古跡神祠碑記

石碑之立,以錄事跡,以徵功德云耳。

想初,天神王祠下,粵自雄王六世,朱鳶部雒將奉造乾巽向敬天臺,每歲初春,恭行奉天大禮。如有水旱災變,民間祈禱,輒靈應焉。逮夫先朝順天七年春,帝省覽山川,拜封當境城隍至明大王。厥後,歷代諸帝有修造。神祠,有封贈神敕。蕩蕩乎,巍巍乎,一等威靈矣。

仰今聖帝陛下,位儼九重,躬端萬化。為子孫長久之計,追思夙願,以顯神功。詔攽錢參百緡,特差修理。仰見工完,鳩集式示,規程此億萬年之功德也。有若是夫,且修文德以恢平治之功;以造神祠,以展敬誠之意。于以衍宗社無疆之福,乃編錄古今事跡詳勒于珉,以垂萬世。

謹拜手稽首而銘曰﹕
凜然靈廟,
赫赫天顏。
今來古往,
虎踞龍蟠。
精英萬紀,
輝耀兩間。
廟利假萃,
盥有孚觀。
積之歲久,
幾致苔蔓。
欽哉時命,
理作初完。
規模輪奐,
錦繡青丹。
維茲功德,
巋彼高山。
神之靈應,
國以尊安。
綿洪寶祚,
永奠石磐。
天地長久,
銘錄不刊。

時興隆二十年壬子冬十一月二十日


歷代加攽附記

順天七年春二月十五日,敕封當境城隍至明大王。
大定六年秋七月二十日,詔攽錢一百十五緡修造神祠。
天資嘉瑞四年三月十一日,敕封大王與列武廟國祭。
元豊二年十二月初八日,詔發錢五十緡,裝飭神祠。
興隆七年二月初六日,奉攽令例春祭錢,遞年參十貫,以申敬意。

敕當境城隍至明大王﹕精儲太一,德備陰陽。捍宦禦災,納民生於春壽;顯休錫福,奠國祚於泰磐。既多相佑之功,蓋舉褒揚之典。為功扶皇家長久,福護帝業綏休。陰助國王平定南陲,勦除逆命;擒獲逆俘名制至,收獲象馬器械銃磾。取勝萬全,奠安天下。收復山川一統,稔有靈應。可加封當境城隍至明大王,上列國祭及押衙公主陸妃娘同配祀。故敕。

興隆二十年六月十七日。
特差惠武王陳國瑱詔旨。
翰林學士張漢超奉編錄。

 

Cố tích thần từ bi ký

Thạch bi chi lập dĩ lục sự tích dĩ huy công đức vân nhĩ.

Tưởng sơ, thiên thần vương từ hạ Việt tự Hùng Vương lục thế Chu Diên bộ Lạc tướng phụng tạo (Càn Tốn hướng) Kính Thiên đài, mỗi tuế sơ xuân cung hành phụng thiên đại lễ. Như hữu thuỷ hãn hoả biến, dân gian kỳ đảo, triếp linh ứng yên. Phù tiên triều Thuận Thiên thất niên xuân, đế tỉnh lãm sơn xuyên, bái phong Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương. Quyết hậu, lịch đại chư đế hữu tu tạo thần từ, hữu phong tặng thần sắc. Đãng đãng hồ, nguy nguy hồ, nhất đẳng uy linh hĩ.

Ngưỡng kim thánh đế bệ hạ vị nghiễm cửu trùng cung đoan vạn hoá, vi tử tôn trường cửu chi kế, truy tư túc nguyện dĩ hiển thần công. Chiếu ban tiền tam bách mân đặc sai tu lý. Ký kiến công hoàn, cưu tập thức thị, quy trình thử ức vạn niên chi công đức dã. Hữu nhược thị phù, thả tu văn đức dĩ khôi bình trị chi công, hựu tạo thần từ dĩ triển kính thành chi ý. Vu dĩ diễn tông xã vô cương chi phúc, nãi biên lục cổ kim sự tích, tường lặc vu mân, dĩ thuỳ vạn thế.

Cẩn bái thủ khể thủ nhi minh viết:
Lẫm nhiên linh miếu,
Hách hách thiên nhan.
Kim lai cổ vãng,
Hổ cứ long bàn.
Tinh anh vạn kỷ,
Huy diệu lưỡng gian.
Miếu lợi hà tuý,
Quán hữu phù quan.
Tích chi tuế cửu,
Kỷ chí đài man.
Khâm tai thời mệnh,
Lý tác sơ hoàn.
Quy mô luân hoán,
Cẩm tú thanh đan.
Duy tư công đức,
Quy bỉ cao san.
Thần chi linh ứng,
Quốc dĩ tôn an.
Miên hồng bảo tộ,
Vĩnh điện thạch bàn.
Thiên địa trường cửu,
Minh lục bất san.

Thời Hưng Long nhị thập niên Nhâm Tí đông thập nhất nguyệt nhị thập nhật.


LỊCH ĐẠI GIA BAN PHỤ KÝ

Thuận Thiên thất niên Xuân nhị nguyệt thập ngũ nhật, sắc phong Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương.
Đại Định lục niên Thu thất nguyệt nhị thập nhật, chiếu ban tiền nhất bách thập ngũ mân tu tạo thần từ.
Thiên Tư Gia Thuy tứ niên tam nguyệt thập nhất nhật, sắc phong Đại vương dữ liệt Vũ miếu quốc tế.
Nguyên Phong nhị niên thập nhị nguyệt sơ bát nhật, chiếu phát tiền ngũ thập mân trang sức thần từ.
Hưng Long thất niên nhị nguyệt sơ lục nhật, phụng ban lệnh lệ xuân tế tiền đệ niên tam thập quan dĩ thân kính ý.

Sắc Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương tinh trừ thái nhất, đức bị âm dương, hãn hoạn ngự tai, nạp dân sinh ư xuân thọ, hiển hưu tích phúc, điện quốc tộ ư thái bàn. Ký đa tương hựu chi công, cái cử bao dương chi điển; Vi lực phù hoàng gia trường cửu, phúc hộ đế nghiệp tuy hưu, âm trợ quốc vương bình định Nam thuỳ, tiễu trừ nghịch mệnh, cầm hoạch nghịch phù danh Chế Chí, thu hoạch tượng mã khí giới súng đạn, thủ thắng vạn toàn, điện an thiên hạ, thu phục sơn “xuyên nhất thống, nẫm hữu linh ứng. Khả gia phong Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương” thượng liệt quốc tế cập Áp Nha công chúa Lục Phi Nương đồng phối tự. Cố sắc.

Hưng Long nhị thập niên lục nguyệt thập thất nhật.
Đặc sai Huệ Vũ Vương Trần Quốc Chẩn phụng chiếu chỉ.
Hàn lâm học sĩ Trương Hán Siêu phụng biên lục.


Xã Lại Yên, huyện Hoài Đức, Hà Nội, xưa là xã Lại Yên, huyện Đan Phượng có ngôi đền cổ từ rất lâu đời tên chữ Hán là Kính Thiên đài 敬天臺. Theo truyền thuyết, đền có từ thời Hùng Vương, do lạc tướng bộ Chu Diên cho tạo dựng để tế trời. Đền có hai văn bia còn khá rõ ràng, một trong đó là bia này, ghi niên đại đời Trần năm Hưng Long thứ 20 (1312) do Trương Hán Siêu soạn; bia còn lại đề hai niên đại là Gia Long thứ 15 (1816) và mặt sau đề Thành Thái thứ 13 (1901). Khảo cứu niên đại văn bản cho thấy rằng văn bia đời Trần là văn bia được khắc lại vào đợt trùng tu sau này vào năm 1816. Bia gồm hai mặt, phần Lịch đại gia ban phụ ký được chép ở mặt sau.

Văn bia Hưng Long đời Trần cho thấy, từ phong tục tế trời của người Việt, đã được nhà nước chuẩn hoá bằng việc ban sắc phong. Nhất là sau chiến thắng Chiêm Thành năm Hưng Long thứ 19 (1311), thứ 20 (1312), vua Trần Anh Tông đặc sai Huệ Vũ vương Trần Quốc Trẩn ban chiếu chỉ, Hàn lâm học sĩ Trương Hán Siêu phụng biên sự tích. Điều đó phản ánh tín ngưỡng thờ trời mang hình thái quốc gia, được nhiều triều đại phong kiến Việt Nam ghi nhận.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Thích Minh Tín

Bia đá được lập nên, là để ghi chép lại sự tích cũ, là để nêu gương công đức lên vậy.

Trộm nghĩ xưa, đền thờ Thiên Thần vương, từ đời Hùng Vương thứ sáu, do Lạc tướng ở bộ Chu Diên phụng mệnh xây dựng đài Kính Thiên theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Hàng năm đầu xuân, kính cẩn tiến hành đại lễ tế trời. Nếu như có thiên tai biến hoạ lũ lụt hạn hán, dân gian cầu đảo, thì rất là linh ứng. Đến đời triều (Lý) trước, năm Thuận Thiên thứ 7 (1016), nhà vua đến thăm viếng cảnh núi sông, phong thần là Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương. Về sau, các vua đều cho tu tạo đền, có sắc phong thần. Lớn lao thay, lồng lộng thay ngôi cao uy linh đệ nhất!

Cúi nay, thánh đế bệ hạ, ngồi ngôi cao nơi chín bệ, thân hành đoan chính, giáo hoá vạn dân. Cầu mưu kế lâu dài cho con cháu muôn đời, truy ân đời trước, để làm rạng rỡ công lớn, ra chiếu ban tiền 300 sâu, đặc mệnh sai tu sửa (đền). Nghiêng mình kính cẩn thấy công việc được hoàn thành, quy trình gồm đủ. Được như vậy thì công đức lớn của muôn vạn năm, có thể được như thế chăng!. Lại thêm (đời chúa thánh) dùng văn đức để dựng công trị bình thịnh vượng; đã tạo đền thần để tỏ lòng thành kính, và lại để nối dài phúc lớn vô cùng cho xã tắc trăm họ, cho tổ tông muôn đời. Vậy biên chép lại việc tích cũ xưa nay, khắc tỏ vào đá để lưu truyền muôn vạn đời.

Kính cẩn chắp tay cúi đầu ghi lời minh rằng:
Lẫm liệt miếu thiêng,
Lẫy lừng nhan thánh.
Nay đến xưa qua,
Hổ ngồi rồng cuộn.
Tinh anh muôn thửa,
Rực sáng hai bên.
Vua khai đức hiếu,
Lễ Quán đáng xem.
Năm tháng lâu dài,
Rêu phong mấy độ.
Kính thay thời mệnh,
Lẽ dựng vừa tròn.
Quy mô đổi mới,
Vóc gấm huy hoàng.
Duy công đức ấy,
Sánh tày núi non.
Thần có linh ứng,
Thế nước vững yên.
Mệnh mạch nối liền,
Chắc như bàn đá.
Cùng mãi đất trời,
Lời Minh không mòn.

Ngày 20 tháng 11 mùa đông năm Nhâm Tý niên hiệu Hưng Long thứ 20 (1312).


PHỤ GHI GIA BAN SẮC TẶNG CỦA CÁC ĐỜI

Ngày 15 tháng 2, xuân năm Thuận Thiên thứ 7 (1016) sắc phong Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương.
Ngày 20 tháng 7, thu năm Đại Định thứ 6 (1145) chiếu ban tiền 115 sâu để tu tạo đền thần.
Ngày 11 tháng 3 năm Thiên Tư Gia Thuỵ thứ 4 (1189) sắc phong Đại vương và cho lệ quốc tế với Vũ miếu.
Ngày mùng 8 tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 2 (1252) chiếu phát tiền 50 sâu để sửa chữa đền thần.
Ngày mùng 6 tháng 2 năm Hưng Long thứ 7 (1299) phụng ban lệnh cho lệ tiền tế xuân hàng năm 30 quan để tỏ ý kính.

Sắc làm Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương rằng: Tinh anh thái nhất, đức đủ âm dương. Trừ tai trục hoạ, đưa chúng dân lên đài xuân cõi thọ, tỏ rõ phúc đức đặt mệnh nước vững yên như bàn đá. Đã nhiều lần có công giúp đỡ, đáng đưa vào điển báo đáp nêu dương. Có công giúp cho hoàng gia được lâu dài, phúc bảo hộ nghiệp vua thịnh trị. Ngầm giúp Quốc vương ta bình định phương nam, tiễu trừ quân trái mệnh; bắt được kẻ nghịch là Chế Chí, thu hoạch được voi ngựa khí giới súng đạn. Thủ thắng vẹn tuyền, vững yên thiên hạ. Thu phục cho non sông nhất thống, rất là linh ứng. Đáng gia phong là Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương, trên bàn cho được dự lệ quốc tế cùng Áp Nha công chúa Lục Phi nương cùng được phối thờ. Vậy sắc.

Ngày 17 tháng 6 năm Hưng Long thứ 20 (1312).
Đặc sai Huệ Vũ vương Trần Quốc Trẩn ban chiếu chỉ.
Hàn Lâm học sĩ Trương Hán Siêu phụng biên chép sự tích.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Kim Oanh

Bia đá được dựng lên là để ghi chép sự tích và phô trương công đức vậy.

Nhớ xưa, ngôi đền thờ vị thiên thần giáng xuống nước Việt này [là] đài Kính Thiên do Lạc tướng bộ Chu Diên đời Hùng Vương thứ 6 vâng mệnh dựng lên (hướng tây bắc – đông nam), hàng năm vào đầu xuân tiến hành đại lễ tế trời, nếu như có nạn lụt, hạn hán hay hoả hoạn, nhân dân đến cầu đảo là luôn luôn linh ứng. Vua triều trước năm Thuận Thiên thứ 7 (1017) đi thăm cảnh núi sông [đến đây] phong hiệu cho thần là “Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương”. Từ đó về sau, vua các triều đều có tu sửa đền thần và ban tặng sắc phong. Mênh mông thay, cao cả thay, uy linh bậc nhất vậy.

Kính nay, thánh đế bệ hạ ngôi ở cửu trùng, chở che muôn vật, vì con cháu mà tính kế lâu dài, nhớ lời nguyền cũ mà làm rạng rỡ công lao của thần. Hạ chiếu ban 300 quan tiền, đặc sai tu sửa ngôi đền, tới khi mọi việc hoàn thành, thực là tụ tập đủ mọi qui thức. Qui mô này chính là công đức của ức vạn năm. Sở dĩ làm vậy chính là tu sửa văn đức để khôi phục cái công bình trị, xây dựng đền thần nhằm thể hiện cái ý kính thành. Nhờ đó mà kéo dài được cái phúc vô hạn của tông xã, cho nên ghi chép sự tích xưa nay khắc rõ ràng vào đá cứng để lưu truyền muôn đời.

Kính cẩn cúi lạy mà viết bài minh rằng:
Miếu thiêng hiên ngang
Mặt thần rạng rỡ
Từ xưa tới nay
Rồng chầu hổ cứ.
Tinh anh vạn thủa
Rọi sáng âm dương
Miếu được tu sửa
Rộng rãi khang trang.
Dấu tích xa xưa
Đài rêu, bia cổ
Nay vâng mệnh vua
Sửa đẹp như cũ.
Qui mô sáng sủa
Gấm vóc đỏ xanh
Chỉ công đức này
Sánh với núi cao.
Thần nhiều linh ứng
Giúp nước bình an
Kéo dài ngôi báu
Vững tựa thạch bàn.
Sánh cùng trời đất
Bia đá hiên ngang.

Ngày 20 tháng 11 mùa đông năm Nhâm Tí niên hiệu Hưng Long thứ 20 (1312).


PHỤ CHÉP SẮC PHONG CÁC TRIỀU ĐẠI BAN CHO

- Ngày 15 tháng 2 mùa Xuân năm Thuận Thiên thứ 7 (1017) sắc phong thần là Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương.
- Ngày 24 tháng 7 mùa Thu năm Đại Định thứ 6 (1146), vua xuống chiếu ban tiền 150 quan để tu sửa đền thần.
- Ngày 11 tháng 3 năm Thiên Tư Gia Thuỵ thứ 4 (1190) sắc phong Đại vương và xếp vào hàng Võ miếu được hưởng quốc tế.
- Ngày 8 tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 2 (1252) giáng chiếu ban tiền 50 quan để trang hoàng đền thần.
- Ngày 6 tháng 2 năm Hưng Long (1299) vua ban lệnh hàng năm được hưởng 30 quan tiền xuân tế để bày tỏ lòng kính trọng.

Ban sắc cho “Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương” là bậc nhất chung đúc tinh anh, âm dương gồm đủ đạo đức. Giải nạn trừ tai, đưa sinh dân tới cõi xuân đài thọ vực; Chở che tích phúc, giúp nước nhà vững chãi như Thạch bàn Thái Sơn. Giúp đỡ công lao, nên được ban khen sử sách, phù hộ hoàng gia trường cửu, giúp rập nghiệp đế yên lành. Ngầm giúp đức vua bình định Nam thuỳ, dẹp tan bọn giặc, bắt được tù binh tên là Chế Chí, thu nhiều voi ngựa khí giới súng đạn, giành thắng lợi hoàn toàn. Khiến thiên hạ bình yên, thu phục non sông quy về một mối, nhiều lần linh ứng. Khá gia phong là “Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương” được xếp vào bậc quốc tế, cùng phối thờ với Áp Nha công chúa Lục Phi Nương. Vậy nay ban sắc.

Ngày 17 tháng 2 năm Hưng Long thứ 20 (1312).
Đặc sai Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn vâng theo chiếu chỉ.
Hàn lâm học sĩ Trương Hán Siêu vâng mệnh ghi chép sự việc.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Trả lời