Than rằng:
Thanh bảo kiếm mười năm sẵn có, đấng anh hùng dùi mài mãi chưa thôi;
Ánh nhung trường một phút như không, con tạo hoá ghét ghen chi lắm thế!

Nghĩa đồng ưu tưởng lại luống đau lòng;
Tình vãng điếu nghĩ càng thêm rơi lệ.

Nhớ tôn linh:
Hào kiệt ấy tài;
Kinh luân là chí.

Vén mây nửa gánh giang sơn;
Vỗ cánh bốn phương hồ thỉ.

Gặp quốc bộ đang cơn binh cách, nghĩa giúp vua chung nỗi ân ưu;
Bỏ gia đình theo việc nhung đao, lòng đánh giặc riêng phần lao tuỵ.

Địa bộ muốn theo dòng Nhạc Mục, thét nhung bào từng ghê trận oai linh;
Thiên tài toan học chước Võ hầu, chế súng đạn biết bao chừng cơ trí.

Ơn quân tướng Đổng nhung vâng mạng, cầm ấn quan phong;
Tước triều đình Chưởng vệ gia phong, kéo cờ tân chế.

Nhưng chắc rằng: ba sanh có phước, hăm hở mài gươm chuốt đá, chí khuông phù không phụ với quân vương;
Nào ngờ đâu! một sớm không chừng, mơ màng đạn lạc tên bay, trường chiến đấu biết đâu là số hệ.

Trong ba kỷ, xuân thu tuy chửa mấy, trên yên ngựa đòi phen roi thét, trọng cương thường quyết mở mặt nam nhi;
Ngoài mươi sương, sự nghiệp biết chừng nào, trước cửa viên bỗng chốc sao sa, thu linh phách vội cướp công tráng sĩ.

Non Thiên Nhẫn phất phơ hơi gió thổi, thương người tiết nghĩa ngậm ngùi thay;
Nước Tam Soa thấp thoáng bóng trăng soi, nhớ kẻ trung trinh ngao ngán nhẽ.

Thà chết nữa song tay địch khái, theo về tổ phụ ấy cùng vinh;
Kìa sống như mấy kẻ hàng di, ở với tỉnh chiên càng thêm bậy.

Nay nhân:
Chung thất tới tuần;
Thúc sô dâng lễ.

Chén rượu thoảng bay mùi chính khí, trước dinh đều đủ mặt quan liêu;
Nén hương nghi ngút khói bạch vân, dưới án đua chen hàng cơ vệ.

Chua xót thay, hai già tuổi tác, ngọt bùi cậy tay em thay đỡ, khối tâm tình chưa thoát cõi hoàng tuyền;
Cám cảnh thay, đàn trẻ thơ ngây, ân cần nhờ công vợ dạy nuôi, may di phúc lại nảy ngành đan quế.

Tính hồn ví dầu thanh sảng, hộ phen này cho tướng mạnh quân bền;
Linh hồn nếu có khôn thiêng, rồi ngày khác lại sắc phong điện tế.

Thôi! Thôi!
Cửa tía lầu vàng đành kẻ khuất, đem thân bách chiến, để tiếng thơm cho tỏ mặt anh hùng;
Súng đồng gươm bạc mặc người còn, truyền lệnh tam quân, thét hơi mạnh để xây nền bình trị.

Thương ôi là thương;
Kể sao xiết kể!


Cao Thắng người làng Lệ Động, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, là một tướng tâm phúc và thao lược nhất của Phan Đình Phùng, lập được nhiều chiến công oanh liệt. Khoảng tháng 10-1893, ông đem quân đi đánh thành Nghệ An thì không may bị đạn mất khi mới 29 tuổi. Thi hài ông được nghĩa quân an táng ở núi Ngàn Tươi (tức Vụ Quang).

Khi quan tài được đưa về tới đại bản dinh, Phan Đình Phùng mặc tang phục ra đón tại cửa ngoài, hai tay vỗ vào quan tài mà khóc, tướng sĩ cũng khóc như mưa. Chính tay cụ viết hai câu ai liễn để thờ Cao Thắng: “Vị tiệp tiên tử, thiên ý vị hà; Hữu chí phất thành, anh hùng dĩ hỉ” và “Công cầu tất thành, kích tiếp thệ tảo thanh quốc tặc; Sự nan dự liệu, cứ yên tích dĩ thiếu tư nhân”. Cụ sai ông Võ Phát soạn bài văn tế này. Ngày đại táng, cụ thắp nhang thân tế Cao Thắng ba tuần, rồi bưng mặt khóc.

[Thông tin 4 nguồn tham khảo đã được ẩn]