送胡大

荊門不堪別,
況乃瀟湘秋。
何處遙望君,
江邊明月樓。

 

Tống Hồ Đại

Kinh Môn[1] bất kham biệt,
Huống nãi Tiêu Tương[2] thu!
Hà xứ dao vọng quân?
Giang biên minh nguyệt lâu.

 

Dịch nghĩa

Ở Kinh Môn đã không nỡ lòng từ biệt,
Huống nữa thu lại về trên vùng Tiêu Tương.
Biết ở nơi nào nhìn xa trông ngóng anh?
Đó là nơi lầu trăng sáng bên sông.


Hồ Đại thân thế không rõ.

Chú thích:
[1]
Nay là huyện Kinh Môn, tỉnh Hồ Bắc.
[2]
Tiêu Tương ( 26.253,111.607): Là nơi hợp lưu của hai con sông Tiêu thuỷ 瀟水 và Tương thuỷ 湘水 (hay Tương giang 湘江) để chảy vào hồ Động Đình, và cũng là tên vùng đất ở đây, thời xưa thuộc nước Sở, nay là trấn Tiêu Tương ở địa phận huyện Linh Lăng 零陵, tỉnh Hồ Nam 湖南, Trung Quốc. Sông Tiêu có tên khác là Doanh thuỷ 營水, phát nguyên từ núi Cửu Nghi, chảy đến Vĩnh Châu thì hợp lưu với sông Tương. Sông Tương phát nguyên ở huyện Hưng An, tỉnh Quảng Tây. Ở đây phong cảnh rất thê lương buồn bã, và có nhiều cảnh đẹp, thường được dùng làm đề tài cho thơ và hoạ, như Tiêu Tương bát cảnh 瀟湘八景.

Nơi đây thường là chỗ chia tay để mỗi người đi mỗi ngả, cho nên văn thơ thường dùng trong cảnh biệt ly. Nơi bờ sông Tương xưa kia hai bà vợ ông Thuấn đứng khóc chồng, nước mắt hoà máu rơi vào trúc thành những đốm thâm. Cho nên có chữ “giọt Tương” là giọt nước mắt, “khúc Tiêu Tương” là khúc đàn buồn về nỗi ly biệt.

Khúc sông Tiêu Tương liền với sông Mịch La là nơi Khuất Nguyên đã trầm mình.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (10 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Tản Đà

Non Kinh biệt đã đau lòng,
Nữa chi thu lại hai dòng Tiêu, Tương!
Nhớ anh, xa ngóng dặm trường,
Bên sông dưới bóng trăng suông tựa lầu.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Kinh Môn chưa nỡ biệt,
Huống nữa thu Tiêu Tương!
Đâu chốn nhìn theo bạn?
Lầu sông trăng tỏ gương.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Anh Nguyên

Kinh Môn từ biệt sao đành,
Huống Tiêu Tương lá trên cành vào thu!
Trông anh đâu tít xa mù?
Bên sông, lầu dưới trăng thu, đứng nhìn...


Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Kinh Môn bịn rịn giã từ
Tiêu Tương sớm đã vào thu lúc nào
Biết làm sao thấy được nhau
Lầu sông trăng sáng làu làu như gương


Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Ở Kinh Môn chia tay không nổi
Huống chi giờ thu cõi Tiêu Tương
Dõi theo ông chốn dặm trường
Lên lầu trăng sáng như gương đứng nhìn.


Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Khuyết danh Việt Nam

Núi Kinh giã biệt đã buồn rầu
Lại ở sông Tương thấy cảnh thu
Nhớ bạn nơi nào xa ngắm mãi
Trên sông trăng tỏ thấy tầng lầu


Bản dịch từ Đường thi trích dịch 唐詩摘譯 (ký hiệu VNv.156) đời Nguyễn.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Đông Phong

Kinh Môn chẳng thể chia tay
Làm sao biệt được chốn này Tiêu Tương
Nơi nào xa ngóng bạn mong
Trên lầu trăng sáng bên sông dãi lòng.


Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Từ biệt Kinh Môn không nỡ lòng,
Thu về huống nữa chốn Tiêu Tương.
Nhìn xa biết ở nơi nào ngóng?
Trăng sáng nơi lầu bên bến sông.


Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Tam Ngng

Kinh Môn chịu hết siết,
Hà huống thu Tiêu Tương!
Đâu chỗ ngồi trông ngóng?
Lầu trăng bên bến sông.


Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Nam Thắng

Kinh Môn tiễn biệt vấn vương
Huống chi thu đã Tiêu Tương đất này
Nơi nào biết ngóng ông đây
Trên lầu trăng sáng gió mây bên dòng


Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời