Đăng bởi Vanachi vào 12/08/2005 18:13, đã sửa 3 lần, lần cuối bởi karizebato vào 01/09/2009 23:15

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!


Tiêu đề có bản chép là Đưa cho vợ.

Bài thơ này được sử dụng trong các chương trình SGK Văn học 11 giai đoạn 1990-2006, Ngữ văn 11 từ 2007.

[Thông tin 3 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Soạn bài “Thương vợ” - SGK Văn 11

1. Cảm nhận của anh (chị) về hình ảnh bà Tú qua bốn câu thơ đầu? (Chú ý những từ ngữ có giá trị tạo hình, hình ảnh con cò trong ca dao được tác giả vận dụng một cách sáng tạo)

Bốn câu thơ đầu là hình ảnh bà Tú qua nỗi lòng thương vợ của Tú Xương. Tình thương vợ sâu nặng của nhà thơ thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao cũng như những đức tính cao đẹp của người vợ tao khang.

Câu thơ đầu mở ra một hoàn cảnh - hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú. Câu thơ là lời giới thiệu nhưng cũng đồng thời gợi ra ngay cái nét tần tảo, tất bật ngược xuôi của bà Tú:

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Câu thơ đắt nhất có lẽ là ở hai từ “quanh năm” và “mom sồng”. Một từ chỉ thời gian, một từ chỉ không gian hoạt động của nhân vật, thế mà cũng đủ để nêu bật toàn bộ cái công việc lam lũ của người vợ thảo hiền.

Trong thời buổi khốn khó, bà Tú buôn gạo để nuôi chồng, nuôi con. Công việc ấy diễn ra “quanh năm” nghĩa là không trừ một ngày nào dù ngày mưa hay ngày nắng. “Quanh năm” còn là từ năm này tiếp qua năm khác đến rã rời, đến chóng mặt chẳng có chút nghỉ ngơi. Thời gian đằng đẵng kết hợp với cái nơi làm việc là một doi đất nhô ra ngoài sông ấy (mom sông) đủ gợi ra cái gian nan, chênh vênh, chơi vơi của công việc và của cả số phận người phụ nữ nữa.

Hai câu thực gợi tả cụ thể hơn cuộc sống tảo tần gắn với việc buôn bán ngược xuôi của bà Tú. Câu thơ cho thấy nhãn quan sắc sảo, tinh tế và khả năng vận dụng ca dao một cách sáng tạo của Tú Xương. Thấm thìa nỗi vất vả, gian lao của vợ, nhà thơ đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Hai câu thơ gợi lại hình ảnh cái cò gánh gạo đưa chồng trong ca dao cổ:
Cái cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Thế nhưng nếu hình ảnh con cò trong ca dao chỉ xuất hiện giữa cái rợn ngợp của không gian thi hình ảnh con cò trong thơ của Tú Xương ‘còn lặn lội trong cả cái rợn ngợp của thời gian. Ba từ “khi quãng vắng” đã nói lên được cả cái rợn ngợp của thời gian và không gian. Nó heo hút, vắng lặng chứa đầy những lo âu, nguy hiểm. Câu thơ lại dùng phép đảo ngữ (đưa từ “lặn lội” lên đầu câu) và dùng từ “thân cò” thay cho từ “con cò” càng làm tãng thêm nỗi vất vả gian truân của bà Tú. Không những thế, từ “thân cò” còn gợi nỗi ngậm ngùi về thân phận nữa. Lời thơ, vì thế, mà cũng sâu sắc hơn, thấm thìa hơn.

Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả, đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống đầy gian nan của bà Tú:
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Câu thơ gợi tả cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người làm nghề buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Hơn thế nữa “buổi đò đông” còn hàm chứa không phải ít những lo âu, nguy hiểm “khi quãng vắng”. Câu thơ gợi lên sinh động đầy đủ một buổi họp chợ có đủ những lời phàn nàn, cáu gắt, có cả những sự chen lấn, xô đẩy hàm chứa đầy bất trắc, hiểm nguy.

Hai câu thực còn đối nhau rất chỉnh, nhất là ở hai cụm từ “khi quãng vắng” với “buổi đò đông” khiến cho sự miêu tả nỗi vất vả của bà Tú càng thêm nổi bậtẻ Bốn câu thơ đầu thực tả cảnh công việc và thân phận của bà Tú, cũng đồng thời cho ta thấy tấm lòng xót thương da diết của Tú Xương.

2. Phân tích những câu thơ nói lên đức tính cao đẹp của bà Tú

Đi liền với những câu thơ miêu tả cuộc sống gian truân là những câu thư thầm kín ngợi ca vẻ đẹp đức hạnh của bà Tú vẻ đẹp ấy trước hết được cảm nhận ở sự đảm đang, tháo vát, chu toàn với chồng con:
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Câu thơ đọc lên đã thấy cái gánh nặng gia đình cứ như đang đè xuống đôi vai của người đang đóng thế vai của người “chủ gia đình”. Mỗi chữ trong câu thơ chất chứa bao tình ý. Từ “đủ” trong “nuôi đủ” vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Oái oăm hơn, càu thơ chia làm hai vế thì vế bên này (một chồng) lại cân xứng với tất cả gánh nặng ớ vế bên kia (năm con). Câu thơ là một sự thật, bởi nuôi ông Tú đâu chỉ cơm hai bữa mà còn tiền chè, tiền rượu,... Tú Xương ý thức rõ lắm nỗi lo của vợ và cả sự khiếm khuyết của mình nữa. Câu thơ nén một nỗi xót xa, cay đắng.

Ở bà Tú, sự đảm đang tháo vát đi liền với đức hi sinh. Như đã phân tích ở trên, cái đức hi sinh vì chồng vì con của bà Tú trước hết thể hiện ở việc bất chấp gian khó, chạy vạy bán buôn để nuôi đủ gia đình. Nếu chỉ có thế thôi thì cũng đủ để nhà thơ cảm thương và trân trọng lắm rồi. Song dường như những lời thơ miêu tả còn chưa đủ, Tú Xương còn bình luận tiếp:
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Thành ngữ “năm nắng mười mưa” vốn đã hàm nghĩa chỉ sự gian lao, vất vả nay được dùng trong trường hợp của bà Tú nó còn thể hiện được nổi bật đức tính chịu thương, chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú nữa.

3. Lời “chửi” trong hai câu thơ cuối là lời của ai, có ý nghĩa gì?

Câu thơ cuối là lời Tú Xương, Tú Xương tự rủa mát mình, cũng là lời tự phán xét, tự lên án:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Hai câu kết chỉ ra hai nguyên nhân gây nên nỗi khổ của vợ: ấy là mình và đời. Đời đen bạc, chồng hờ hững. Hận đời, giận mình chính là đính điểm của tình thương, là cao trào của cay đắng khổ tâm. Câu thơ thực sự là tiếng chửi đời. Đời bạc, mình cũng bạc. Đời bạc đã đày ải người vợ hiền và đời bạc đã biến mình thành ông chồng vô tích sự, ông chồng bạc. Câu thơ là tiếng chửi đời căm phẫn, gay gắt nhưng sắc thái xỉ vả bản thân còn thậm tệ hơn nữa. Lời chửi ẩn sâu từ trong tâm khảm sự thương yêu và có cả những ngậm ngùi, chua xót đến đắng lòng.

4. Nỗi lòng thương vợ của nhà thơ được thể hiện như thế nào? Qua bài thơ, anh (chị) có nhận xét gì về tâm sự và vẻ đẹp nhân cách của Tú Xương?

Thương vợ dựng lên hai bức chân dung: bức chân dung hiện thực của bà Tú và bức chân dung tinh thần của Tú Xương. Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, dường như bao giờ người ta cũng gặp hai hình ảnh song hành: bà Tú hiện lên phía trước và ông Tú khuất lấp ở phía sau.

Ở bài thơ Thương vợ cũng vậy, ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ là thương mà còn là biết ơn đối với người vợ nữa.

Yêu thương, quý trọng, tri ân với vợ, đó là những điều làm nên nhân cách của Tú Xương. Ông Tú không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông Tú là do “duyên” nhưng “duyên” một mà “nợ” hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ đời mà bà Tú phải gánh chịu. Vậy là thiệt thòi cho bà Tú. Duyên ít mà nợ nhiều. Có lẽ cũng chính bởi điều đó mà ở trong câu thơ cuối, Tú Xương đã tự rủa mát mình: “Có chồng hờ hững cũng như không”.

Điều lạ là dù xuất thân Nho học, song Tú Xương không nhìn nhận theo những quan điểm của nhà nho: quan điểm “trọng nam khinh nữ”, “xuất giá tòng phu” (lấy chồng theo chồng), “phu xướng, phụ tuỳ” (chồng nói vợ theo) mà lại rất công bằng. Tú Xương dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám nhìn nhận ra những khuyết thiếu của mình để mà day dứt. Một con người như thế là một nhân cách đẹp.

214.29
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bình giảng bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương

Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn đạt bằng hình ảnh và ngón ngữ quen thuộc của văn học dân gian. Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi còn sống càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Kể cũng là điều nghiệt ngã khi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca.

Bà Tú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được: Ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn viết về người vợ mà bài Thương vợ là một trong những bài xuất sắc nhất.

Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người vợ.

Câu thơ mở đầu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú. Hoàn cảnh vất vả, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu địa điểm. Quanh năm là suốt cả năm, không trừ một ngày nào dù mưa hay nắng. Quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt, đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm. Địa điểm bà Tú buôn bán là mom sông, cái doi đất nhô ra ngoài sông ấy chính là nơi đầu sóng ngọn gió. Câu thơ vào đề như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh làm hiện lên hình ảnh bà Tú tần tảo, tất bật ngược xuôi:

Quanh năm buôn bán ở mom sông.
Thấm thìa nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cò trong ca dao đã tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò

trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao) mà còn trong cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ “khi quãng vắng” tác giả đã nói lên được cả thời gian, không gian heo hút, rợn ngợp, chứa đầy lo âu nguy hiểm. Có bản chép “nơi quãng vắng”, thay “khi” bằng “nơi” đã bỏ đi cái rợn ngợp của thời gian, đã làm hao hụt cả ý thơ. So với câu ca dao:
Con cò lặn lội bờ sông,
Câu thơ của Tú Xương:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ - đưa từ “lặn lội” lên đầu câu, cách thay từ - thay từ “con cò” bằng “thân cò”, càng làm tăng nỗi vất vả gian truân của bà Tú. Từ “thân cò” gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ “con cò” thì từ “thân cò” mang tính khái quát cao hơn và do vậy tình thương vợ của Tú Xương cũng sâu sắc, thấm thía hơn.

Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. “Buổi đò đông” đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn “khi quãng vắng”. Trong ca dao, người mẹ từng dặn con: Con ơi nhớ lấy câu này / Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua. “Buổi đò đông” không chỉ có những lời phàn nàn, mè nheo, cáu gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc, hiểm nguy. Hai câu thực đối nhau về từ ngữ (“khi quãng vắng” đối với “buổi đò đông”) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vả gian truân của bà Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn bả trong hoàn cảnh chen chúc làm ăn. Hai câu thực nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương: tấm lòng xót thương da diết.

Cuộc sống vất vả gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của bà Tú. Bà là người đảm đang tháo vát:
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý. Từ “đủ” trong “nuôi đủ” vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bà Tú nuôi đủ cả con, cả chồng, nuôi bảo đảm đến mức: “Cơm hai bữa: cá kho rau muống - Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô” (Thầy đồ dạy học).

Trong hai câu luận. Tú Xương một lần nữa cảm phục sự hi sinh rất mực của vợ: Năm nắng mười mưa dám quản công, ở câu thơ này, “nắng mưa” chi sự vất vả, “năm mười” là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cùng bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Khi đã thấy rồi thì ấn tượng thật sâu đậm. Ở bài thơ Thương vợ cũng vậy. Ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ, về câu thơ “Nuôi đủ cả năm con với một chồng”, có người cho rằng ở đây ông Tú tự coi mình là một thứ con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mà tách mình riêng, con riêng rất rạch ròi là để ông tự đứng riêng ra tri ân vợ.

Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hi sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân, ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. Ông chửi thói đời bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phái khổ. Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông đối với vợ con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Câu thơ Tú Xương tự rủa mạt mình cũng là lời tự phán xét, tự lên án:
Có chồng hờ hững cũng như không.
Ở cái thời mà xà hội đã có luật không thành văn bàn đối với người phụ nữ: “xuất giá tòng phu” (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì “phu xướng, phụ tuỳ” (chồng nói, vợ theo), thế mà có một nhà nho dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là quan ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao.

Nhan đề Thương vợ chưa nói hết được sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thư Tú Xương, ở bài thơ này, tác giả không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mà còn tự trách. Nhà thơ dám tự nhận khuyết, điểm, càng thấy mình khiếm khuyết càng thương yêu, quý trọng vợ hơn.

Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn đạt bằng hình ảnh và ngón ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tó hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với moi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.

haha
134.46
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Phân tích bài thơ “Thương vợ”

Ông Tú tỏ lòng thương vợ bắt đầu bằng sự tính công. Đúng hơn là sự biết ơn, sự biết ơn sâu sắc công lao bà Tú:

Quanh năm buồn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Ông Tú nói chuyện bà Tú buôn bán để nuôi con và nuôi mình. Cách nói đáng lưu ý. Một năm có 365 ngày. Chả nhẽ bà chạy chợ hết cả 365? ít nhất bà cũng có mấy ngày nghỉ Tết nhất giỗ chạp hoặc về bên ngoại thăm bố mẹ, em út... nhưng ở đâỵ ông Tú vẫn tính tất cho bà trọn 365 ngày, trọn cả quanh năm, mà “quanh năm” tức là “quanh nam” rồi lại “quanh năm”... Cách nói như là sự xô bồ, cường điệu của chuyện văn chương, trong trường hợp này chính là sự bày tỏ lòng biết ơn bà Tú một cách triệt để. Người dân lao động xưa, muốn nói cảnh làm ăn cơ cực của mình – cũng một cách triệt để để tạo ra thành ngữ “quanh năm tận tháng” bên cạnh thành ngữ “đầu tắt mặt tối”. Ông Tú học cách nghĩ, cách nói đó của quần chúng để ghi công lao của bà Tú về mặt thời gian lao động. Còn cái nơi mà bà Tú buôn bán? – “ở mom sông”. Có người ghi chú rằng: “Mom sông là nơi đất nhô ra sông(?).Mom sông Vị là vùng đất gần làng Phù Long, ở chỗ nhà máy nước thành phố Nam Định bây giờ”, Có người còn cho biết thêm: Mom sông Vị là nơi đầu chỗ sông Vị Hoàng chảy thông ra sông Nam Định. Thời sông Vị Hoàng chưa bị lấp thì mom sông này là nơi buôn bán của bà con tiểu thương, thuyền bè qua lại hay đậu ờ đấy. Bà Tú có ngôi hàng buôn chung gạo với người khác ở mom sông đó. về sau, sông Vị Hoàng bị lấp. Chốn buôn bán của bà Tú cũng tàn lụi theo. Nhưng như Xuân Diệu nhận xét (ngay khi sông Vị Hoàng chưa bị lấp): “ở mom là cheo leo, chênh vênh chứ không phải ở một cái bến ngang sông tấp nập bình thường. Cảnh ngộ làm ăn như thế mà bà Tú vẫn “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Tất cả những sáu miệng ăn, trừ bà Tú chưa tính. Thành tích này, nói là bà Tú tần tảo vất vả, nói là bà Tú vị tha, cao cả thì cũng là tần tảo vất vả, cũng là vị tha, cao cả hết mực. Nhưng ở đây, nói sự việc là bất công, vô lí thì củng là hết mực vô lí bất công. Đẻ con ra, có ít đâu. Những năm đứa. Phải nuôi chúng nó khôn lớn. Trách nhiệm đó là của bà Tú. Dĩ nhiên rồi. Nhưng anh chồng “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu, Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” đâu? Thì ở đây làm gì có. ông Tú không phải loại chồng đó, Ông là loại chồng “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm” loại chồng “Thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”, ông Tú không cùng bà nuôi con đã đành. Mà như có kẻ ác khẩu đã châm biếm: ông còn là một “thứ con” đặc biệt để bà Tú phải nuôi riêng! Đoảng thế là cùng! Chế độ xã hội cũ đã sản sinh ra loại ông chồng đoảng, loại ông chổng “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm” như ông Tú không ít.

Nhưng ở ông Tú, có một điều này là khác, là rất khác: Ông tỏ ra biết nhận lỗi, biết đền bù lại bằng cái tình, bằng tấm lòng. Cái thái độ của Tú Xương trở nên dễ thương ở điểm này. Bài thơ của Tú Xương hay bắt đầu từ điểm này. Ông nói chuyện bà Tú nuôi con đã đành, mà còn là nuôi mình, nói theo kiểu nói toạc, không một chút ngượng bút, ngượng miệng, lại như vừa nói vừa tủm tỉm cười, tự trách sao mình vô tích sự, lại để vợ phải nuôi. Việc nuôi chồng của bà Tú, có thể là ông chưa xem là sung sướng. Cái cảnh “Cơm hai bữa; cả kho rau muống; quá một chiều: khoai lang lúa ngô” thì có gì là sung sướng, chắc còn xa sự sung sướng. Nhưng xem ra ông Tú đã không dám đòi hỏi gì hơn. Ông đã thấy vui, đã ra vẻ bằng lòng, và đặc biệt là đã cảm cái ơn của bà Tú lắm lắm rồi. Và do như thế mà ngay trong cặp thơ đề, hình ảnh bà Tú đã thấp thoáng hiện lên lớn, đẹp vô cùng. Cả đám cha con ông Tú sống trong sự cưu mang của bà Tú, tựa như đàn gà con đang được “mẹ gà ấp ủ”. Văn chương chữ nghĩa của ông Tú ở đây đơn giản mà thân tình đến kỳ lạ, có sức gợi phong phú vô cùng. Ông nói: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, nói như nói chơi mà ý tình sâu nặng, chân thành biết bao nhiêu. Ông Tú không gộp sáu cha con lại mà nói. Ông nói “năm con” riêng, “một chồng” riêng. Như thế là vì con ơn mẹ là chuyện con với mẹ đã đành. Còn phần ông, ông chịu ơn vợ thì ông phải nói riêng ra cho thật rõ, nói riêng ra để khỏi mập mờ dù là một chút. Cũng như trong ý thơ, ông không tính đến bà Tú. Chỉ nói chuyện bà “nuôi đủ năm con với một chồng”. Không tính đến bà thì cái lòng vị tha, cái công lao của bà càng thêm rõ. Mà cái lòng tri ân của ông – thay mặt cả lũ trẻ con năm đứa nữa – đối với bà Tú cũng càng rõ thêm.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Hai câu thực gợi lên cảnh làm ăn vất vả, tội nghiệp hàng ngày của bà Tú. Chẳng hay ông Tú dã đón nhận câu ca dao “Con cò lặn lội bờ sông, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”, từ bao giờ? Qua tiếng ru con của một bà mẹ láng giềng hay chính là ru Trần Tế Xương của bà cụ Nhuận? Chắc chắn từ “Con cò lặn lội bờ sông”, hình ảnh những bà vợ Việt Nam ngàn xưa trong xã hội cũ, ngược xuôi tần tảo, gian nan cực nhọc để nuôi chồng con cũng từ lâu đã đi vào hồn thơ giàu rung động của Tú Xương với bao nhiêu xót xa thương cảm. Để giờ đây, trong lúc nghĩ đến bà Tú thì con cò ấy bỗng vụt dậy vỗ cánh bay và thi hứng Thương vợ của Tú Xương. Ca dao xưa nói: “Con cò lặn lội bờ sông”, trông đã vất vả, tội nghiệp. Con cò của ca dao lặn lội bờ sông. Khung cảnh đã mênh mông, heo hút đến rợn người. Trong thơ ông Tú, có cái rợn ngợp của không gian, lại còn thêm cái rợn ngợp của thời gian. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Chép như thế, dễ thường mất đi cái hoang vắng của thời gian làm mất đi cái khối hình của ý thơ. Ca dao nói: “Con cò lặn lội”. Tú Xương chuyển lại thành “lặn lội thân cò”. Hai từ “lặn lội” chen lên đứng đầu câu. Cảnh lặn lội lại càng lặn lội. Ca dao nói con cò, Tú Xương nói “thân cò”. Ý thơ cứ xoáy sâu vào sự cực khổ. “Thân” trong ngôn từ văn chương tiếng Việt trước hết là chỉ cái thân thế con người “Vai năm tấc rộng thân mười thước cao”. (Truyện Kiều). Nhưng còn là chỉ một đời người, một kiếp người “Thân này ví đổi thành trai được, sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu” – Hồ Xuân Hương: “Thân lươn bao quản lấm đầu, chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa” (Truyện Kiều) mà nói chung trong văn học xưa là đau khổ, là ê chề, tủi cực. Tú Xương đã nghĩ kiếp đời bà Tú bằng thứ ngôn ngữ có độ dày của giời gian, của truyền thống đó. Trong câu thơ, “thân cò” không “khóc nỉ non”. Bởi ở đây sự gian khổ đang được nén xuống. Nhưng càng nén lại càng đau. Câu thơ đó vẫn bị rỉ rả tiếng khóc cho thân cò. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Tú Xương đã nâng cái tầm khái quát con cò trong ca dao từ ngàn xưa lên một mức để nói cho hết tấm lòng thương cảm da diết của mình đối với cuộc đời làm ăn vất vả của bà Tú. Câu thơ trở thành như một bức hoạ phác thảo về một người dàn bà mỏng manh, gầy guộc, lúi húi một mình kiếm sống giữa cuộc đời trơ trụi. Cái cảnh bà Tú lặn lội sớm khuya để nuôi chồng nuôi con giữa cái thời buổi “sống chết mặc bây”, cái thời buổi nghĩa tình đã bạc quá vôi, chính là người đàn bà trong bức hoạ phác thảo đó.
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Ý tình của thơ đúng là đang triển khai. Câu thực thứ nhất mới nói cái vất vả, cái cô đơn. Câu thực thứ hai này nói rõ thêm cái vật lộn. Vật lộn là có chuyện đụng chạm đến người chung quanh, đến xã hội rồi. Có sách chú thích: “Cứ buổi trưa hay chiều có chuyến đò chở những người đi buôn gạo ở những chợ Thông, chợ Quán (bên kia bên Tân Đệ) về quán bánh dày ở đầu tỉnh Nam là nơi bán gạo. Quán bánh dày quen gọi là “Mom”, những người này thường eo sèo với nhau là bán đắt bán rẻ. Có sách lại chú thích: “Eo sèo là kỳ kèo mặc cả, cãi cọ nhau”. Đúng đây chưa phải là cảnh cạnh tranh cướp giật gì nhau ghê gớm, càng chưa phải cái cảnh “cá nuốt cá”, “tre buộc tre” trong bọn thống trị với nhau và giữa bọn thống trị đối với dân lao động bị áp bức trong xã hội đó. Cảnh làm ăn của lớp tiểu thương như bà Tú với nhau trong xã hội cũ về bản chất không có như vậy. Ở đây, trước hết, chỉ mới là sự chen chúc. Vì cái sống mà phải chen chúc. Chen chúc với nhau trên những chuyến đò đưa khách sang sông. Chật hẹp, bấp bênh, mỏng manh, chơi vơi quá chừng! Và dường như sông nước càng mênh mông bao nhiêu thì cái độ chơi vơi, mỏng manh, bấp bênh đó lại càng tăng lên bấy nhiêu. Và tội nghiệp bà Tú. Hẳn đã có lần bà nghe mẹ dặn: “Con ơi, mẹ dặn câu này, sông sâu chớ lội đò đầy chớ khoan sang” (ca dao).

Ấy thế mà bây giờ, vì cuộc sống của chồng con mà con gái của mẹ vẫn bất chấp, vẫn phải liều lĩnh để sang sông “buổi đò đông”. Lời mẹ dặn, có thể vì cuộc sống mà quên. Hoặc nhớ nữa, nhưng biết làm sao hở mẹ? Cuộc sống trong xã hội bất công khắc nghiệt với con người đến thế. Bọn bóc lột, ngồi mát ăn bát vàng, sống trên mồ hôi nước mắt của người bị trị.

Người dân lao động luôn luôn bị cái quy luật cạnh tranh sinh tồn, đặc biệt là cái quy luật bần cùng hoá của chế độ thực dân nửa phong kiến uy hiếp, nên lắm lúc vì cái ăn cái mặc hàng ngày của gia đình mà buộc phải liều lĩnh, phải bực dọc, phải cau có, phải mè nheo, phải chen lấn... thì cũng là điều thường tình, dễ hiểu và đáng thương hơn đáng trách. Sự tha hoá của con người có khi chính là bắt đầu từ những dấu hiệu đó. Tú Xương nhận biết sâu sắc cái hiện thực phũ phàng, bất nhân đó mà càng xót xa thương vợ khi viết câu thơ trên:
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Trong ấn tượng của ông Tú, kiếp sống của bà Tú thật là căng thẳng, nặng nhọc. Một cuộc đời, một kiếp sống như thế mà không sinh ra vật vã, dằng dặc với nó sao chịu được. Tú Xương nói chuyện ông bà lấy nhau, chuyện bà Tú lấy ông Tú. Kể cũng là cái duyên, về tư cách làm chồng thì quả là ông còn nhiều khuyết điếm. Nhưng chẳng gì thì ông cũng có chân Tú Tài để may khỏi tiếng “cha cu”. Ông cũng hào hoa, cũng duyên dáng, cũng thơ phú lừng danh, đặc biệt là đối xử với bà Tú cũng tử tế, cũng nhiều lúc đùa vui, tình tứ. Còn về đường con cái, thì “Trời cho” cũng “năm con” rồi. Một cảnh chồng con như thế, bình thường không đáng gọi là duyên sao. Nhưng ở đây, sao đã nói đến “một duyên” rồi lại nói đến “hai nợ”? Nghe lại nặng nề, chua chát, éo le, thậm chí còn như dằn vặt, vật vã nữa. Trước hết có vấn đề chữ nghĩa nên hiểu thế nào? “Một duyên hai nợ”, một hai là số chỉ thứ tự hay số lượng? Có lẽ cái âm hưởng dằn vặt của câu thơ này và cả cái lối nói cũng theo kiểu tăng cấp, bồi thán (năm nắng mười mưa) trong luật đối của câu thơ sau, dễ khiến ta hiểu theo nghĩ thứ hai. Và như thế thì ý thơ muốn nói: duyên thì có một mà nợ lại thành hai. Trở lại nguồn gốc xa xưa của chữ nghĩa thì đúng là giáo lý của đạo Phật đã nói đến túc trái tiền duyên. Đạo Phật – quan niệm rằng sự vật, con người có quan hệ với nhau ví như vợ chồng lấy nhau là do có cái duyên từ kiếp trước. Và như thế thì cái duyên cũng là cái nợ từ kiếp trước mà con người ở kiếp này phải trả. Duyên và nợ, theo quan niệm đó của đạo Phật thành ra như một. Trong văn học chịu ảnh hưởng của đạo Phật, từ lâu cũng nói đến duyên nợ “Ví chăng duyên nợ ba sinh, làm chi đem thói khuynh thành trêu người”. (Truyện Kiều). Nhưng cũng từ lâu, trong văn học và trong ngôn ngữ dân gian đã có hiện tượng dân gian hoá quan niệm về duyên nợ theo hướng làm mờ nội dung triết lý siêu hình của nó và muốn tách duyên riêng nợ riêng. Nói đến duyên là nói đến sự may mắn, thuận chiều. Nói đến nợ là nói đến sự đau khổ, phải chịu đựng. Ở Tú Xương trong trường hợp này, xu hướng dân gian hoá đó dường như dẫn đến một sự tách chia đã khá rạch ròi duyên và nợ. Câu thơ của Tú Xương muốn nói: Cuộc đời của bà Tú “duyên” thì có một mà “nợ” thì đến hai, nghĩa là một cuộc đời oái oăm, cay đắng mà đành cam phận. Tú Xương thương xót cho cuộc đời đó mà thành ra dằn vặt thay, vật vã thay. “Một duyên hai nợ âu dành phận”. Âm hưởng của câu thơ đúng là âm hưởng dằn vặt, vật vã. Và nói là “đành phận” thì đúng lại là vừa cam chịu vừa như không muốn cam chịu. Cái ý có vẻ như ngược chiều nhau này chính là tâm trạng của Tú Xương trong khi nghĩ đến cuộc đời của bà vợ. Cái sự thật khách quan chua chát và tâm trạng chủ quan thương vợ của ông Tú xen lẫn trong ý thơ. Hai câu luật vừa nổi lên hình ảnh bà Tú vị tha, cao cả vừa ngầm chứa ý nghĩa tố cáo xã hội đương thời, cái xã hội ma quái đã dồn những con người chịu thương chịu khó như bà Tú đến bước cơ khổ, quằn quại, có duyên mà không vui được với duyên. Duyên có một mà nợ những là hai, vui sao được.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Không vui được, đã đành. Còn phải phát khùng lên với nó. Bài thơ đã kết lại bằng một tiếng chửi mát. Nhìn cuộc đời bà Tú như thế, có chửi cũng là điều dễ hiểu. Nhưng ở dây, ai chửi, chửi ai? Và chửi cái gì? Thì vẫn là ông Tú thương xót cho bà Tú mà chửi thay cho bà Tú. Chứ bà Tú mà dư luật thành Nam đã hằng khen là chịu thương chịu khó, tần tảo nuôi chồng nuôi con, bà Tú “năm nắng mười mưa dám quản công” hẳn có bao giờ lại chửi như thế. Ông Tú đã chửi mát chính ông Tú về cái tội “ăn ở bạc”, cái tội làm chồng mà “hờ hững cũng như không”, làm chồng mà để vợ phải trăm cơ nghìn cực như thế! “Có chồng hờ hững cũng như không” chữ nghĩa của Tú Xương ở đây lại cũng buột ra quá cái mức tự nhiên và giản dị nhưng ý tình lại cũng sắc biết bao nhiêu, cảm động bao nhiêu. Ngày trước, Thuý Kiều trong buổi trao duyên, tự nhiên cứ cố buộc vào mình cái tội phụ chàng Kim Trọng “Vì ta khăng khít cho người dở dang”, “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” (Truyện Kiều) mà thực ra, Kiều đâu có phụ. Ở đây, Tú Xương đối với bà Tú, nói là không giúp đỡ bà Tú được gì thì đúng, chứ nói “ăn ở bạc” với bà Tú thì đâu đã đến thế. Và nói là “hờ hững” thì cũng một mặt thôi, chứ đâu tất cả là “hờ hững”, đến mức là kết tội là “ăn ở bạc”. Đúng là giữa Thuý Kiều và Tú Xương, hai cảnh ngộ khác nhau rất xa, nhưng nhân cách lại có mặt giống nhau. Đó là nhân cách của những con người biết yêu thương cho người khác hơn mình biết nghĩ cho người khác hơn mình. Thuý Kiều là cho người yêu. Tú Xương là cho bà vợ. Tú Xương càng thương, càng nghĩ đến bà Tú bao nhiêu thì càng thấy mình “ăn ở bạc, càng thấy mình “hờ hững” bấy nhiêu. Đọc đi dọc lại câu thơ cứ thấy nhói lên một lời tự phán, một lời thương cảm của ông Tú. Nhớ lại xã hội thời ông Tú, trong tầng lớp của ông (thậm chí cả trong nhân dân lao động một phần) có khối gì anh chồng lêu lổng chỉ quen hách dịch, ăn bám vợ, không thoả mãn thì giở trò dã man đánh vợ. Ít tệ bạc hơn thì cũng ăn bám vợ mà chẳng bao giờ biết nghĩ mình ăn bám. Người vợ đối với họ, thực tế đã bị biến thành một thứ “nô lệ”, một thứ nô lệ đặc biệt, một thứ nô lệ mà không bị gọi là nô lệ, vẫn được gọi là bu nó, bà nó, thế thôi. Cho nên, thái độ, tình ý của thơ của Tú Xương ở đây quả là đáng quý, khiến cho mọi người dễ cảm thông.

Tú Xương tự phán, tự rủa mà vô hình trung lại để lộ rõ thêm nhân cách của mình, mà vô hình trung lại tự rũ bỏ được con người phong kiến, con người Nho gia trong mình để cho một Trần Tế Xương ân tình, một Trần Tế Xương nhân ái, một Trần Tế Xương nhân dân hiện lên, đáng quý biết bao nhiêu. Nhưng ở đây, Tú Xương chửi mình đã đành, lại còn chửi lây sang cả cái “thói đời” cái “thói đời ăn ở bạc”. Trong cái “thói đời ăn ở bạc” ấy, có anh “chồng hờ hững cũng như không” là ông Tú, nhưng còn bao nhiêu thứ khác đáng chửi hơn. Cái tiếng chửi của Tú Xương lại chính là muốn hướng vào cái “thói đời ăn ở bạc” nói chung đó. Nghe lại tiếng chửi của Tú Xương. Đúng là ông đang thay bà Tú mà chửi cả cái “thói đời ăn ở bạc”, nghĩa là cả cái xã hội thực dân nửa phong kiến bất nhân đương thời. Cái xã hội đó đẻ ra cái thói đời đó. Cái thói đời đó là bạc bẽo, là đểu cáng, là chen lấn, là cướp giật, là sống chết mặc bây... để những người lương thiện như vợ ông Tú, tần tảo mà vẫn đói nghèo, thương chồng con mà thành khổ cực, có duyên mà không vui nổi với duyên. Cái “thói đời” đó, Tú Xương không chửi vung lên sao yên. Tú Xương là bậc “thần thơ”, “thánh chữ”. Tú Xương chỉ chửi một tiếng, có vẻ như chửi mát, chửi bâng quơ, chửi cái anh “chồng hờ hững” là mình, mà hoá ra lại là chửi cả cái xã hội, chửi cả cái đời bấy giờ. Nói chữ nghĩa nhưng chính là nói thái độ. Vấn đề bài thơ đặt ra không chỉ còn là vấn đề thái độ của Tú Xương đối với người vợ của mình mà đã mở rộng sang vận đề thái độ của Tú Xương đối với xã hội. Vai trò của các câu kết trong thơ Tú Xương thường làm nhiệm vụ nâng cao, mở rộng ý nghĩa xã hội của nội dung thơ như vậy. Nói kết nhưng lại là mở, chính là như vậy.

Bài thơ Thương vợ là tất cả tấm lòng biết ơn sâu sắc, là niềm thương cảm da diết của Tú Xương đối với cuộc đời cần mẫn, nhân ái nhưng vất vả cực nhọc của bà Tú. Mặt khác, cũng là sự tự phán, sự hối hận rất mực chân thành của Tú Xương về những thiếu sót của mình đối với vợ, và đặc biệt cũng là thái độ của Tú Xương oán đời, giận đời bạc bẽo, gây khổ cực cho những người chân chính như bà Tú. Cảm xúc nghệ thuật của Tú Xương vừa có cái độ dày của cảm xúc truyền thống, của nhân dân, của văn học dân gian, vừa nóng hổi cái cảm hứng thời cuộc của ông. Qua bài thơ Thương vợ, hiện lên một bà Tú chưa phải là một bậc nghĩa liệt, nhưng là một người vợ, một người mẹ Việt Nam với bao nhiêu phẩm chất cao quý: Chịu thương chịu khó, hy sinh tất cả cho chồng cho con mặc dù cuộc đời phải ngược xuôi tất tả, tủi nhục, đắng cay. Thơ Thương vợ của ông Tú, chữ nghĩa giản dị mà ý tình lại sâu nặng.

Đặt bài Thương vợ vào trong lịch sử thơ cả cũ mà đối chiếu, lại càng thấy nó đáng quý bao nhiêu. Suốt thời đại phong kiến, trong văn học viết, hỏi đã mấy ai trực tiếp làm văn thơ về người vợ của mình, trừ lúc vợ chết mà họ thường làm văn tế. Hai trường hợp; Ngô thi sĩ viết Khúc ai lục, Phạm Nguyễn Du viết Đoạn trường lục là quả đặc biệt mà chính hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XVIII đã cho phép. Sự sụp đổ tan tành của chế độ phong kiến Lê – Trịnh – Nguyễn, sự trỗi dậy mãnh liệt của trào lưu tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa của quần chúng, đã đề ra Đoạn trường lụcKhúc ai lục. Nhưng sau đó, trong hoàn cảnh lịch sử đầu thế kỷ XIX cũng không còn những tác phẩm như vậy ra đời nữa. Trước sau Tú Xương một ít, có Nguyễn Khuyến, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, đều có thơ văn khóc vợ. Có nhiều trường hợp khá chân thành, thắm thiết, nhưng nói chung vẫn chưa ai làm thơ văn về vợ, đặc biệt là khi vợ chồng đang sống với nhau kiểu Tú Xương. Phải chăng hệ ý thức phong kiến đã không cho phép những bà vợ Việt Nam xưa trở thành đề tài trong thơ văn của chính những ông chồng của họ?. Ở phương diện này, có lẽ Tú Xương thành ra một trường hợp mới mẻ, độc đáo của văn học. Bài thơ Thương vợ cũng thành ra một hiện tượng đặc sắc, quý báu của lịch sử văn học dân tộc.


Giáo sư, nhà giáo nhân dân Nguyễn Đình Chú
tửu tận tình do tại
104.40
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Cảm nhận về bài thơ “Thương vợ”

Hình ảnh của người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở cho nền văn chương kim cổ Việt Nam. Tuy nhiên, thơ văn viết về người vợ bằng tình cảm của một người chồng đã ít nay lại viết về người vợ đang sống lại còn hiếm hoi hơn. Và Trần Tế Xương là một trong những bậc thức giả hiếm hoi của nền thơ ca trung đại Việt Nam đã đưa hình ảnh người vợ tần tảo của mình ngay khi bà vẫn còn là một đoá hoa tươi tắn trên đường đời vào những dòng thơ trữ tình nhưng cũng không kém phần trào phúng làm bật lên được đức hi sinh đảm đang, tấm lòng tháo vát chịu thương chịu khó của người bạn đời, bà Tú, qua đó cũng thể hiện tấm lòng tri ân đến người vợ của mình:

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Trần Tế Xương, thường gọi là Tú Xương, sống trong buổi giao thời đầy nghèo khổ nửa thực dân Pháp – nửa phong kiến. Ông là người thông minh, ham học, hào hoa, phóng túng, có tài làm thơ hay nhưng lại lận đận trên con đường thi sử và nổi tiếng chủ yếu ở hai mảng thơ: trào phúng và trữ tình có pha chút giọng cười chân biếm sắc xảo bắt nguồn từ tâm huyết với dân, với nước, với đời. Ông từng được mệnh danh là nhà thơ trào phúng xuất sắc của văn học Việt Nam giai đoạn cuối thể kỉ XIX.

Kho tàng thơ văn của Tú Xương tuy không nhiều chỉ với 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ như thất ngôn bát cú đường luật, lục bát,... và một số bài văn tế, phú, câu đối... nhưng có nhiều bài rất đặc sắc, đạt đến trình độ tuyệt mĩ về cả nội dung và nghệ thuật và được xem như những bài thơ bất tử. Minh chứng rõ ràng nhất đó là thi phẩm Thương vợ được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đề cập đến nhiều khía cạnh trong xã hội, đồng thời cũng là tiếng lòng tha thiết, sự tri ân đầy xót xa của Tú Xương – nạn nhân của xã hội lố lăng, đảo điên biến con người trở thành vô tích sự với chính mình và gia đình, đối với bà Tú, qua đó, người đọc cũng phần nào thấy được những đức hi sinh to lớn của những người phụ nữ lúc bấy giờ hay của bà Tú đối với người chồng của mình.

Mở đầu tác phẩm, Tú Xương giới thiệu về hoàn cảnh và công việc mưu sinh của bà Tú, qua đó bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với người vợ tảo tần sớm mai của mình:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Mạch cảm xúc của thi phẩm dần dần mở ra với bức tranh toàn cảnh đầy nỗi khó nhọc, lo toan của bà Tú – tên thật là Phạm Thị Mẫn. Tác giả đã sử dụng “Quanh năm” – cụm từ chỉ một khoảng thời gian trường kì lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn khép kín của tự nhiên để cực tả nỗi vất vả triền miên của bà Tú trải dài hết ngày tháng này sang ngày tháng khác, năm này qua năm nọ mặc cho nắng gắt hay mưa rào vẫn không bỏ xót giây phút nào cả. Chỉ có thế thôi cũng đủ để lại trong lòng độc giả một ấn tượng khó phai về hình ảnh người vợ đầu tắt mặt tối chu toàn mọi sự trong gia đình như bà Tú. Chưa dừng lại ở đó, cách cân đo, đong đếm như thế của thời gian còn góp phần làm bật lên cái không gian, địa điểm bán buôn của bà Tú thông qua hình ảnh “mom sông”. Địa thế “mom sông” rất trắc trở, đầy rẫy những hiểm nguy khôn lường bởi lẽ đó chỉ là một doi đất nhô ra phía lòng sông nơi người làng chài thường tụ tập buôn bán nên những khi tiết trời khắc nghiệt, địa thế chênh vênh mỏng manh kia sẽ dễ sạt lở, gây nhiều khó khăn cho bà Tú. Khó khăn là thế, gian nan là vậy nhưng bà Tú vẫn mạnh mẽ vượt qua, luôn luôn cố gắng để cho gia đình được ấm no:
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Với giọng thơ hóm hỉnh cùng tài năng trong nghệ thuật thơ trào phúng, câu thơ thứ hai như lời lên án gay gắt xã hội phong kiến xưa đã biến những người đàn ông vốn là những trụ cột vững chắc trong gia đình thành những kẻ vô tích sự chỉ biết sống dựa vào vợ, mà đặc biệt là “ăn lương vợ:
Trống hầu chưa dứt bố lên thang,
Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ.
(Quan tại gia – Trần Tế Xương)
Đôi vai của bà Tú đã nặng nay còn nhân lên bội phần khi bà “bất đắc dĩ” trở thành trụ cột chính trong gia đình. Hai chữ “Nuôi đủ” là vừa đủ, vừa đủ nuôi, không thiếu mà cũng không thừa vang lên tạo cho câu thơ một âm điệu trang trọng nhưng cũng không kém phần tự hào gợi tả sự đảm đang tột cùng nơi bà Tú khi chỉ với công việc buôn bán “quanh năm” ở nơi “mom sông” chênh vênh, nguy hiểm mà bà vẫn có thể đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần đầy đủ cho “năm” đứa con và người chồng của mình. Bên cạnh đó, cách đặt hai danh từ số đếm “năm” và “một” song song với nhau tưởng chừng như khập khiễng nhưng lại rất độc đáo và mới lạ. Tú Xương tự chế giễu mình khi so sánh bản thân ngang hàng với “năm đứa con thơ” vì ông là một “đứa con đặc biệt” ngầm nâng cao vị thế người vợ tảo tần của mình lên một thứ bậc thiêng liêng khác như một người “mẹ hiền” để có thể đề cao công lao của bà Tú một cách chí lí và chuẩn xác nhất. Hơn thế nữa, cấu trúc “năm” – “một” cùng liên từ “với” chất chứa bao nỗi hổ thẹn, buồn bã đã khắc hoạ nên chiếc đòn gánh mà ở giữa là đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của người phụ nữ chịu thương chịu khó còn hai bên đều trĩu nặng với “năm con” và “một chồng” nhưng dường như sự khó khăn lại nghiêng lệch về phía người chồng vô tích sự nhiều hơn vì chế độ “trọng nam khinh nữ” rẻ rúng trong xã hội cũ. Có thể nói, bà Tú “nuôi đủ” cho Tế Xương không chỉ chu toàn cho ông “chăn ấm, nệm êm” mà còn lo cho ông đủ thứ cao sang tốn kém khác để khiến ông phải nở mài nở mặt vì suy cho cùng, Tế Xương vẫn là một tú tài, là người có chí thi cử công danh:
Biết thuốc lá, biết chè tàu,
Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi.
(Hỏi ông trời – Trần Tế Xương)
Hay:
Hôm qua anh đến chơi đây,
Giày “giôn” anh dận, “ô Tây” anh cầm.
(Đi hát mất ô – Trần Tế Xương)
Hai câu đề mở đầu thi phẩm tuy chỉ gói gọn trong mười bốn chữ nhưng đã thể hiện được tất cả những đức tính cao đẹp nơi bà Tú với sự chịu thương chịu khó, tần tảo không quảng nắng mưa để chu toàn mọi việc trong gia đình. Qua đó, Tú Xương cũng khéo léo thể hiện sự biết ơn của mình đối với bà Tú, đồng thời cũng phần nào miêu tả sự hổ thẹn của tác giả khi là một đấng nam nhi mà lại không thể làm gì giúp đỡ vợ đến nỗi phải đặt mình trong mối tương quan với “năm đứa con thơ”. Thật xót xa!

Thấu hiểu được những nỗi lo toan, vất vả của người vợ vĩ đại của mình, Tú Xương liên tưởng đến hình ảnh “con cò” năm xưa trong ca dao:
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
(Ca dao)
để cực tả nỗi khổ tâm mà bà Tú đang trải qua trong hai câu thực:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Tú Xương sử dụng “thân cò” chứ không phải “con cò” như trong ca dao xưa vừa thể hiện được cá tính riêng, sự sáng tạo mang tính chất thời đại trong phong cách thơ ca của thi sĩ, vừa đồng nhất thân phận của bà Tú nói riêng và người phụ nữ nói chung với hình ảnh gầy guộc của “con cò” để nói lên sự cơ cực trong cuộc sống của một người phụ nữ trụ cột. Tiếp đó, chữ “thân” tuy đơn giản nhưng nghe sao cay đắng quá, nó luôn gợi cho mọi người về một thứ gì đó nhỏ bé tội nghiệp đến vô cùng. Và khi xưa, nhà thơ Hồ Xuân Hương cũng đã từng ngậm ngùi trên trang giấy khi nói đến chữ “thân” bạc mệnh:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
(Bánh trôi nước)
“Khi quãng vắng” là một cụm từ rất đặc biệt vì nó không chỉ gợi lên cái không gian rợn ngợp cảm giác đơn lẻ đầy nguy hiểm rình rập nơi bờ sông heo hút, giá lạnh lúc bấy giờ mà còn diễn tả sâu sắc nỗi khắc khoải về thời gian của sự tảo tần và một khi được song hành cùng với biện pháp nghệ thuật đảo ngữ của từ láy “lặn lội”, hình ảnh giản dị, chất phát của người phụ nữ gầy guộc chân trần mưu sinh nơi rừng sông núi bãi vào ban đêm – thời gian mà những người phụ nữ khác đang hạnh phúc bên chồng con, đang tận hưởng những giấc ngủ say, hằng mong có thể kiếm thêm thu nhập để trang trải cuộc sống càng trở nên nổi bật và chói lọi hơn trong khung cảnh hiu quạnh đến ghê sợ nơi doi đất chênh vênh.

Nếu như câu thơ thứ ba gợi nỗi cực nhọc đơn chiếc thì câu thơ thứ tư lại là sự vật lộn đầy cam go của bà Tú giữa thời buổi mua bán đông đúc:
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một lần nữa, biện pháp nghệ thuật đảo ngữ lại được sử dụng trong lời thơ của Tú Xương nhưng với từ láy tượng thanh “eo sèo” gợi sự tấp nập, ồn ào để nhấn mạnh tính chất thường tình nơi chợ búa và sự lam lũ của người phụ nữ “năm con với một chồng”. Mặt khác, hình ảnh “buổi đò đông” cũng góp phần mạnh mẽ trong việc xây dựng hình tượng một bà Tú cần mẫn, tất bật và sự đông đúc, xô bồ đó đã từng được ca dao xưa nhắc đến:
Con ơi nhớ lấy câu này,
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.
Mặc dù văng vẳng bên tai là lời dạy chân tình của cha ông ta: “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng bà Tú vẫn cứ khăng khăng dấn thân vào cuộc chiến tranh âm thầm và dai dẳng của những lần đôi co “eo sèo”, chen chúc, tranh giành khách, phân mua với các gian hàng khác, bất chấp người qua kẻ lại đếm nhiều không xuể khi “đò đông” để bươn chải miếng cơm, manh áo cho chồng, con vì chỉ khi tấp nập như thế, cơ hội kiếm thêm thu nhập sẽ tăng vọt hơn “khi quãng vắng” cho dù phải chịu cảnh đau nhức khi “đầu đội trời, chân đạp đất”, tổn thương về thể xác khi bị dòng người xô ngã. Ôi! Quả là một người phụ nữ chan hoà tình yêu thương, bà đã đánh đổi cả bản thân mình mà chen lấn bán đi từng món hàng của mình để kiếm từng đồng tiền ít ỏi lo cho cuộc sống gia đình mình, thật đáng khâm phục!

Bằng cách đảo những từ láy hô ứng vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu cảm “lặn lội”, “eo sèo” lên ngay vị trí đầu câu thơ kết hợp với hai hình ảnh đối nhau rất chỉnh “khi quảng vắng” – “buổi đò đông” trong hai câu thực, hình tượng người vợ tháo vát vã mồ hôi chỗ đông đúc vì phải giành giật, trào nước mắt nơi quạnh hiu khi tìm được khách hàng hiện lên với tất cả niềm tự hào của nhà thơ cả về thể chất mạnh mẽ lẫn tinh thần thép của bà Tú dù trong mọi hoàn cảnh khắc khổ nhất.

Đến với những câu thơ tiếp theo, Tú Xương như nhập vai vào chủ thể trữ tình nhằm mượn lời tâm sự của vợ để ngầm ca ngợi những công lao âm thầm vì chồng vì con mà bà Tú đang gồng gánh trên vai:
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Theo quan niệm phong kiến xưa, “duyên” và “nợ” là hai định nghĩa hết sức thiêng liêng về mối quan hệ vợ chồng do trời định sẵn, xuất phát từ số phận, từ sợi chỉ hồng của ông Tơ bà Nguyệt:
Kiếp người sao mãi long đong,
Ông tơ bà Nguyệt chỉ hồng se duyên.
Thế nhưng khi đi vào lời thơ của một bậc thức giả dè dặn kinh nghiệm như Tú Xương, định nghĩa đó dường như đã đánh mất đi tính chất quyền quý của mình mà trở nên nặng nề vô cùng như một lời than thở khi “duyên” thì chỉ có một mà “nợ” lại hai:
Chồng gì anh, vợ gì tôi,
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây.
(Ca dao)
Bên cạnh đó, cách sử dụng hai thành ngữ xưa song song với nhau “Một duyên hai nợ” – “năm nắng mười mưa” vừa đối nhau về từ: “một” – “hai”, “năm” – “mười”, vừa đối nhau về ý đã không những khiến cho nhạc thơ bỗng trầm lắng trước nỗi khổ tâm chồng chất ngày một dâng lên theo cấp số nhân của bà Tú mà còn thể hiện rất rõ tài năng văn chương điêu luyện của thi sĩ khi biết vận dụng triệt để giá trị của các thành ngữ cùng các con số mộc mạc để thiêng liêng hoá hình ảnh bà Tú. Có thể nói, dẫu có khó khăn muôn trùng, chông gai trước mắt, “nợ” nghiêng về mình nhưng bà Tú chưa một lần chùn bước mà chỉ gật đầu nhẫn nhục cho qua và ba tiếng đối ứng thượng, hạ: “âu đành phận”, “dám quản công” đã thể hiện được điều đó. Nguyên nhân dẫn đến sự cần cù, âm thầm đầy cam chịu của bà Tú tuy giản đơn nhưng cũng rất cao quý: đó là vì mối nhân duyên thiên định và vì tương lai của đàn con nhỏ. Quả là một người mẹ, người vợ giàu đức hi sinh!

Từ việc pha trộn lời thơ đan xen những thành ngữ đã đạt đến độ hoàn hảo về nội dung với các phép đảo ngữ cực tinh tế cùng các cấp số nhân rất thực và chuẩn xác, nhà thơ Tú Xương đã khắc hoạ thành công tấm chân dung một người vợ kết tinh đầy đủ đức hi sinh, sự nhẫn nại, sự tần tảo chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam truyền thống trong hai câu luận. Qua đó, ông còn ngầm ý bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người vợ thân thương của mình khi bà đã quên đi cái tôi mà gánh vác hết mọi trách nhiệm của một trụ cột trong gia đình. Thật vậy:
Có con phải khổ vì con,
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
(Kho tàng lục bát dân gian)
Vì quá thương vợ, quá thương cho phận đời nữ nhi mà lại sắm vai trụ cột, Tú Xương tự trách bản thân mình và thông qua đó cũng nói lên tiếng chửi vừa đắng cay vừa phẫn nộ cho định kiến khắt khe “trọng nam khinh nữ” đã biến ông thành một kẻ vô tích sự:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Mạch cảm xúc của thi phẩm dường như có sự chuyển biến đột ngột khi giờ đây, Tú Xương không còn “ẩn mình” sau những vần thơ để tán dương vợ nữa mà ông đã chịu xuất hiện để nói thay cho sự oán trách chồng, trách phận của bà Tú. “Cha mẹ thói đời” thật là một cách nói có phần thô cứng, xù xì nhưng lại rất phù hợp với phong cách thơ ca trào phùng của thi sĩ. Đó là sự giận đời, hận đời vì cái xã hội “Tây tàu lố lăng” lúc bấy giờ không cho phép ông san sẻ gánh nặng gia đình cùng vợ.

Thêm vào đó, ít ai biết được rằng đằng sau tiếng chửi đầy dứt khoát ấy lại là một bi kịch của một con người chất chứa bao niềm phẫn uất, đau xót và tê tái:
Có chồng hờ hững cũng như không.
Tú xương chửi “đời” nhưng cũng “tự chửi” mình, “tự chửi” cái thói sĩ diện của một đấng nam nhi đang trên đường công danh, thói gia trưởng chỉ biết ngồi than vãn sự đời, mà không biết được mọi người xung quanh đang khổ cực vì mình. Tú xương coi mình như kẻ vô tâm, “ăn ở bạc” với vợ con, luôn luôn “hờ hững” trong trách nhiệm và vai trò của một kẻ làm cha, làm chồng. Thật là “có chồng hờ hững cũng như không”! Thế nhưng nếu nhìn nhận lại sự việc một cách lạc quan thì Tú Xương không hề đáng trách mà lại rất đáng thương bởi suy cho cùng, chính xã hội lem luốt kia đã đẩy ông, một tài năng xuất chúng vào bước đường cùng khiến cho người vợ vốn thuộc dòng dỏi cao quý phải chịu khổ. Thật đau đớn!:
Con gái nhà dòng lấy chồng kẻ chợ
Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ
(Văn tế sống vợ – Trần Tế Xương)
Hai câu thơ khép lại tác phẩm là lời tự rủa mát mình của Tú Xương nhưng lại mang đậm ý nghĩa lên án xã hội sâu sắc góp phần khẳng định tình cảm của ông đối với bà Tú là vô bờ bến. Người chồng ấy tuy “ăn lương vợ” nhưng không hề “ở bạc”, “hờ hững” mà rất chu đáo, luôn dõi theo từng bước đi của bà trên đường đời và đặc biệt là luôn bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với vợ. Thi phẩm kết thúc thật bất ngờ: vừa thấm đượm cái bi, cái bất hạnh trong niềm riêng của tác giả, lại vừa dí dỏm, hài hước.

Nói tóm lại, bài thơ Thương vợ là một thi phẩm mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Với chất thơ bình dị mà trữ tình pha chút trào phúng, Tú Xương đã không những khắc hoạ nên một bức chân dung tuyệt đẹp về người vợ tảo tần, chịu thương chịu khó của mình mà còn thể hiện vẻ đẹp trong nhân cách của bản thân và hình ảnh bà Tú cần mẫn, đầy lo toan đó chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất của người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ: vừa mộc mạc, chất phát, vừa cứng rắn, mạnh mẽ.

tửu tận tình do tại
144.71
Chia sẻ trên FacebookTrả lời