題潞河驛門樓

十二欄干霽景前,
望窮沙漠接燕然。
車同軌轍統歸一,
臺築黃金價倍千。
路遠南交霜屢閱,
天低北極日長懸。
擧頭喜見紅雲近,
香案叨陪次第仙。

 

Đề Lộ Hà dịch môn lâu

Thập nhị lan can tễ cảnh tiền,
Vọng cùng sa mạc tiếp Yên Nhiên.
Xa đồng quỹ triệt thống quy nhất,
Đài trúc hoàng kim giá bội thiên.
Lộ viễn Nam Giao sương lũ duyệt,
Thiên đê Bắc Cực nhật trường huyền.
Cử đầu hỉ kiến hồng vân cận,
Hương án thao bồi thứ đệ tiên.

 

Dịch nghĩa

Mười hai bực lan can trước cảnh trời quang tạnh,
Nhìn xa tận sa mạc sát cõi đất Yên.
Xe cùng trục bánh, đường lối quy về một,
Đền đài xây đắp giá cao muôn vàng.
Đường xa tận cõi Nam Giao trải nhiều sương móc đổ,
Trông vời cực Bắc Cực ánh thái dương.
Ngẩng đầu mừng được thấy gần sát mây hồng,
Theo đòi hương án tiếp bồi cảnh tiên.


Về xuất xứ của bài thơ này, xin xem phần chú thích của bài thơ cùng tên trong mục tác giả Nguyễn Trang 阮莊.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Đức Toàn (II)

Trời quang mười bực lan can,
Trông ra sa mạc đất Yên cõi ngoài.
Xe cùng trục, một lối thôi,
Vàng kia xây đắp đền đài giá cao.
Đường xa tận cõi Nam Giao,
Trông vời cực Bắc Cực đón nhiều ánh dương.
Sát mây đầu ngửng tỏ tường,
Theo đòi hương án nhập dường hội tiên.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đông A

Một tá lan can tạnh cảnh sông
Dõi xa sa mạc đất Yên không
Xe cùng bánh trục quy cùng cỡ
Đài đắp hoàng kim giá bội trùng
Đường tận nam giao sương móc đổ
Trời gần bắc cực mặt trời trông
Ngẩng đầu mừng thấy mây hồng sát
Hương án tiếp bồi nhị cảnh Bồng

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời