葛溪驛

缺月昏昏漏未央,
一燈明滅照秋床。
病身最覺風露早,
歸夢不知山水長。
坐感歲時歌慷慨,
起看天地色淒涼。
鳴蟬更亂行人耳,
正抱疏桐葉半黃。

 

Cát Khê dịch

Khuyết nguyệt hôn hôn lậu vị ương,
Nhất đăng minh diệt chiếu thu sàng.
Bệnh thân tối giác phong lộ tảo,
Quy mộng bất tri sơn thuỷ trường.
Toạ cảm tuế thì ca khảng khái,
Khởi khan thiên địa sắc thê lương.
Minh thiền cánh loạn hành nhân nhĩ,
Chính bão sơ đồng diệp bán hoàng.

 

Dịch nghĩa

Trăng khuyết mờ ảo, nước nhỏ giọt trời chưa sáng
Đèn chiếu chập chờn vào giường thu
Thân bệnh nên rất nhạy cảm với gió sương
Mộng về nên thấy núi sông không xa
Ngồi nghĩ đến năm tháng trôi mà ca khảng khái
Đứng dậy nhìn trời đất thấy một màu thê lương
Ve kêu loạn cả tai người đi đường
Chúng nép vào cây đồng thưa lá đã nửa vàng


Bài này tuyển từ Lâm Xuyên Vương tiên sinh kinh công văn tập quyển 721, bản Gia Tĩnh đời Minh. Cát Khê ở phía tây huyện Dặc Dương, Sơn Tây, còn có tên là Tây Khê.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Trăng khuyết mông lung đêm chửa qua
Giường thu leo lét ánh đèn khuya
Gió sương thân bệnh xem chừng nhạy
Sông núi mộng về thấy chẳng xa
Ngồi nghĩ tháng năm ca khảng khái
Dậy nhìn trời đất vẻ phôi pha
Trên đường tai khách ve kêu loạn
Ôm gốc đồng thu lá úa thưa.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Lất phất mưa đêm trăng khuyết mờ,
Ngọn đèn leo lét chiếu giường thu.
Gió sương thân bệnh còn kiêng cử,
Sông núi thấy gần trong mộng mơ.
Năm tháng ngẫm đời ca khảng khái,
Đất trời nhìn thấy vẻ lơ thơ.
Ve kêu loạn cả tai hành khách,
Ôm gốc đồng thưa lá phạc phờ.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời