Elegia o śmierci Ludwika Waryńskiego

I słucha Waryński, lecz nie wie,
że cienie się w celi zbierają,
powtarza, jak niegdyś w Genewie:
- Kochani... ja muszę do kraju...

Do Łodzi, Zagłębia, Warszawy
powrócę zawzięty, uparty...
ja muszę... do kraju, do sprawy,
do mas, do roboty, do partii...

ja muszę... - I śpiew się urywa
i myśli urywa się pasmo.
Ta twarz już woskowa, nieżywa,
lecz oczy otwarte nie gasną.

Gdzieś w górze, krzykliwy i czarny,
rój ptactwa rozsypał się w szereg,
jak czcionki w podziemnej drukarni,
gdy nocą składali we czterech...

Fabryka Lilpopa... róg Złotej...
Żurawia... adresy się mylą...
robota... tak, wiele roboty...
i jeszcze - dziesiąty pawilon...

Ach, płuca wyplute nie bolą,
śmierć w szparę judasza zaziera,
z ogromną tęsknotą i wolą
tak trudno lat siedem umierać.

Wypalą się oczy do końca,
a kiedy zabraknie płomienia,
niech myśl, ta pochodnia płonąca,
podpali kamienie więzienia!

Raz jeszcze się dźwignął na boku:
- Ja muszę... tam na mnie czekają... -
i upadł w ostatnim krwotoku
i skonał, i wrócił do kraju.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Thanh Lê

Varinxki nghe nhưng rồi không biết
bóng đen bao phủ lấy nhà tù
Người thường nói: ở Giơnevơ tôi nhớ lại
- Hỡi những người yêu... tôi phải trở về

Về thành phố Útxơ, Zagengbia và Vácxava
Tôi trở về, lòng kiêu hãnh thiết tha
Tôi phải về... quê hương yêu dấu
Về với nhân dân, với Đảng để xông pha

tôi phải... Hát đến đây bài ca lặng mất
và đến đây ý nghĩ cũng ngừng trôi
Gương mặt trông đã chết mất rồi
nhưng đôi mắt vẫn còn mở rộng

Bầy chim đen kêu vang đâu đó
Sắp thành hàng trên núi cọ, đồi hoang
như những chữ in dưới hầm nhà máy
Bốn người cùng ngồi sắp chữ giữa đêm khuya

Nhà máy Lipôva... góc đường Vàng
Ruravia... còn nhớ rành rành địa chỉ
công tác... ngày đêm không biết nghỉ
và còn mười cái nhà đang đợi những bàn tay

À, phổi ta không còn nhức nhối nữa
cái chết cũng lẩn trốn đi rồi
tám năm qua làm sao mà chết được
với tình thương và ý chí muôn đời

Đôi mắt vẫn bừng bừng cháy sáng
đến khi nào không còn một chút tàn hơi
hãy để cho tư tưởng rực muôn nơi
thiêu đốt hết đá của nhà tù lạnh ngắt

Một lần nữa Người lên tiếng nói:
- Tôi phải trở về... vì quê hương đang đợi...
Phút cuối cùng Varinxki ngã xuống
Người chiến thắng. Và bây giờ Người trở lại quê hương



[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Về nguyên tác bài thơ

Nguyên tác bài thơ trên gồm 13 khổ thơ. Dịch giả đã trích dịch 8 khổ thơ cuối. Năm khổ thơ đầu như sau:

Jeżeli nie lękasz się pieśni
stłumionej, złowrogiej i głuchej,
gdy serce masz mężne i jeśli
pieśń kochasz swobodną- posłuchaj.

Szeroka, szeroka jest ziemia,
gdy myślą ograrnąć ją lotną,
szeroko po ziemi więzienia,
głęboka w więzieniu samotność.

Już dziąsła przeżarte szkorbutem,
jużnogi spuchnięte i martwe,
już koniec, juz płuca wyplute-
lecz palą się oczy otwarte.

Poranek marcowy. Jak cicho.
Jak dziwna się jasność otwiera.
I tylko tak ciężko oddychać,
i tylko tak trudno umierać.

Posępny jak mur Schlusselburga,
głęboki jak dno owej ciszy,
zza krat, z więziennego podwórka
dobiega go śpiew towarzyszy.

Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
Chưa có đánh giá nào
Trả lời