15.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong
Thời kỳ: Trung Đường
6 bài trả lời: 6 bản dịch

Đăng bởi Vanachi vào 09/07/2006 07:49

水夫謠

苦哉生長當驛邊,
官家使我牽驛船。
辛苦日多樂日少,
水宿沙行如海鳥。
逆風上水萬斛重,
前驛迢迢後渺渺。
半夜緣堤雪和雨,
受他驅遣還復去。
衣寒衣濕披短蓑,
臆穿足裂忍痛何?
到明辛苦無處說,
齊聲騰踏牽船出。
一間茆屋何所直?
父母之鄉去不得。
我願此水作平田,
長使水夫不怨天。

 

Thuỷ phu giao

Khổ tai sinh trưởng đương dịch biên,
Quan gia sứ ngã khiên dịch thuyền.
Tân khổ nhật đa lạc nhật thiểu,
Thuỷ túc sa hành như hải điểu.
Nghịch phong thướng thuỷ vạn hộc trọng,
Tiền dịch thiều thiều hậu diêu diêu.
Bán dạ duyên đê tuyết hoà vũ,
Thụ đa khu khiển hoàn phục khứ.
Dạ hàn y thấp phi đoản soa,
Ức xuyên túc liệt nhẫn thống hà?
Đáo minh tân khổ vô xứ thuyết,
Tề thanh đàng đạp khiên thuyền ca.
Nhất gian mao ốc hà sở trị?
Phụ mẫu chi hương khứ bất đắc!
Ngã nguyện thử thuỷ tác bình điền,
Trường sử thuỷ phu bất oán thiên.

 

Dịch nghĩa

Khổ thay! Đời người sinh trưởng và làm việc bên cung trạm
Ở đó, nhà quan sai nha bảo ta kéo thuyền trạm luôn ngày
Ngày khổ thì nhiều ngày vui thì ít
Đêm ngủ thuyền, ngày kéo thuyền bên bãi cát lầy khác chi con chim biển
Đội gió đội mưa kéo thuyền nặng hàng vạn hộc
Phía trước trạm đường xa vời vợi, phía sau trạm đường đã hun hút
Nửa đêm dọc ven đê mặc dầu mưa gió tuyết
Vẫn phải chịu nhà quan sai bảo thoắt đến thoắt đi
Đêm xuống lạnh áo thấm ướt khoác áo tơi ngắn
Ngựa xây xát chân nứt toác, chịu đau thế nào đây?
Sáng ra mệt rũ nói đâu cho hết
Vẫn phải cất cao giọng đồng thanh vừa làm vừa hát theo nhịp kéo thuyền
Một túp lều tranh hỏi được bao nhiêu tiền?
Chỉ hiềm nỗi quê hương ta không nỡ bỏ
Ta mong cho mặt nước sông này trở thành nơi ruộng đồng bằng phẳng
Để phu thuyền mãi mãi không oán trời xanh nữa.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (6 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Danh Đạt

Khốn thay! Sống ở bến cung
Kéo thuyền cho trạm cúc cung suốt ngày
Khổ nhiều vui ít xưa nay
Lăn như chim biển đêm ngày thuyền trôi
Nặng thuyền gió táp mưa rơi
Đường đi hun hút chặng dời bao nơi
Dọc đê mưa tuyết tơi bời
Vẫn quen sai bảo thoắt rời thoắt lui
Đêm về áo ướt khoác tơi
Ngựa đau chân toác dám rời tay chân?
Sáng nay mệt rũ toàn thân
Vẫn cao giọng hát nhịp chân chèo thuyền
Lều tranh đáng giá bao tiền?
Bỏ đi chẳng nỡ nỗi niềm quê cha!
Mong sông thành biến ruộng nhà
Phu thuyền khỏi phải kêu ca oán trời.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phụng Hà

Sống bên trạm, cuộc đời sao khổ quá!
Bọn nhà quan bắt ta mải kéo thuyền,
Ngày vui hiếm mà ngày khổ triền miên.
Như chim biển lội dòng ngủ bờ nước,
Thuyền vạn hộc, nước trôi thêm gió ngược.
Trạm sau khuất, trạm trước vẫn mù khơi,
Dọc đê dài đêm xuống tuyết mưa rơi.
Vừa mới về quan bắt đi mấy lượt,
Trời đêm lạnh mang tơi cùn áo ướt.
Hai chân sưng, ngực thủng, phải chịu đau!
Sáng ra, hết chỗ nói nỗi đắng cay.
Lại kéo thuyền, dô hò, chân giậm nhịp,
Có đáng chi gian lều tranh lẹp xẹp.
Thương quê cha, rời bỏ chẳng đành lòng,
Ước gì bao sông nước hóa ruộng đồng.
Kẻ phu thuyền không oán trời mãi mãi.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn phước Hậu

Sinh trưởng trạm sông khổ sở thay!
Bọn quan cứ bắt kéo thuyền hoài.
Bao ngày cay đắng, vui nào mấy
Nằm nước lội như chim biển khơi.
Thuyền vạn hộc hàng trì ngược gió
Trạm qua rồi trạm tới xa xôi.
Nửa đêm đê dọc dầm mưa tuyết
Bị chúng bắt đi lại chẳng ngơi.
Thủng ngực, toạc chân, đau ráng chịu
Áo tơi cũn cỡn rét tơi bời.
Sáng ra cay đắng không người nói
Giậm nhịp, hát đều, kéo đứt hơi.
Nhà cỏ một gian nào có đáng
Quê cha đất tổ chẳng đành rời.
Ước ao làn nước thành đồng phẳng
Phu kéo thuyền không oán trách trời.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Khương Hữu Dụng

Sinh kế bên trạm khổ vô biên,
Quan cứ bắt tôi đi kéo thuyền.
Ngày đắng cay nhiều, ngày vui hiếm,
Men bờ ngủ nước như chim biển,
Ngược dòng, ngược gió nặng trì trì,
Trạm trước xa vời, sâu thăm thẳm,
Nửa đêm bờ đê, mưa lẫn tuyết,
Vừa về, quan lại bắt đi tiếp.
Đêm lạnh, tơi ngắn, áo dính da,
Ngực thủng, chân rách, dám kêu ca!
Đến sáng, đắng cay không chỗ nói,
Kéo thuyền, lê bước, hò dô ta!
Có đáng gì đâu gian lều cỏ,
Xứ mẹ quê cha không thể bỏ!
Ước gì sông kia hoá đất liền,
Hết oán trời cao, người phu thuyền.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Anh Nguyên

Sinh ra bên trạm, khổ thay,
Nhà quan bắt kéo thuyền ngày lẫn đêm.
Nhiều cay đắng, ít êm đềm,
Ngủ thuyền, lội cát, khác chim biển gì!
Thuyền trên vạn hộc, gió trì,
Trạm qua mù mịt, kế thì còn hơn.
Đêm, đê tuyết lẫn mưa trơn,
Đi, về, bị thúc còn hơn trâu cày.
Áo, tơi, thấm ướt đêm chày,
Nứt chân, lũng ngực, thân này chịu đau.
Nỗi cay đắng, biết kêu đâu,
Đạp chân cùng hát những câu kéo thuyền.
Túp lều tranh đáng bao tiền,
Quê cha đất mẹ, bỏ liền được chăng!
Mong sông thành cánh đồng bằng,
Phu thuyền khỏi oán trách xằng trời xanh...

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Khổ sinh ra ngay bên dịch trạm
Quan sai ta theo đám kéo thuyền
Vui thì ít, khổ liên miên
Đêm ngơi trên nước, ngày thuyền kéo đi
Thuyền ngược gió kéo ghì vạn hộc
Trạm trước xa, trạm dọc mịt mù
Nửa đêm mưa đổ tuyết sa
Nhà quan sai bảo thoắt về thoắt đi
Đêm lạnh ướt áo che ngắn rách
Ngực bị thương, chân nứt xót xa
Đắng cay sao hết nói ra
Thế mà vẫn phải gào to giọng hò
Túp lều tranh có gì đáng kể
Hiềm quê cha không thể bỏ ngang
Nguyện cho sông hoá ruộng đồng
Phu thuyền hết oán trời xanh phũ phàng.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời