15.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Tứ ngôn
Thời kỳ: Trần
6 bài trả lời: 3 bản dịch, 3 thảo luận
Từ khoá: Phật giáo (50)

Đăng bởi Vanachi vào 19/09/2008 11:28

有句無句

有句無句,
藤枯樹倒。
幾個衲僧,
撞頭嗑腦。

有句無句,
體露金風。
兢伽沙數,
犯刃傷鋒。

有句無句,
立宗立旨。
打瓦鑽龜,
登山涉水。

有句無句,
非有非無。
刻舟求劍,
索驥按圖。

有句無句,
互不回互。
笠雪鞋花,
守株待兔。

有句無句,
自古自今。
執指忘月,
平地陸沉。

有句無句,
如是如是。
八字打開,
全無巴鼻。

有句無句,
顧左顧右。
阿刺刺地,
鬧聒聒地。

有句無句,
忉忉怛怛。
截斷葛藤,
彼此快活。

 

Hữu cú vô cú

Hữu cú vô cú,
Đằng khô thụ đảo.
Kỷ cá nạp tăng,
Chàng đầu hạp não,

Hữu cú vô cú,
Thể lộ kim phong.
Căng già sa số.
Phạm nhẫn thương phong.

Hữu cú vô cú
Lập tông lập chỉ.
Đả ngoã toàn quy,
Đăng sơn thiệp thuỷ.

Hữu cú vô cú,
Phi hữu phi vô.
Khắc chu cầu kiếm,
Sách ký án đồ.

Hữu cú vô cú,
Hỗ bất hồi hỗ.
Lạp tuyết hài hoa,
Thủ chu đãi thố.

Hữu cú vô cú,
Tự cổ tự kim.
Chấp chỉ vong nguyệt,
Bình địa lục trầm.

Hữu cú vô cú,
Như thị như thị.
Bát tự đả khai,
Toàn vô ba tị.

Hữu cú vô cú,
Cố tả cố hữu.
A thích thích địa,
Náo quát quát địa.

Hữu cú vô cú,
Điêu điêu đát đát.
Tiệt đoạn cát đằng,
Bỉ thử khoái hoạt.

 

Dịch nghĩa

Câu hữu câu vô,
Như cây đổ, dây leo héo khô.
Mấy gã thầy tăng,
Đập đầu mẻ trán.

Câu hữu câu vô,
Như thân thể lộ ra trước gió thu.
Vô số cát sông Hằng,
Phạm vào kiếm, bị thương vì mũi nhọn.

Câu hữu câu vô,
Lập công phái, ý chỉ.
Cũng là dùi rùa, đập ngói,
Trèo núi lội sông.

Câu hữu câu vô,
Chẳng phải hữu, chẳng phải vô,
Khác nào anh chàng khắc mạn thuyền mò gươm,
Theo tranh vẽ đi tìm ngựa ký.

Câu hữu câu vô,
Chẳng tương hỗ hay tương hỗ nhau.
Nón tuyết, giầy thêu hoa.
Ôm cây đợi thỏ,

Câu hữu câu vô,
Từ xưa đến nay,
Chỉ chấp ngón tay mà quên vầng trăng,
Thế là chết đuối trên đất bằng.

Câu hữu câu vô,
Như thế như thế!
Tám chữ mở ra rồi,
Hoàn toàn không còn điều gì lớn nữa.

Câu hữu câu vô,
Quay bên phải, ngoái bên trái.
Thuyết lý ầm ĩ,
Ồn ào tranh cãi.

Câu hữu câu vô,
Khiến người rầu rĩ.
Cắt đứt mọi duyên quấn quít như dây leo,
Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt.


Hữu-vô (có-không) là cuộc tranh luận kéo dài về giáo thuyết. Phật giáo Tiểu thừa khác Phật giáo Đại thừa về thuyết “Hữu và vô”. Phật giáo Tiểu thừa chủ trương “hữu luận” hay “chấp hữu”, cho rằng vạn pháp vô thường (luôn chuyển động, biến đổi, nhưng vẫn Có một cách tương đối, chứ không thể nói là Không được. Phật giáo Đại thừa chủ trương “không luận” hay “chấp không” cho rằng vạn pháp tuy Có nhưng thực ra là Không vì vạn pháp không có thực tướng “cái gọi là Không thì cũng Không nốt”, trong nội bộ từng “thừa” lại có cuộc luận bàn về thuật ngữ Hữu, Vô, Sắc, Không.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (6 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Thị Băng Thanh

Câu hữu câu vô,
Dây khô cây đổ.
Mấy gã thầy tăng,
Dập đầu trán vỡ.

Câu hữu câu vô,
Gió vàng thể lộ.
Vô số cát sông,
Kiếm đâm dao bổ.

Câu hữu câu vô,
Lập chỉ lập tông.
Dùi rùa đập ngói,
Trèo núi lội sông.

Câu hữu câu vô,
Chẳng vô chẳng hữu.
Khắc thuyền tìm gươm,
So tranh tìm ngựa.

Câu hữu câu vô,
Tác động lại qua.
Ôm cây đợi thỏ,
Nón tuyết hài hoa.

Câu hữu câu vô,
Dù nay dù xưa.
Quên trăng ngắm ngón,
Chết đuối trên bờ.

Câu hữu câu vô,
Là thế là thế.
Tám chữ mở ra,
Không còn khó nghĩ.

Câu hữu câu vô,
Ngó phải ngó trái.
Thuyết lý ồn ào,
Liến láu tranh cãi.

Câu hữu câu vô,
Rầu rầu rĩ rĩ.
Cắt đứt sắn bìm,
Đó đây vui vẻ.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của nguyenvandungvicar

Bảo có bảo không
Dây khô cây đổ
Nào sư nào tăng
Óc đau đầu nổ

Bảo có bảo không
Gió thu thân lộ
Hằng hà sa số
kiếm chích kim châm

Bảo có bảo không
Lập tông lập chỉ
Đập ngói dùi rùa
Trèo non lội thuỷ

Bảo có bảo không
Chẳng không chẳng có
Khắc thuyền mò gươm
So tranh tìm ngựa

Bảo có bảo không
Mà không tương hỗ
Nón tuyết hài hoa
Ôm cây đợi thỏ

Bảo có bảo không
Xưa nay kim cổ
Ngắm ngón quên trăng
Trầm mình trên bộ

Bảo có bảo không
Chí phải,đích thị
Tám chữ mở ra
Đâu còn phải nghĩ

Bảo có bảo không
Ngoái trái ngoái phải
Thuyết lí lải nhải
Ngây ngô om sòm

Bảo có bảo không
Nhọc lo buồn tẻ
Cắt tiệt mây bìm
Hai bên vui vẻ

15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Lạp tuyết hài hoa

有句無句,
互不回互。
笠雪鞋花,
守株待兔。

- 笠雪鞋花 nói đầy đủ là 笠重吳天雪,鞋香楚地花, hai câu thơ được trích trong bài thơ Tống Tăng (送僧) của Sĩ Khả (士可) là vị thi tăng ở chùa Phúc Kiến thời Bắc Tống. Đại ý bài thơ đưa tiễn vị tăng đi vân du tìm học, với hai câu diễn tả hình ảnh đậm chất thơ: “Chiếc nón nan nặng thêm vì đọng tuyết ở bầu trời đất Ngô, đôi giày còn phảng phất hương thơm khi đi qua vùng đầy hoa của nước Sở”. Trong bài này Ngài Trần Nhân Tông nói về sự lặn lội tìm học đạo lý.

- 互不回互 nói đủ là 回互不回互 hồi hỗ bất hồi hỗ, từ điển Phật Quang giải thích: Chủ trương trọng yếu của Thiền Thạch đầu, dung hợp Thiền lí với thuyết Thập huyền duyên khởi của tông Hoa nghiêm. Hồi hỗ nghĩa là muôn vật trong vũ trụ đan dệt với nhau, nương vào nhau mà tồn tại, không thể tách rời, tương đương với nghĩa Lí sự vô ngại, Sự sự vô ngại của tông Hoa nghiêm. Còn Bất hồi hỗ nghĩa là mỗi sự vật đều có vị trí riêng, mỗi mỗi trụ nơi tự tính của chính nó, tồn tại độc lập, tương đương với Lí sự các lập, Sự sự trụ vị của tông Hoa nghiêm. Hồi hỗ bất hồi hỗ là hiển bày trong Hồi hỗ có Bất hồi hỗ, trong Bất hồi hỗ cũng hàm có Hồi hỗ, dùng để nói về lí vạn vật nương vào nhau mà tồn tại, nhưng đồng thời cũng tồn tại một cách độc lập. Đối với cảnh giới của Phật giáo, sự nhận thức khế hợp với Tính và Lí không thôi thì chưa phải là sự giác ngộ tối cao, mà còn phải từ nơi tất cả sự tướng do Lí diễn sinh, biết rõ mối tương quan hồi hỗ bất hồi hỗ của muôn vật. Tức là quán xét thấy rõ Sự sai biệt và Lí vô sai biệt là một, hoàn toàn dung hợp với nhau: Đó mới là cảnh giới giác ngộ tối cao. [X. Tham đồng khế trong Cảnh đức truyền đăng lục Q.30].

- Đại ý bốn câu thơ này ngài Trần Nhân Tông nói rằng, đối với quan điểm có và không, hoặc là đối với chân lý vạn vật tương duyên tương sinh hay tồn tại độc lập, dù lặn lội tìm học nơi này nơi khác, thì cũng chỉ là việc làm ôm cây đợi thỏ, khó thành tựu kết quả tỏ ngộ đạo lý.

15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

A thích thích

有句無句,
顧左顧右。
阿刺刺地,
鬧聒聒地。

A thích thích
Tìm hiểu không có từ a thích thích (阿刺刺), mà chỉ có từ a lạt lạt (阿剌剌). Có thể nhầm một nét vì từ lạt 剌 rất giống từ thích 刺. Trong từ điển Phật học Đinh Phúc Bảo giải thích:
阿剌剌a lạt lạt (雜語)(雜語)見阿喇喇條。
阿喇喇a lạt lạt (雜語)細語不休之意。Lảm nhảm không thôi, nói miết.

15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Nghĩa từ

有句無句,
忉忉怛怛。
截斷葛藤,
彼此快活。

Trong từ điển Thiền Tông có giải thích 2 cụm từ:

忉忉怛怛
đao đao đát đát ☸ Nhiều lời. Lải nhải. Tiết»Tuyết Phong Tư Huệ Thiền sư« trong NĐHN q. 16 ghi:»如 今 每 日 鳴 鼓 陞 堂、 忉 忉 怛 怛 地。 問 者 口 似 紡 車、 荅 者 舌 如 霹 靂。 總 似 今 日、 靈 山 慧 命。 殆 若 懸 絲。 少 室 家 風、 危 如 累 卵。 – Hiện tại mỗi ngày đánh trống thăng đường để lải nhải, người hỏi miệng tợ máy dệt, người đáp lưỡi như sấm sét. Cứ như hôm nay huệ mạng Phật Tổ nguy như chỉ mành treo chuông, môn phong nhà thiền bấp bênh như trứng để đầu đẳng«.

截斷葛藤
tiệt đoạn cát đằng ☸ Chặt đứt tất cả những lời giải thích dài dòng. Đây là cách lập bày của nhà thiền nhằm tiếp dẫn người học. Bích Nham Lục q. 1 ghi:»直 下 截 斷 葛 藤。 後 學 初 機 難 爲 湊 泊。 – Lập tức chặt đứt tất cả lời giải thích dài dòng, phiền phức khiến cho kẻ hậu học sơ cơ khó có thể khế hội«.

15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Câu hữu câu vô,
cây đổ, dây khô.
Mấy gã thầy tăng,
Đập đầu trán lỗ.

Câu hữu câu vô,
Gió thu thân lộ.
Hằng, vô số cát,
Bị thương kiếm bổ.

Câu hữu câu vô,
Lập chỉ phái tông,.
Dùi rùa, đập ngói,
Trèo núi lội sông.

Câu hữu câu vô,
Chẳng hữu, chẳng vô,
Khắc thuyền mò gươm,
Tìm ngựa tranh dò.

Câu hữu câu vô,
Chẳng tương hay hỗ.
Nón tuyết, giầy hoa.
Ôm cây đợi thỏ,

Câu hữu câu vô,
Đến nay từ cổ,
Chấp ngón quên trăng,
Chết đuối đất bằng.

Câu hữu câu vô,
Như thế như thế!
Tám chữ mở rồi,
Không điều gì lớn.

Câu hữu câu vô,
Quay phải, ngoái trái.
Thuyết lý xô bồ
Ồn ào tranh cãi.

Câu hữu câu vô,
Khiến người rầu rĩ.
Cắt đứt dây buộc,
Hữu vô thông suốt.

15.00
Trả lời