắc nhở đồ đệ. Cửa Thiền là cửa không. Không đây là không cố định. Dùng trí tuệ Bát-nhã thấy các pháp không cố định là thấy cửa vào nhà Thiền.

Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa việc ứng dụng tu hành: Hằng dùng trí tuệ Bát-nhã quán chiếu thân ngũ uẩn là tướng duyên hợp không thật, trần cảnh cũng là tướng duyên hợp không thật, hằng nhận thấy như vậy tức nhiên chúng ta bớt chấp thật. Khi biết các pháp là không thật, thì vọng tưởng sẽ giảm dần và chúng ta mới buông bỏ vọng tưởng dễ dàng hơn. Thân tứ đại không thật, tâm vọng tưởng không thật thì dù ai có khen có chê, chúng ta cũng chẳng bận lòng, phiền não chấp trước càng ngày càng nhẹ bớt đi. Dùng trí tuệ Bát-nhã ứng dụng vào việc tu hành thì chúng ta tu sẽ được an ổn nhẹ nhàng và thảnh thơi.

Biết các pháp là tướng tùy duyên không cố định thì nói sao cũng tốt, không có gì quan trọng. Người đời nói là phải ta cũng gật đầu, người đời nói quấy ta cũng gật đầu, vì tùy theo thời gian, hoàn cảnh mà người ở thế gian cho là phải hay quấy. Nhưng trên phương diện tu hành, chúng ta biết các pháp là không thật thì buông xả dễ dàng không chấp trước, việc phải quấy là tướng đối đãi tùy duyên, có gì mà phải bận lòng! Nói thế, không có nghĩa chúng ta là kẻ ba phải, vì ba phải là kẻ ngu si nói gì cũng gật, còn chúng ta sống bằng trí tuệ Bát-nhã thấy rõ lẽ thật của cuộc đời nên không cố chấp. Chấp là ngu si đau khổ, hết chấp là giải thoát Niết-bàn.

Nguồn: http://www.nhanmonquan.ne...tin/showthread.php?t=4679
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Can Tương - Mạc Da
Tác giả: (Không rõ)



(Theo Tam Quốc Chí Truyền thuyết cổ sự)

Thời Xuân Thu, kiếm do nứoc Việt rèn có độ cứng, dẻo và sắc nhọn… hơn hẳn các chư hầu. Nguyên nhân vì nước Việt chẳng những có quặng mỏ sắt thép tốt, mà còn có những nghệ nhân chuyên rèn kiếm. Trong số đó, nổi tiếng nhất là Can Tương.

Can Tương và Âu Dã Tử cùng bái sư học rèn luyện kiếm và từng hợp tác rèn ba thanh kiếm: “Long Uyên”, “Thái A” và “Công Bố”. Về sau, Can Tương đến nước Việt kết hôn cùng nàng Mạc Da. Hai người rèn các nông cụ kiếm sống qua ngày, nhưng đôi khi cũng rèn kiếm. Ngày tháng trôi qua, người ta ngỡ ông là người nước Ngô.

Chất lượng sắt thép không bằng nước Việt, các thiết bị rèn luyện cũng rất hạn chế, nên kiếm của Can Tương rèn ở đây, không tốt bằng những thanh kiếm mà ông với Âu Dã Tử rèn trước kia, nhưng dù sao vẫn tốt hơn nhiều so với những thanh kiếm của các thợ rèn ở nước Ngô. Do vậy, ông cũng có tiếng tăm không nhỏ.

Năm 514 trước công nguyên, Ngô Vương Hạp Lư lên tức vị. Vì muốn tăng cường thực lực quân sự, ông rất coi trọng binh khí. Kiếm – binh khí chủ yếu tác chiến đương thời, là loại vũ khí phổ thông của binh tướng, vua quan. Vả lại binh sĩ nước Ngô thường đi bộ nên nhu cầu về kiếm càng nhiều. Do đó, Hạp Lư lên ngôi chưa được bao lâu, bèn hạ lệnh thu dụng những thợ rèn giỏi và Can Tương cũng bị sung vào đội rèn kiếm. Hạp Lư nghe nói Can Tương là người giỏi nên hết sức vui mừng, muốn Can Tương rèn cho ông một cặp kiếm thật tốt.

Theo yêu cầu của Can Tương, Hạp Lư hạ lệnh mở một quảng trường rèn kiếm, điều động rất nhiều thợ, đặc biệt còn phái ba trăm đồng nam, đồng nữ chuyên lo thụt bể, sóc than…

Can Tương rèn luôn mấy thanh kiếm tốt, nhưng sau khi dâng lên đều bị Hạp Lư trả về, vì chất kiếm còn thua thanh kiếm của Âu Dã Tử đã rèn cho ông đang dùng. Can Tương nhờ người bẩm lại:
– Nhờ ông về bẩm báo với Đại Vương, kiếm muốn rèn tốt, nhất định phải có sắt thép tốt, hỏa hầu thích hợp và kỹ thuật cao, nếu thiếu một trong ba thứ đó thì không thể được. Kỹ thuật của tôi và sư huynh Âu Dã Tử không ai hơn kém, nhưng sắt thép và hỏa hầu ở đây không bằng ở nước Việt.

Nghe giải thích như thế, Hạp Lư đồng ý, nhưng vẫn ra thời hạn trong vòng ba tháng, Can Tương phải rèn được kiếm tốt, nếu không sẽ bị tội.

Can Tương hối hả làm với thời gian eo hẹp ấy. Mạc Da cũng giúp chồng lo liệu than lò. Nhưng đã gần hai tháng mà thép trong lò vẫn chưa dung hóa. Một hôm, Mạc Da hỏi Can Tương:

– Thép đến nay vẫn chưa dung hóa, phải chăng chất thép có vấn đề ?

– Hẳn vậy. Năm ấy, khi tiên sư rèn lần cuối cùng, cũng gặp vấn đề thế này, sau đó…

–Sau đó thế nào ?

– Sau đó…

Can Tương ngập ngừng, đoạn tiếp:

– Sau đó, tiên sư với tiên sư mẫu phải nhảy vô lò mới dung hóa được chất thép và đã rèn nên kiếm tốt !

– Như thế, chẳng là phải bị thiêu chiết sao ?

– Rèn không được kiếm tốt, Đại Vương nước Việt cũng sẽ giết chết ông. Không ngờ hôm nay, tôi cũng gặp phải tình huống thế này.

Mạc Da vội nói nhanh:

– Tiên sư mẫu đã làm được thì thiếp cũng có thể làm được như vậy.

Can Tương nghĩ ngợi một lúc rồi nói:

– Có thể không cần phải đem cả thân mình nhảy vào trong lò lửa. Tôi nghĩ rằng, nếu như lấy tóc và máu đầu ngón tay cũng có thể làm cho thép dung hóa được.

Nghe thế, Mạc Da liền cắt mái tóc và lấy máu đầu ngón tay, đem bỏ vô lò. Quả nhiên, dưới sức thổi lò, cào bỏ và thêm than không ngừng của ba trăm đồng nam đồng nữ, thép đã dần dần dung hóa. Cuối cùng, hai thanh kiếm tốt đã rèn xong.

Hai thanh kiếm ấy, một thanh có vân như vảy rùa là hùng kiếm, tên gọi “Can Tương”; một thanh dợn như sóng nước là thư kiếm, tên gọi “Mạc Da”. Trải qua thử nghiệm, sắc nhọn vô cùng, có thể dùng đâm trâu ngựa, cắt sắt chém đá, còn vượt hơn cả thanh kiếm Âu Dã Tử rèn cho Hạp Lư dùng.

Về sau, người ta dùng điển tích “Can Tương - Mạc Da” để ví bảo kiếm hoặc tỉ người tài, binh khí tốt.

Nguồn: http://www.nhanmonquan.ne...tin/showthread.php?t=4648
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Những quan niệm về lịch sử văn học Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Phạm Hùng



Mỗi dân tộc đều có một lịch sử văn học thống nhất. Nhưng trong lòng mỗi dân tộc luôn có những quan điểm nghiên cứu lịch sử văn học khác nhau, ở các thời kỳ lịch sử khác nhau, hay thậm chí trong cùng một thời điểm lịch sử nhất định. Vì vậy mà việc xây dựng một bộ lịch sử vǎn học thống nhất nhiều khi tưởng chừng không thể thực hiện nổi.

Nhu cầu viết lịch sử văn học Việt Nam thực chất được đặt ra từ những năm 40 của thế kỷ này. Những bộ lịch sử văn học đầu tiên của Việt Nam được biết đến là Việt Nam học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Đại Việt văn học lịch sử của Nguyễn Sĩ Đạo, Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam văn học: Văn học đời Lý và Văn học đời Trần của Ngô Tất Tố... Đó là những tác phẩm đầu tiên của lớp người "khai sơn phá thạch" cho một ngành khoa học mới mẻ và vô cùng quan trọng: Ngành nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam.

Trải qua hơn nửa thế kỷ, qua bao biến cố lịch sử, ngành nghiên cứu lịch sử văn học không ngừng phát triển. Các nhà nghiên cứu văn học sử, từ nhiều góc nhìn khác nhau, đã không ngừng đi sâu khám phá lịch sử văn học dân tộc, và xây dựng những bộ lịch sử văn học ngày càng có giá trị khoa học, góp phần nâng cao tri thức cho nhân dân.

Hiện nay tại Việt Nam có tới vài chục cuốn lịch sử văn học. ở đây, chúng tôi không nói tới chất lượng của các cuốn lịch sử văn học đó. Điều đáng bàn là, chúng ta chưa có quan điểm và phương pháp biên soạn lịch sử thống nhất. Sự không thống nhất này đã tồn tại hơn nửa thế kỷ qua, là do những tư tưởng khoa học, chính trị, xã hội khác nhau, do bối cảnh lịch sử phức tạp của nước Việt Nam đưa lại. Chúng tôi thấy có bốn quan điểm chính đã tồn tại trong ngành nghiên cứu lịch sử văn học:

1. Quan điểm lấy ngôn ngữ văn học làm căn cứ để nghiên cứu lịch sử văn học đã xuất hiện từ rất sớm. Người đầu tiên đề xướng có lẽ là ông Nguyễn Sĩ Đạo, vào năm 1941. Sau đó được hàng loạt các nhà nghiên cứu khác phát triển như Thanh Lãng, Phạm Văn Diêu, Hà Như Chi, Thạch Trung Giả, Phạm Thế Ngũ, Vũ Tiến Phúc... Ở miền nam trước đây; và nhóm nghiên cứu Lê Quý Đôn, ở miền bắc trước đây. Bản Vũ Tiến Phúc đã từng trở thành "Cương lĩnh Việt văn sử" của Bộ Quốc gia giáo dục Sài Gòn cũ.

Quan điểm này tồn tại trên 30 năm, từ 1941 đến 1975. Nhược điểm rõ nhất của quan điểm văn học sử này là, nó chỉ chấp nhận lịch sử văn học là lịch sử của các tác phẩm bằng chữ Việt, tiếng Việt. Nó gạt ra ngoài lịch sử văn học bất kỳ tác phẩm nào nếu không được viết bằng chữ Việt (chữ Nôm trước đây và chữ quốc ngữ ngày nay), dù đó là tác phẩm của người Việt, sáng tác về đất nước Việt, phản ánh tâm hồn, tình cảm, tâm lý, tư tưởng người Việt. Quan điểm này gạt bỏ toàn bộ các tác phẩm chữ Hán của chúng ta ở thời phong kiến ra khỏi lịch sử văn học, gạt bỏ toàn bộ những tác phẩm bằng tiếng nước ngoài của người Việt ở thời cận hiện đại ra khỏi lịch sử văn học. Và đương nhiên, những tác phẩm bằng tiếng Pháp như Truyện ký, Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc, những tác phẩm về dân quyền... của Phan Chu Trinh cũng chịu chung số phận. Những tác phẩm bằng tiếng Hán như Ngục trung nhật ký của Nguyễn Ái Quốc, Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu cũng chịu hoàn cảnh tương tự...

Lịch sử văn học Việt Nam, theo quan điểm này, thật nghèo nàn và phiến diện. Nó chỉ bắt đầu một cách mơ hồ từ thế kỷ 13 với một vài tác phẩm Nôm không tiêu biểu. Và nhiều nhà văn, nhà thơ được xem xét chỉ ở một vài phương diện, thậm chí rất mờ nhạt của sự nghiệp sáng tác (ví dụ như Cao Bá Quát).

Mặt khác, việc thẩm định giá trị các tác phẩm bằng tiếng Việt này cũng rất hạn chế, chủ yếu vẫn là khai thác mặt nội dung phản ánh, khai thác các giá trị tư tưởng của nó mà thôi.

2. Quan điểm lấy sự phát triển của các khuynh hướng tư tưởng (tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo, tư tưởng giai cấp, tư tưởng triết học, tôn giáo, pháp quyền...) làm căn cứ để nghiên cứu lịch sử văn học là quan điểm khá phổ biến từ trước đến nay. Đây cũng là một quan điểm xuất hiện từ rất sớm. Có thể thấy mầm mống của quan điểm này trong các công trình của Dương Quảng Hàm, từ 1941, của Ngô Tất Tố, từ 1942, của Kiều Thanh Quế, năm 1943, và sau này là của Nghiêm Toản, năm 1949... Đặc biệt, quan điểm này được thể hiện trong hầu hết (tuy mức độ đậm nhạt khác nhau) các bộ lịch sử văn học của chúng ta, từ những năm 1955 đến 1975.

Việc đề cao tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo, tư tưởng đấu tranh giai cấp, phê phán xã hội cũ... trong văn học là quan điểm đúng là nên làm. Nhưng nếu chúng ta áp dụng một cách máy móc những phạm trù của lịch sử tư tưởng, văn hóa này vào việc nghiên cứu văn học, sẽ không tránh khỏi sự khiên cưỡng.

Quả tình, lịch sử văn học, theo chúng ta hình dung với quan điểm này, đã hiện ra không phải với tính toàn vẹn của nó, mà với tính khuynh hướng của nó. Mà lại chủ yếu là khuynh hướng tư tưởng chứ không phải là khuynh hướng nghệ thuật. Đó là các khuynh hướng yêu nước, khuynh hướng nhân đạo, khuynh hướng phê phán, tố cáo hiện thực, khuynh hướng thoát ly tiêu cực, khuynh hướng nhập thế tích cực, khuynh hướng văn học phản động, nô dịch, vǎn học phản cách mạng, văn học cách mạng... Cho nên, lịch sử văn học dân tộc nhiều khi được xem đồng nhất với lịch sử của các khuynh hướng tư tưởng trong văn học.

Quan điểm này không chỉ chi phối việc nghiên cứu lịch sử văn học, nó còn chi phối cả việc biên soạn các bộ hợp tuyển văn học, một "phiên bản" quan trọng của lịch sử văn học. Hợp tuyển văn học không mang tính toàn vẹn và toàn diện của bộ mặt văn học dân tộc, mà là một bộ mặt có tính khuynh hướng. Cho nên, chúng ta thấy chủ yếu xuất hiện các bộ hợp tuyển văn học yêu nước, văn học nhân đạo, văn học phê phán hiện thực...

Quan điểm này cũng chi phối việc biên soạn hệ thống sách giáo khoa ở các cấp học phổ thông, cũng như tuyển chọn những tác phẩm văn học "tiêu biểu" trong chương trình học tập ở các cấp phổ thông. Đó là những tác giả tiêu biểu cho cái gì ? Nhất định đó phải là những tác phẩm tiêu biểu cho các tư tưởng, và nhất định đó phải là các tư tưởng yêu nước, nhân đạo, đấu tranh giai cấp, tố cáo, phê phán xã hội... Biểu hiện của quan điểm này là việc ưu tiên tối đa cho một số đề tài và chủ đề văn học nhất định.

Quan điểm này cho rằng, có những khuynh hướng văn học (thực chất là khuynh hướng tư tưởng trong văn học) chạy xuyên suốt, vĩnh cửu trong cả tiến trình lịch sử văn học (khuynh hướng yêu nước, khuynh hướng nhân đạo...), có những khuynh hướng văn học là sản phẩm của những thời kỳ lịch sử cụ thể (như khuynh hướng phê phán, tố cáo xã hội, khuynh hướng thoát ly, bất mãn với thời cuộc...). Sự thay đổi, phát triển của các khuynh hướng tư tưởng trong văn học đó chính là sự thay đổi, phát triển của lịch sử văn học.

3. Gần đây, người ta chú ý tới một quan điểm viết văn học sử khác, tạm gọi là quan điểm tác gia văn học lớn. Viết văn học sử không phải là viết về tất cả lịch sử văn học, mà viết về những cái mốc lớn của lịch sử văn học, biểu hiện cụ thể ra là những tác gia văn học lớn, tác phẩm văn học lớn. Đây là quan điểm đã quen thuộc trong ngành nghiên cứu lịch sử văn học ở nhiều nước. Quan điểm này cho rằng, mỗi thời điểm sinh ra cho mình những tác gia văn học lớn tiêu biểu cho nó.

Rõ ràng quan điểm này có những ưu điểm không thể không thấy. Thứ nhất, nó bảo đảm tính toàn diện của lịch sử văn học, thứ hai, nó tỏ thái độ bình đẳng đối với cả nội dung và hình thức của tác phẩm văn học này, người ta đều "quan tâm đúng mức" tới cả nội dung và hình thức của văn học.

Nhưng quan điểm này đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Thứ nhất, những tác gia văn học lớn ấy tiêu biểu cho cái gì ? Câu trả lời là: Tiêu biểu cho cả nội dung và hình thức của văn học. Nhưng thực chất, khi đặt vấn đề như vậy, người ta đã tách rời nội dung khỏi hình thức văn học. Và đương nhiên, cái gọi là sự "quan tâm bình đẳng" tới cả nội dung và hình thức văn học, khi vào thực tế nghiên cứu, sẽ thường là dẫn đến tình trạng bất bình đẳng. Và, như thường thấy trong các bộ lịch sử văn học, người ta sẽ quá thiên lệch, hoặc về nội dung tư tưởng, hoặc về hình thức của tác phẩm văn học. Hơn nữa, trong văn học, cũng như các ngành nghệ thuật khác, không có cái gì gọi là "bình quân vai trò" giữa nội dung và hình thức, thứ hai, không thể có một tiêu chí chặt chẽ cho cái gọi là "tác gia văn học lớn". Và thực tế có những thời kỳ lịch sử rất dài, hầu như không có một tác gia vǎn học lớn nào, hoặc có tác gia văn học lớn nhưng lại không "lớn" bằng ở thời kỳ trước đó. Vậy lịch sử văn học sẽ đứng im, hay thụt lùi ?

4. Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tới một quan điểm nghiên cứu văn học sử đã tồn tại hơn nửa thế kỷ qua tại nước Việt Nam, tạm gọi là quan điểm thể loại. Quan điểm này cho rằng, lịch sử văn học là lịch sử hình thành và phát triển của các thể loại văn học. Quan điểm này có lẽ bắt đầu xuất hiện trong Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, từ 1942, được tiếp nối qua công trình của hàng loạt các nhà nghiên cứu khác như Bùi Duy Tân, Nguyễn Huệ Chi... Nó được bộc lộ trong các hợp tuyển văn học có tính chuyên biệt về thể loại văn học như các tuyển tập thơ, tuyển tập ca trù, tuyển tập các khúc ngâm, tuyển tập phú, tuyển tập truyện, tuyển tập kịch, tuyển tập văn chính luận... của các tác giả xưa và nay. Nó được đặc biệt chú ý khi người ta giới thiệu những công trình lý luận về thi pháp thể loại của M.Bakhtin ở Việt Nam trong những năm 80.

Mặc dù quan điểm này đã xuất hiện ở nước Việt Nam khá lâu, nhưng nó vẫn là một quan điểm khoa học mới. Bởi vì, thứ nhất, nó cần phải tiếp tục hoàn thiện về mặt lý luận để đối thoại với các quan điểm văn học sử khác đang tồn tại; thứ hai, nó phải xác định được vị trí của nó trong ngành nghiên cứu lịch sử văn học, một vị trí đầy triển vọng, nhưng hiện chưa được rõ rệt.

Xét cho cùng, thể loại văn học không bao giờ đứng im. Những nhà văn lớn không bao giờ chịu dừng lại ở những hình thức phản ánh đã có. Những tác phẩm có giá trị bao giờ cũng thể hiện những tìm tòi phát hiện mới về nghệ thuật phản ánh.

Thể loại văn học luôn luôn vận động theo cách của nó chứ không phải theo cách của các yếu tố tư tưởng. Lịch sử văn học luôn luôn vận động theo cách của nó chứ không vận động theo cách của lịch sử xã hội. Nó bị cái vận động của thể loại quy định chứ không bị sự vận động của lịch sử xã hội quy định. Bởi vì, quy luật vận động của lịch sử văn học, về cơ bản, là xa lạ với quy luật vận động của lịch sử xã hội.

Thể loại văn học bị hiểu nhầm là ổn định, chậm phát triển, ít đột biến... lại là cái vận động và phát triển liên tục, không ngừng không nghỉ, trong bất kỳ không gian và thời gian nào. Nhìn nhận một cách nghiêm túc sẽ không thể tìm thấy sự đứng im nào của thể loại, trong cả tiến trình lịch sử, trong từng thời gian lịch sử, thậm chí trong từng tác gia văn học. Các nhà văn (kể cả thời trung cổ) luôn luôn tồn tại trong tình trạng, một mặt, lặp lại những hình thức nghệ thuật cũ, quen thuộc và mặt khác, luôn luôn sáng tạo, tìm kiếm những hình thức nghệ thuật mới, phá vỡ những hình thức nghệ thuật cũ. Chính những mâu thuẫn, những xung đột này là hạt nhân cho sự phát triển của các phương thức phản ánh nghệ thuật, của việc biểu đạt những tư tưởng nghệ thuật mới trong văn học, và là hạt nhân của sự phát triển lịch sử văn học.

Nghiên cứu lịch sử văn học chính là nghiên cứu lịch sử phát triển của các thể loại văn học. Bởi vì, hệ thống các thể loại văn học không tách rời ngôn ngữ văn học (ngôn ngữ là đơn vị cơ sở tạo nên thể loại, và mỗi loại ngôn ngữ cũng góp phần tạo nên, hoặc lựa chọn thể loại riêng), không tách rời các giai đoạn lịch sử, các vương triều phong kiến, các thời đại lịch sử (mỗi thời đại có những yêu cầu riêng chi phối sự sản sinh hoặc lựa chọn thể loại riêng của mình), không tách rời các nghi thức giao tiếp xã hội (các nghi thức này cũng góp phần tạo ra hoặc lựa chọn thể loại thích hợp), không tách rời các nguyên tắc ứng xử, các thị hiếu và tâm lý thời đại (là những yếu tố góp phần sản sinh hay lựa chọn thể loại); không tách rời khỏi những tư tưởng triết học, tôn giáo, pháp quyền... (đó là những yếu tố chi phối việc lựa chọn hay sản sinh ra thể loại cho văn học)...

Vì vậy mà vấn đề nghiên cứu lịch sử văn học qua các thể loại vǎn học không phải là vấn đề thuần túy hình thức. Đây cũng chính là những vấn đề của nội dung, được quan tâm có tính song trùng với chính những vấn đề hình thức thể loại.

Quan điểm thể loại trong nghiên cứu lịch sử văn học đã khắc phục được các hạn chế của các quan điểm nghiên cứu khác. Nó bảo đảm được tính toàn vẹn và toàn diện của lịch sử văn học. Lịch sử văn học bao gồm tất cả các thể loại văn học hiện có tại nước Việt Nam. Mỗi thời đại có những thể loại lớn tiêu biểu. Và mỗi thời đại có những nhà văn lớn tiêu biểu cho những thể loại lớn.

Quan điểm thể loại cũng cho thấy, sẽ không có một thể loại nào là vĩnh cửu, xuyên suốt cả lịch sử văn học, không có một tư tưởng nghệ thuật nào là vĩnh cửu, xuyên suốt cả lịch sử văn học. Chỉ có tư tưởng nghệ thuật này, với một hình thức nghệ thuật này, của một thời kỳ lịch sử này. Thể loại luôn mang tính lịch sử. Nó chính là tính lịch sử của nền văn học dân tộc. Nó đối lập với các khuynh hướng tư tưởng, triết học, tôn giáo, pháp quyền... trong văn học, vốn có tính "vĩnh cửu" và "xuyên suốt" (một cách tương đối). Bởi vì, khuynh hướng tư tưởng đó chỉ là những phạm trù, chúng không có hình thức của riêng mình. Ví dụ: Tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo, tư tưởng giai cấp... không thể có hình thức văn học riêng thì làm sao có cái gọi là "văn học yêu nước, hay văn học nhân đạo"... với đúng nghĩa của nó ? Nếu xét từ góc nhìn này, thì khuynh hướng tư tưởng trong văn học lại là cái ít biến đổi hơn rất nhiều, vì xem ra, những biến đổi của tư tưởng yêu nước, nhân đạo... đã có cả nghìn năm, quả là không rõ rệt.

Lịch sử văn học là luôn luôn thay đổi, nhưng phải trong chiều hướng phát triển, đi lên. Quan điểm tác gia vǎn học lớn nhiều khi làm cho người ta tưởng chừng như lịch sử vǎn học đang đứng im, hoặc thụt lùi, bởi vì không phải bao giờ giai đoạn văn học sau cũng có được những tác gia văn học lớn tương đương, hoặc lớn hơn giai đoạn văn học trước. Quan điểm thể loại giúp cho người ta thấy rằng lịch sử văn học luôn phát triển, đi lên, ở chỗ những tư tưởng nghệ thuật mới, những phương thức phản ánh nghệ thuật mới luôn luôn tiến bộ hơn, tích cực hơn trong việc phản ánh đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, tâm lý... của con người, trong quá trình đưa cái phản ánh tiến gần cái được phản ánh. Vì những lẽ đó, chúng ta cần viết vǎn học sử theo quan điểm thể loại.

Tiến sĩ NGUYỄN PHẠM HÙNG

Nguồn: http://www.nhanmonquan.ne...tin/showthread.php?t=3159
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 6 trang (58 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối